What I want to tell you about today is how I see robots invading our lives at multiple levels, over multiple timescales. And when I look out in the future, I can't imagine a world, 500 years from now, where we don't have robots everywhere. Assuming -- despite all the dire predictions from many people about our future -- assuming we're still around, I can't imagine the world not being populated with robots. And then the question is, well, if they're going to be here in 500 years, are they going to be everywhere sooner than that? Are they going to be around in 50 years? Yeah, I think that's pretty likely -- there's going to be lots of robots everywhere. And in fact I think that's going to be a lot sooner than that. I think we're sort of on the cusp of robots becoming common, and I think we're sort of around 1978 or 1980 in personal computer years, where the first few robots are starting to appear.
Điều mà tôi muốn nói ngày hôm nay là cách mà tôi nhận thấy sự chế ngự của robot trong cuộc sống chúng ta ở nhiều mức độ, nhiều khoảng thời gian. Và khi tôi nhìn vào tương lai, tôi không thể tưởng tượng được một thế giới 500 năm sau mà không có robot ở mọi nơi. Giả sử -- mặc cho những dự đoán nghiêm trọng về tương lai từ rất nhiều người -- giả sử rằng chúng ta còn tồn tại, tôi không thể tưởng tượng được một thế giới thiếu robots. Và rồi câu hỏi sẽ là, vâng, nếu chúng sẽ tồn tại trong 500 năm nữa, vậy chúng sẽ tràn ngập mọi nơi sớm hơn thế hay không? Chúng sẽ có mặt xung quanh ta trong vòng 50 năm nữa hay không? Vâng, tôi nghĩ điều đó rất có thể xảy ra -- sẽ có vô số robots ở mọi nơi. Và thực tế thì tôi nghĩ rằng điều đó sẽ xảy ra sớm hơn thế. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ở đỉnh điểm khi robots trở nên phổ biến hơn, và tôi nghĩ chúng ta đang ở khoảng 1978-1980 trong những năm của máy tính cá nhân, khi những robot đầu tiên bắt đầu xuất hiện.
Computers sort of came around through games and toys. And you know, the first computer most people had in the house may have been a computer to play Pong, a little microprocessor embedded, and then other games that came after that. And we're starting to see that same sort of thing with robots: LEGO Mindstorms, Furbies -- who here -- did anyone here have a Furby? Yeah, there's 38 million of them sold worldwide. They are pretty common. And they're a little tiny robot, a simple robot with some sensors, a little bit of processing actuation.
Máy tính trở nên phổ biến qua games và đồ chơi. Và bạn biết không, chiếc máy tính đầu tiên mà hầu hết người dân có trong nhà có thể là một chiếc máy tính để chơi trò Pong, một bộ vi xử lý gắn bên trong, và sau đó thì nhiều trò chơi khác ra đời. Và chúng ta bắt đầu thấy robot cũng như vậy: LEGO Mindstorms, Furbies - ai ở đây có một con Furby? Vâng, có 38 triệu con Furbies được bán trên toàn thế giới. Chúng khá phổ biến. Và chúng là những con robot nhỏ xíu, loại robot với vài cảm biến, một chút năng lực xử lý thông tin.
On the right there is another robot doll, who you could get a couple of years ago. And just as in the early days, when there was a lot of sort of amateur interaction over computers, you can now get various hacking kits, how-to-hack books. And on the left there is a platform from Evolution Robotics, where you put a PC on, and you program this thing with a GUI to wander around your house and do various stuff. And then there's a higher price point sort of robot toys -- the Sony Aibo. And on the right there, is one that the NEC developed, the PaPeRo, which I don't think they're going to release. But nevertheless, those sorts of things are out there.
Ở góc phải là một con búp bê robot, thứ mà bạn có thể mua vài năm trước đây. Và cũng như những ngày đầu, khi có nhiều sự tương tác giữa những người nghiệp dư trên máy tính, bạn có thể mua nhiều bộ công cụ hack, những cuốn sách dạy hack. Và ở phía bên trái là một nền tảng từ Evolution Robotics, nơi bạn có thể cài đặt trên máy tính, và viết chương trình với một giao diện đồ họa cho nó chạy vòng quanh nhà và làm nhiều trò khác. Và có những loại robot đồ chơi đắt tiền hơn, như Sony Aibo. Và ở bên phải là một robot mà NEC phát triển, con PaPeRo. Tuy nhiên tôi không nghĩ họ sẽ đưa nó ra thị trường. Nhưng dù sao thì những thứ như thế này đang ở ngoài kia.
