So, before I became a dermatologist, I started in general medicine, as most dermatologists do in Britain. At the end of that time, I went off to Australia, about 20 years ago. What you learn when you go to Australia is the Australians are very competitive. And they are not magnanimous in victory. And that happened a lot: "You pommies, you can't play cricket, rugby." I could accept that.
Trước khi tôi trở thành một bác sĩ da liễu, tôi từng làm một bác sĩ đa khoa như hầu hết các bác sĩ da liễu ở Anh. Vào cuối thời gian đó, tôi đã đến Úc, khoảng 20 năm trước đây. Những gì bạn học được khi bạn đi đến Úc đó là người dân Úc có tinh thần cạnh tranh rất cao. Và họ không hề hào hiệp mà bỏ qua cơ hội chiến thắng. Và điều đó xảy ra rất thường xuyên: "Bạn- những người Anh- bạn không thể chơi cricket và rugby." Tôi có thể chấp nhận điều đó.
But moving into work -- and we have each week what's called a journal club, when you'd sit down with the other doctors and you'd study a scientific paper in relation to medicine. And after week one, it was about cardiovascular mortality, a dry subject -- how many people die of heart disease, what the rates are. And they were competitive about this: "You pommies, your rates of heart disease are shocking."
Nhưng khi làm việc -- và mỗi tuần chúng tôi có thứ gọi là câu lạc bộ tập san, khi mà bạn ngồi lại cùng các bác sĩ khác và nghiên cứu một bài báo khoa học liên quan đến y học. Sau tuần một, nó đề cập về tỷ lệ tử vong có liên quan đến các bệnh tim mạch, một vấn đề nan giải - có bao nhiêu người chết vì bệnh tim, tỉ lệ là bao nhiêu. Và họ đã có tranh cãi về việc: "Bạn-những người con nước Anh, tỷ lệ mắc bệnh tim của bạn thực sự gây choáng váng."
And of course, they were right. Australians have about a third less heart disease than we do -- less deaths from heart attacks, heart failure, less strokes -- they're generally a healthier bunch. And of course they said this was because of their fine moral standing, their exercise, because they're Australians and we're weedy pommies, and so on.
Và tất nhiên, họ đã đúng. Người Úc có tỉ lệ mắc bệnh tim ít hơn chúng ta 1/3-- ít ca tử vong vì đau tim ,suy tim hơn, ít những cơn đột quỵ hơn-- nhìn chung họ là những con người khỏe mạnh hơn chúng ta. Tất nhiên họ nói điều này là bởi họ có địa vị đạo đức tốt, chăm tập thể dục, là bởi họ là người Úc còn chúng ta lại là những người Anh gầy còm, và nhiều lý do khác nữa.
But it's not just Australia that has better health than Britain. Within Britain, there is a gradient of health -- and this is what's called standardized mortality, basically your chances of dying. This is looking at data from the paper about 20 years ago, but it's true today. Comparing your rates of dying 50 degrees north -- that's the South, that's London and places -- by latitude, and 55 degrees -- the bad news is that's here, Glasgow. I'm from Edinburgh. Worse news, that's even Edinburgh.
Nhưng điều đó không chỉ có nghĩa là người Úc có sức khỏe tốt hơn người Anh. Ở nước Anh, có một tỉ lệ về sức khỏe -- và được gọi là tỉ lệ tử đã được chuẩn hóa, căn bản có nghĩa là xác suất của việc tử vong của quý vị Có được điều này là nhờ quan sát từ một tài liệu cách đây khoảng 20 năm, nhưng nó vẫn đúng đối với thực tại. So sánh tỉ lệ tử của dân cư tại 50 độ vĩ Bắc-- đó là miền Nam, Luân đôn và những nơi khác nữa-- và tại vĩ độ 55-- thật không may đó lại chính là Glasgow này. Quê tôi ở Edinburgh. Tin buồn là thậm chí Edinburgh cũng nằm trong số này.