And we've seen, over the last two or three years, lawn-mowing robots, Husqvarna on the bottom, Friendly Robotics on top there, an Israeli company. And then in the last 12 months or so we've started to see a bunch of home-cleaning robots appear. The top left one is a very nice home-cleaning robot from a company called Dyson, in the U.K. Except it was so expensive -- 3,500 dollars -- they didn't release it.
Và chúng ta đã thấy trong 2-3 năm trở lại đây, những con robot cắt cỏ, Husqvarna ở phía dưới, Friendly Robotics ở phía trên, một công ty của Israel. Và trong vòng 12 tháng trở lại đây chúng ta đã bắt đầu thấy những robot dọn nhà xuất hiện. Ở góc trên bên trái là một robot lau dọn nhà khá tốt, từ một công ty tên Dyson ở Anh. Chỉ có điều, nó quá đắt -- $3,500 -- họ không đưa nó ra thị trường.
But at the bottom left, you see Electrolux, which is on sale. Another one from Karcher. At the bottom right is one that I built in my lab about 10 years ago, and we finally turned that into a product. And let me just show you that. We're going to give this away I think, Chris said, after the talk. This is a robot that you can go out and buy, and that will clean up your floor. And it starts off sort of just going around in ever-increasing circles. If it hits something -- you people see that? Now it's doing wall-following, it's following around my feet to clean up around me. Let's see, let's -- oh, who stole my Rice Krispies? They stole my Rice Krispies! (Laughter) Don't worry, relax, no, relax, it's a robot, it's smart! (Laughter) See, the three-year-old kids, they don't worry about it. It's grown-ups that get really upset. (Laughter) We'll just put some crap here. (Laughter) Okay. (Laughter) I don't know if you see -- so, I put a bunch of Rice Krispies there, I put some pennies, let's just shoot it at that, see if it cleans up. Yeah, OK. So -- we'll leave that for later. (Applause)
Nhưng ở phía dưới bên trái là Electrolux, đang được bán trên thị trường. Một robot khác từ Karcher. Ở phía dưới bên phải là con robot mà tôi tạo ra trong phòng thí nghiệm của tôi khoảng 10 năm trước, và chúng tôi biến nó thành một sản phẩm. Và hãy để tôi cho các bạn xem. Chúng tôi sẽ cho nó đi sau buổi nói chuyện, Chris nói vậy. Đây là một robot bạn có thể mua, và nó sẽ lau nhà cho bạn. Và nó bắt đầu bằng cách đi theo vòng tròn ngày một to dần. Nếu nó tông vào thứ gì đó -- bạn thấy không? Bây giờ nó đang đi dọc theo tường, nó đang đi vòng quanh chân của tôi để lau sàn nhà xung quanh tôi. Để xem nào, ô, ai lấy Rice Krispies của tôi vậy? Họ ăn trộm Rice Krispies của tôi! (Cười) Đừng lo, thư giãn đi nào, nó là một robot, nó thông minh mà! (Cười) Thấy không, những đứa trẻ 3 tuổi, chúng không lo lắng về điều đó. Chỉ người lớn mới lo [con robot rớt xuống]. (Cười). Chúng ta sẽ để một ít rác ở đây. (Cười). Được rồi. (Cười). Tôi không biết là các bạn có thấy được hay không -- tôi để một ít Rice Krispies ở đây, một vài đồng xu, chỉ cần chụp hình tại đó, xem thử nó có lau dọn sạch không. Vâng, được rồi. Xem nào -- chúng ta sẽ để đó sau. (Vỗ tay).
Part of the trick was building a better cleaning mechanism, actually; the intelligence on board was fairly simple. And that's true with a lot of robots. We've all, I think, become, sort of computational chauvinists, and think that computation is everything, but the mechanics still matter. Here's another robot, the PackBot, that we've been building for a bunch of years. It's a military surveillance robot, to go in ahead of troops -- looking at caves, for instance. But we had to make it fairly robust, much more robust than the robots we build in our labs. (Laughter) On board that robot is a PC running Linux. It can withstand a 400G shock. The robot has local intelligence: it can flip itself over, can get itself into communication range, can go upstairs by itself, et cetera. Okay, so it's doing local navigation there. A soldier gives it a command to go upstairs, and it does. That was not a controlled descent. (Laughter) Now it's going to head off. And the big breakthrough for these robots, really, was September 11th. We had the robots down at the World Trade Center late that evening. Couldn't do a lot in the main rubble pile, things were just too -- there was nothing left to do. But we did go into all the surrounding buildings that had been evacuated, and searched for possible survivors in the buildings that were too dangerous to go into. Let's run this video. Reporter: ...battlefield companions are helping to reduce the combat risks. Nick Robertson has that story. Rodney Brooks: Can we have another one of these? Okay, good. So, this is a corporal who had seen a robot two weeks previously. He's sending robots into caves, looking at what's going on. The robot's being totally autonomous. The worst thing that's happened in the cave so far was one of the robots fell down ten meters.
Một phần của kỹ thuật này là xây dựng một cơ chế lau dọn tốt hơn, thực ra phần 'thông minh' của robot khá đơn giản. Và điều đó thì đúng với khá nhiều robot. Tôi nghĩ hầu hết chúng ta là những người quá tin vào tính toán, và nghĩ rằng năng lực tính toán là tất cả, nhưng phần cơ khí vẫn rất quan trọng. Đây là một robot khác, con PackBot, mà chúng tôi đã làm việc với nó nhiều năm. Nó là một robot do thám quân sự, dùng để đi trước những người lính -- ví dụ như kiểm tra các hang động. Nhưng chúng tôi phải làm cho nó linh hoạt, linh hoạt hơn những robot khác chúng tôi có trong phòng thí nghiệm. (Cười) mạch chủ của con robot đó là một máy tính chạy hệ điều hành Linux. Nó có thể chịu được một cú sốc 400G. Con robot có trí thông minh nhân tạo: nó có thể tự lật thẳng lại, có thể đưa bản thân vào vùng liên lạc, có thể tự mình đi lên cầu thang, v.v. Nó đang tự định hướng khu vực xung quanh. Một người lính cho nó một câu lệnh để đi lên cầu thang, và nó đi. Và đó không phải là một cú đáp xuống được điều khiển. (Cười) Bây giờ nó chuẩn bị rời đi. Và sự bứt phá của những con robot này thực sự là vụ 11/9. Chúng tôi đưa lũ robot tới Trung tâm Thương mại Thế giới chiều tối hôm đó. Không thể làm gì nhiều trong đống đổ nát chính, mọi thứ quá -- không còn gì để làm cả. Nhưng chúng tôi vào những toà nhà xung quanh đã được di tản, và tìm kiếm những người sống sót trong những toà nhà quá nguy hiểm cho con người để vào. Hãy bắt đầu đoạn video này. Phóng viên: ...Những phụ tá chiến trường đang giúp giảm thiểu rủi ro. Sau đây là câu chuyện của Nick Robertson. Rodney Brooks: Chúng ta có thể thêm một cái nữa được không? Được rồi, tốt. Đây là một hạ sĩ đã làm việc với một robot hai tuần vừa qua. Anh ta đưa những con robot vào các hang động, xem thử có gì đang diễn ra. Con robot đang hoàn toàn tự điều khiển . Điều tệ nhất xảy ra trong cái hang tính tới nay, là việc một trong những con robot rớt xuống từ độ cao 10m.
So one year ago, the US military didn't have these robots. Now they're on active duty in Afghanistan every day. And that's one of the reasons they say a robot invasion is happening. There's a sea change happening in how -- where technology's going. Thanks. And over the next couple of months, we're going to be sending robots in production down producing oil wells to get that last few years of oil out of the ground. Very hostile environments, 150˚ C, 10,000 PSI. Autonomous robots going down, doing this sort of work. But robots like this, they're a little hard to program. How, in the future, are we going to program our robots and make them easier to use? And I want to actually use a robot here -- a robot named Chris -- stand up. Yeah. Okay. Come over here. Now notice, he thinks robots have to be a bit stiff. He sort of does that. But I'm going to -- Chris Anderson: I'm just British. RB: Oh. (Laughter) (Applause) I'm going to show this robot a task. It's a very complex task. Now notice, he nodded there, he was giving me some indication he was understanding the flow of communication. And if I'd said something completely bizarre he would have looked askance at me, and regulated the conversation. So now I brought this up in front of him. I'd looked at his eyes, and I saw his eyes looked at this bottle top. And I'm doing this task here, and he's checking up. His eyes are going back and forth up to me, to see what I'm looking at -- so we've got shared attention. And so I do this task, and he looks, and he looks to me to see what's happening next. And now I'll give him the bottle, and we'll see if he can do the task. Can you do that? (Laughter) Okay. He's pretty good. Yeah. Good, good, good. I didn't show you how to do that. Now see if you can put it back together. (Laughter) And he thinks a robot has to be really slow. Good robot, that's good.
Một năm trước, quân đội Mỹ không có những con robot như thế này. Bây giờ chúng đang thực hiện nhiệm vụ ở Afghanistan hằng ngày. Và đó là một trong những lý do người ta nói một cuộc xâm lấn bằng robot đang xảy ra. Có một biển thay đổi diễn ra ngay lúc này -- cái đích công nghệ đang hướng tới. Xin cảm ơn. Và trong vài tháng tới, chúng tôi sẽ gửi robot đang trong quá trình sản xuất xuống những giếng dầu để lấy được những thùng dầu cuối cùng khỏi mặt đất. Những môi trường cực kỳ khắc nghiệt, 150˚ C, 10,000 PSI. Robot tự động đi xuống, làm những việc đại loại thế. Nhưng robot như vậy thì hơi khó lập trình. Làm thế nào để trong tương lai, chúng ta có thể lập trình robot và khiến chúng dễ sử dụng hơn? Và tôi muốn thực sự dùng một robot ở đây - con robot tên là Chris -- đứng lên nào. Đúng rồi. Đi lại đây nào. Hãy chú ý, anh ta nghĩ là robot phải hơi cứng đơ như vậy. Anh ta làm đại loại thế. Nhưng tôi sẽ -- Chris Anderson: Tôi chỉ là người Anh. Rodney Brooks: Oh. (Cười) (Vỗ tay) Tôi sẽ đưa ra một nhiệm vụ cho robot này. Nó khá là phức tạp đấy. Các bạn thấy không, anh ta gật đầu, ra hiệu cho tôi là anh ta hiểu được điều tôi đang giao tiếp. Và nếu tôi nói gì đó hoàn toàn kỳ cục, anh ta sẽ nhìn tôi ngờ vực, và điều chỉnh lại cuộc hội thoại. Bây giờ tôi đưa ra thứ này trước mặt anh ta. Tôi nhìn vào mắt anh ta, và tôi thấy là mắt anh ta cũng nhìn vào cái chai này. Và tôi đang làm việc này, và anh ta đang quan sát. Mắt anh ta nhìn qua nhìn lại tôi, để thấy những gì tôi thấy -- vậy nên chúng tôi có cùng sự chú ý. Và tôi làm việc này, và anh ta nhìn, và anh ta nhìn tôi để thấy cái gì sẽ diễn ra tiếp theo. Và bây giờ tôi sẽ đưa anh ta cái chai, và hãy xem thử anh ta có làm được không. Anh có làm được không? (Cười) Được rồi. Anh ta khá là giỏi. Tốt, tốt, tốt. Tôi chưa từng chỉ anh làm việc đó. Hãy xem thử anh có thể lắp nó lại không. (Cười) Và anh ta nghĩ là robot thì phải thật chậm. Robot ngoan, tốt lắm.
So we saw a bunch of things there. We saw when we're interacting, we're trying to show someone how to do something, we direct their visual attention. The other thing communicates their internal state to us, whether he's understanding or not, regulates a social interaction. There was shared attention looking at the same sort of thing, and recognizing socially communicated reinforcement at the end. And we've been trying to put that into our lab robots because we think this is how you're going to want to interact with robots in the future. I just want to show you one technical diagram here. The most important thing for building a robot that you can interact with socially is its visual attention system. Because what it pays attention to is what it's seeing and interacting with, and what you're understanding what it's doing. So in the videos I'm about to show you, you're going to see a visual attention system on a robot which has -- it looks for skin tone in HSV space, so it works across all human colorings. It looks for highly saturated colors, from toys. And it looks for things that move around. And it weights those together into an attention window, and it looks for the highest-scoring place -- the stuff where the most interesting stuff is happening -- and that is what its eyes then segue to. And it looks right at that. At the same time, some top-down sort of stuff: might decide that it's lonely and look for skin tone, or might decide that it's bored and look for a toy to play with. And so these weights change.
Chúng ta vừa thấy một số thứ ở đây. Chúng ta thấy khi chúng ta giao tiếp, khi chúng ta cố dạy ai đó cách làm gì đó, chúng ta điều khiển sự chú ý bằng mắt của họ. Những thứ khác cho ta thấy tình trạng bên trong của họ, ví dụ như anh ta có hiểu hay không, điều khiển sự tương tác xã hội. Có sự chú ý tương đồng khi nhìn vào cùng một thứ, và cuối cùng nhận thức sự hỗ trợ được giao tiếp một cách xã hội. Và chúng tôi đã cố gắng đưa điều đó vào robot thí nghiệm của mình bởi vì chúng tôi nghĩ rằng đó là cách bạn muốn giao tiếp với robot trong tương lai. Tôi chỉ muốn cho các bạn thấy một bản vẽ kỹ thuật ở đây. Điều quan trọng nhất khi xây dựng một robot mà bạn có thể giao tiếp xã hội cùng là hệ thống chú ý bằng mắt của nó. Bởi cái mà nó chú ý tới là cái mà nó thấy và tương tác cùng, và đó là cái mà bạn hiểu là nó đang làm. Trong những đoạn video mà tôi chuẩn bị cho các bạn xem, bạn sẽ thấy một hệ thống chú ý bằng mắt trên một con robot -- nó tìm màu da trong không gian HSV, vì vậy nó tìm kiếm trên mọi màu da. Nó tìm những màu bão hoà, từ đồ chơi. Và nó tìm những thứ đang di chuyển xung quanh. Và nó tính những thứ đó chung lại trong một cửa sổ chú ý, và nó tìm nơi có điểm số cao nhất -- nơi mà thứ thú vị nhất đang diễn ra -- và đó là cái mà mắt của nó di chuyển đến. Và nó nhìn thẳng vào đó. Cùng lúc đó, một vài thứ kiểu định hướng có thể quyết định là nó đang cô đơn và tìm màu da, hoặc là nó đang chán và tìm một thứ đồ chơi để chơi. Và những yếu tố này sẽ thay đổi trọng lượng trong tính toán của nó.
And over here on the right, this is what we call the Steven Spielberg memorial module. Did people see the movie "AI"? (Audience: Yes.)
Và ở bên phải, là một thứ chúng ta gọi là bộ phận ký ức Steven Spielberg. Các bạn đã xem bộ phim "AI" chưa? Khán giả: Rồi.
RB: Yeah, it was really bad, but --
Vâng, nó khá tệ, nhưng --
remember, especially when Haley Joel Osment, the little robot, looked at the blue fairy for 2,000 years without taking his eyes off it? Well, this gets rid of that, because this is a habituation Gaussian that gets negative, and more and more intense as it looks at one thing. And it gets bored, so it will then look away at something else. So, once you've got that -- and here's a robot, here's Kismet, looking around for a toy. You can tell what it's looking at. You can estimate its gaze direction from those eyeballs covering its camera, and you can tell when it's actually seeing the toy. And it's got a little bit of an emotional response here. (Laughter) But it's still going to pay attention if something more significant comes into its field of view -- such as Cynthia Breazeal, the builder of this robot, from the right. It sees her, pays attention to her. Kismet has an underlying, three-dimensional emotional space, a vector space, of where it is emotionally. And at different places in that space, it expresses -- can we have the volume on here? Can you hear that now, out there? (Audience: Yeah.)
các bạn có nhớ cái cảnh Haley Joel Osment, con robot nhỏ nhìn vào nàng tiên xanh suốt 2000 năm mà không rời mắt? Vâng, chúng tôi loại bỏ điều đó, vì đây là một thói quen Gaussian khá tiêu cực, và ngày càng gay gắt hơn khi nó nhìn vào một thứ. Và nó trở nên chán, nên nó sẽ nhìn một thứ khác. Vây nên, khi bạn hiểu điều đó -- và đây là một robot, Kismet, nhìn xung quanh tìm đồ chơi. Bạn có thể nhận ra thứ mà nó đang nhìn vào. Bạn có thể ước tính hướng nhìn của nó từ những con mắt giả che cái camera của nó, và bạn có thể nhận ra khi nó thực sự nhìn thấy món đồ chơi. Và nó có một ít phản ứng cảm xúc ở đây. (Cười) Nhưng nó vẫn sẽ chú ý đến thứ gì đó quan trọng hơn di chuyển vào tầm nhìn của nó -- ví dụ như Cynthia Breazeal, mẹ đẻ của nó, từ bên phải. Nó thấy cô ấy, chú ý đến cô ấy. Kismet có một khoảng không gian cảm xúc 3 chiều ở bên trong, một không gian vector cho cảm xúc của nó. Và ở những điểm khác nhau trong không gian đó, nó thể hiện -- chúng ta có thể vặn âm thanh to hơn không? Các bạn có nghe được chưa? (Khán giả: Được)
Kismet: Do you really think so? Do you really think so? Do you really think so?
Kismet: Bạn thực sự nghĩ vậy à? Bạn thực sự nghĩ vậy à?
RB: So it's expressing its emotion through its face and the prosody in its voice. And when I was dealing with my robot over here, Chris, the robot, was measuring the prosody in my voice, and so we have the robot measure prosody for four basic messages that mothers give their children pre-linguistically. Here we've got naive subjects praising the robot:
Nó thể hiện cảm xúc qua khuôn mặt và âm điệu trong giọng nói của nó. Và khi tôi làm việc với con robot của tôi ở đây, Chris, con robot ấy cũng nghe âm điệu trong giọng nói của tôi, và chúng ta khiến robot đo được âm điệu cho 4 tín hiệu cơ bản mà các bà mẹ đưa ra cho trẻ con trước khi chúng biết nói. Ở đây chúng ta có những người ngây thơ khen ngợi robot:
Voice: Nice robot. You're such a cute little robot. (Laughter) RB: And the robot's reacting appropriately.
Giọng nói: Robot giỏi. Bạn là một con robot rất dễ thương. (Cười) Và con robot phản ứng đúng mực.
Voice: ...very good, Kismet. (Laughter)
Giọng nói: ...tốt lắm, Kismet. (Cười)
Voice: Look at my smile.
Giọng nói: Nhìn vào nụ cười của tôi này.
RB: It smiles. She imitates the smile. This happens a lot. These are naive subjects. Here we asked them to get the robot's attention and indicate when they have the robot's attention.
Nó cười. Cô ấy cười. Họ là những người ngây thơ. Ở đây chúng tôi bảo họ cố gắng chiếm được sự chú ý của con robot và cho chúng tôi biết khi họ đã có sự chú ý của nó.
Voice: Hey, Kismet, ah, there it is.
Giọng nói: Này Kismet, à, nó kìa.
RB: So she realizes she has the robot's attention. Voice: Kismet, do you like the toy? Oh.
RB: Cô ấy nhận ra là cô ấy có được sự chú ý của con robot. Giọng nói: Kismet, bạn có thích đồ chơi này không? Oh.
RB: Now, here they're asked to prohibit the robot, and this first woman really pushes the robot into an emotional corner.
RB: Bây giờ, họ được bảo phải ngăn con robot lại, và người phụ nữ đầu tiên này thực sự đẩy con robot vào đường cùng về mặt cảm xúc.
Voice: No. No. You're not to do that. No. (Laughter)
Giọng nói: Không. Bạn không được làm vậy. Không. (Cười)
Not appropriate. No. No. (Laughter)
Không đúng. Không. (Cười)
RB: I'm going to leave it at that.
RB: Tôi sẽ dừng tại đó.
We put that together. Then we put in turn taking. When we talk to someone, we talk. Then we sort of raise our eyebrows, move our eyes, give the other person the idea it's their turn to talk. And then they talk, and then we pass the baton back and forth between each other. So we put this in the robot. We got a bunch of naive subjects in, we didn't tell them anything about the robot, sat them down in front of the robot and said, talk to the robot. Now what they didn't know was, the robot wasn't understanding a word they said, and that the robot wasn't speaking English. It was just saying random English phonemes. And I want you to watch carefully, at the beginning of this, where this person, Ritchie, who happened to talk to the robot for 25 minutes -- (Laughter) -- says, "I want to show you something. I want to show you my watch." And he brings the watch center, into the robot's field of vision, points to it, gives it a motion cue, and the robot looks at the watch quite successfully. We don't know whether he understood or not that the robot -- Notice the turn-taking. Ritchie: OK, I want to show you something. OK, this is a watch that my girlfriend gave me. Robot: Oh, cool. Ritchie: Yeah, look, it's got a little blue light in it too. I almost lost it this week. (Laughter) RB: So it's making eye contact with him, following his eyes. Ritchie: Can you do the same thing? Robot: Yeah, sure. RB: And they successfully have that sort of communication.
Chúng ta tạo ra [cuộc nói chuyện]. Sau đó chúng ta nói theo lượt. Khi chúng ta nói chuyện với ai đó, chúng ta nói. Sau đó chúng ta đại loại nhíu lông mày, di chuyển mắt, cho người kia biết là tới lượt họ nói. Và họ nói, rồi chúng ta cứ theo lượt như thế. Chúng tôi đưa điều này vào con robot. Chúng tôi có một số đối tượng thí nghiệm ngây thơ, không nói gì với họ về con robot, đặt họ ngồi trước con robot và nói, nói chuyện với con robot đi. Cái mà họ không biết là, con robot không hiểu một từ nào mà họ nói, và con robot không nói tiếng Anh. Nó chỉ nói những từ tiếng Anh ngẫu nhiên. Và tôi muốn các bạn xem kỹ phần đầu của đoạn video này, khi Ritchie, người ngồi nói chuyện với con robot trong 25 phút -- (Cười) -- nói, "Tôi muốn cho bạn xem cái này. Tôi muốn cho bạn xem đồng hồ của tôi." Và anh ta đưa cái mặt đồng hồ vào tầm nhìn của con robot, chỉ vào đó, cho nó một dấu hiệu cử chỉ, và con robot nhìn vào cái đồng hồ một cách khá thành công. Chúng ta không biết rằng liệu anh ta hiểu được hay không rằng con robot -- -- chú ý sự lần lượt. Ritchie: OK, tôi muốn cho bạn xem cái này. OK, đây là một cái đồng hồ mà bạn gái tặng cho tôi. Robot: Oh, tuyệt. Ritchie: Nhìn này, nó có một cái đèn màu xanh bên trong nữa. Tôi suýt mất nó tuần này. (Cười) RB: Nó đang tiếp xúc bằng ánh mắt với anh ta, nhìn theo mắt anh ta. Ritchie: Bạn có làm được như vậy không? Robot: Được thôi. RB: Và họ tha2h công khi có được sự giao tiếp đó.
And here's another aspect of the sorts of things that Chris and I were doing. This is another robot, Cog. They first make eye contact, and then, when Christie looks over at this toy, the robot estimates her gaze direction and looks at the same thing that she's looking at. (Laughter) So we're going to see more and more of this sort of robot over the next few years in labs. But then the big questions, two big questions that people ask me are: if we make these robots more and more human-like, will we accept them, will we -- will they need rights eventually? And the other question people ask me is, will they want to take over? (Laughter) And on the first -- you know, this has been a very Hollywood theme with lots of movies. You probably recognize these characters here -- where in each of these cases, the robots want more respect. Well, do you ever need to give robots respect? They're just machines, after all. But I think, you know, we have to accept that we are just machines. After all, that's certainly what modern molecular biology says about us. You don't see a description of how, you know, Molecule A, you know, comes up and docks with this other molecule. And it's moving forward, you know, propelled by various charges, and then the soul steps in and tweaks those molecules so that they connect. It's all mechanistic. We are mechanism. If we are machines, then in principle at least, we should be able to build machines out of other stuff, which are just as alive as we are. But I think for us to admit that, we have to give up on our special-ness, in a certain way. And we've had the retreat from special-ness under the barrage of science and technology many times over the last few hundred years, at least. 500 years ago we had to give up the idea that we are the center of the universe when the earth started to go around the sun; 150 years ago, with Darwin, we had to give up the idea we were different from animals. And to imagine -- you know, it's always hard for us. Recently we've been battered with the idea that maybe we didn't even have our own creation event, here on earth, which people didn't like much. And then the human genome said, maybe we only have 35,000 genes. And that was really -- people didn't like that, we've got more genes than that. We don't like to give up our special-ness, so, you know, having the idea that robots could really have emotions, or that robots could be living creatures -- I think is going to be hard for us to accept. But we're going to come to accept it over the next 50 years or so.
Và đây là một khía cạnh khác của việc mà Chris và tôi vừa làm. Đây là một robot khác, Cog. Họ giao tiếp bằng mắt trước, rồi sau đó, khi Christie nhìn vào món đồ chơi này, con robot ước tính hướng nhìn của cô ấy và cùng nhìn vào thứ mà cô ấy đang nhìn. (Cười) Chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều hơn loại robot như thế này trong vòng vài năm tới trong các phòng thí nghiệm. Nhưng khi đó, hai câu hỏi lớn mà người ta hay hỏi tôi là: nếu chúng ta tạo ra những robot ngày càng giống con người, chúng ta có thể chấp nhận chúng không, chúng có cần các quyền con người không? Và câu hỏi thứ 2 là, có khi nào chúng muốn lật đổ chúng ta không? (Cười) Và câu hỏi đầu tiên -- nó là một chủ đề rất Hollywood với khá nhiều bộ phim. Các bạn có thể nhận ra những nhân vật ở đây -- -- trong từng trường hợp ở đây, các con robot muốn được tôn trọng nhiều hơn. Bạn có bao giờ cần phải tôn trọng robot không? Suy cho cùng, chúng chỉ là những cái máy. Nhưng tôi nghĩ rằng, chúng ta cũng cần chấp nhận rằng chính chúng ta cũng chỉ là những cái máy. Suy cho cùng, đó là cái mà sinh học hiện đại nói về chúng ta. Bạn không thấy một bản mô tả làm thế nào mà phân tử A liên kết với một phân tử khác. Và nó di chuyển tới trước, được đẩy bằng nhiều lực khác nhau, và sau đó linh hồn bước vào và vặn vẹo các phân tử đó để chúng liên kết. Tất cả điều đó thuộc về cơ khí. Chúng ta là những chiếc máy. Nếu chúng ta là máy móc, thì ít nhất trên lý thuyết, chúng ta có thể xây dựng máy móc từ những thứ khác. Chúng cũng sống như chúng ta. Nhưng tôi nghĩ nếu chúng ta thừa nhận điều đó, chúng ta phải từ bỏ sự đặc biệt của mình theo một cách nào đó. Và chúng ta đã có sự rút lui từ sự đặc biệt dưới rào cản của khoa học và công nghệ khá nhiều lần trong vòng vài trăm năm trở lại đây. 500 năm trước chúng ta phải từ bỏ ý nghĩ rằng chúng ta là trung tâm của vũ trụ khi Trái đất bắt đầu quay xung quanh Mặt trời; 150 năm trước, với Darwin, chúng ta phải từ bỏ ý nghĩ rằng chúng ta khác các loài vật. Và cứ tưởng tượng -- các bạn thấy đấy, nó khá khó cho chúng ta. Gần đây chúng ta đang đập vỡ ý nghĩ rằng có lẽ chúng ta còn không có sự kiến tạo của riêng mình trên Trái đất. Nhiều người không hề thích thế. và sau đó thì bộ gene của người nói, có lẽ chúng ta chỉ có 35,000 gene. Và đó thực sự là -- nhiều người không thích thế, chúng ta có nhiều gene hơn thế chứ. Chúng ta không thích từ bỏ sự đặc biệt của chính mình, nên các bạn thấy đó, cái ý kiến rằng robot có thể có cảm xúc, hoặc rằng robot có thể là sinh vật sống, tôi nghĩ sẽ khá khó cho chúng ta chấp nhận điều đó. Nhưng chúng ta sẽ chấp nhận nó trong vòng 50 năm tới.
And the second question is, will the machines want to take over? And here the standard scenario is that we create these things, they grow, we nurture them, they learn a lot from us, and then they start to decide that we're pretty boring, slow. They want to take over from us. And for those of you that have teenagers, you know what that's like. (Laughter) But Hollywood extends it to the robots. And the question is, you know, will someone accidentally build a robot that takes over from us? And that's sort of like this lone guy in the backyard, you know -- "I accidentally built a 747." I don't think that's going to happen. And I don't think -- (Laughter) -- I don't think we're going to deliberately build robots that we're uncomfortable with. We'll -- you know, they're not going to have a super bad robot. Before that has to come to be a mildly bad robot, and before that a not so bad robot. (Laughter) And we're just not going to let it go that way. (Laughter) So, I think I'm going to leave it at that: the robots are coming, we don't have too much to worry about, it's going to be a lot of fun, and I hope you all enjoy the journey over the next 50 years. (Applause)
Và câu hỏi thứ 2 là, robot có muốn lật đổ chúng ta không? Và ở đây kịch bản thường là chúng ta tạo ra những thứ này, chúng phát triển, chúng ta nuôi dưỡng chúng, chúng học hỏi từ chúng ta, và sau đó chúng quyết định rằng chúng ta khá chậm và nhàm chán. Chúng muốn lật đổ chúng ta. Và nếu bạn có con tuổi vị thành niên thì các bạn sẽ hiểu nó giống như thế nào. (Cười) Nhưng Hollywood mở rộng điều đó tới lũ robot. Và câu hỏi là, bạn biết đấy, có khi nào ai đó vô tình tạo ra một robot có thể lật đổ chúng ta không? Và điều đó giống như một anh chàng cô độc ở sân sau, bạn biết đấy -- "Tôi vô tình tạo ra một chiếc 747." Tôi không nghĩ rằng điều đó sẽ xảy ra. Và tôi không nghĩ -- (Cười) -- Tôi không nghĩ chúng ta sẽ cố tình tạo ra những robot mà chúng ta không cảm thấy dễ chịu khi sống cùng. Chúng ta sẽ không có một con robot cực kỳ độc ác. Trước đó phải có một con robot độc ác vừa vừa, và trước đó phải có một con robot không độc ác mấy. (Cười) Và chúng ta sẽ không để chúng đi theo con đường đó. (Cười) Thế nên, tôi nghĩ tôi nên dừng ở đây: thời đại robots đang tới, chúng ta không phải lo quá nhiều về nó, nó sẽ mang lại nhiều sự vui thích, và tôi hi vọng tất cả các bạn tận hưởng cuộc hành trình qua 50 năm tới. (Vỗ tay).