(Laughter)
(Tiếng cười)
So what accounts for this horrible space here between us up here in southern Scotland and the South? Now, we know about smoking, deep-fried Mars bars, chips -- the Glasgow diet. All of these things. But this graph is after taking into account all of these known risk factors. This is after accounting for smoking, social class, diet, all those other known risk factors. We are left with this missing space of increased deaths the further north you go.
Vậy thì điều gì đã chiếm khoảng trống khủng khiếp này giữa chúng tôi ,ở trên này, phía nam Scotland và miền Nam? Bây giờ, chúng tôi biết về việc hút thuốc, những thanh Mars rán kỹ, khoai tây chiên - chế độ ăn uống Glasgow. Tất cả những điều này. Nhưng biểu đồ này được góp phần bởi tất cả trong điều được biết đến như yếu tố nguy cơ. Đây là sau khi đã tính thuốc, tầng lớp xã hội, chế độ ăn uống, tất cả những yếu tố khác được cho là rủi ro Còn lại là khoảng trống của sự tăng ca tử vong ở phía Bắc các bạn
Now, sunlight, of course, comes into this. And vitamin D has had a great deal of press, and a lot of people get concerned about it. And we need vitamin D. It's now a requirement that children have a certain amount. My grandmother grew up in Glasgow, back in the 1920s and '30s when rickets was a real problem and cod liver oil was brought in. And that really prevented the rickets that used to be common in this city. And I as a child was fed cod liver oil by my grandmother. I distinctly -- nobody forgets cod liver oil.
Giờ thì, ánh sáng mặt trời, tất nhiên, đi vào đây. Và vitamin D đã để lại một ảnh hưởng lớn mà rất nhiều người quan tâm về nó. Chúng ta cần vitamin D. Trẻ em cũng yêu cầu một lượng nhất định Bà ngoại của tôi lớn lên ở Glasgow, trong thập niên 1920 và 1930, khi bệnh còi xương là một vấn đề thực sự và dầu gan cá tuyết đã được đưa ra thực sự ngăn ngừa bệnh còi xương đã từng phổ biến trong thành phố này. Và tôi là đứa trẻ được bà cho ăn dầu gan cá tuyết Tôi chắc chắn--không ai quên dầu gan cá tuyết.
But an association: The higher people's blood levels of vitamin D are, the less heart disease they have, the less cancer. There seems to be a lot of data suggesting that vitamin D is very good for you. And it is, to prevent rickets and so on. But if you give people vitamin D supplements, you don't change that high rate of heart disease. And the evidence for it preventing cancers is not yet great. So what I'm going to suggest is that vitamin D is not the only story in town. It's not the only reason preventing heart disease. High vitamin D levels, I think, are a marker for sunlight exposure, and sunlight exposure, in methods I'm going to show, is good for heart disease.
Nhưng có một mối liên hệ: nồng độ vitamin D trong máu của con người càng cao, họ càng ít bị bệnh tim mạch và ung thư. Có vẻ rất nhiều dữ liệu cho thấy rằng vitamin D là rất tốt cho bạn. Và đó là, ngăn ngừa bệnh còi xương, vân vân. Nhưng nếu bạn cung cấp cho mọi người nguồn bổ sung vitamin D, bạn không thay đổi tỷ lệ bệnh tim cao đó. Và bằng chứng rằng nó ngăn ngừa bệnh ung thư cũng không được tuyệt vời. Vì vậy, những gì tôi muốn nói là vitamin D không phải là câu chuyện duy nhất. Nó không phải là lý do duy nhất ngăn ngừa bệnh tim. Mức vitamin D cao, tôi nghĩ rằng, là một dấu hiệu của sự tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, và tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, trong phương pháp tôi sẽ chỉ ra, thì tốt cho bệnh tim.
Anyway, I came back from Australia, and despite the obvious risks to my health, I moved to Aberdeen. (Laughter) Now, in Aberdeen, I started my dermatology training. But I also became interested in research, and in particular I became interested in this substance, nitric oxide. Now these three guys up here, Furchgott, Ignarro and Murad, won the Nobel Prize for medicine back in 1998. And they were the first people to describe this new chemical transmitter, nitric oxide. What nitric oxide does is it dilates blood vessels, so it lowers your blood pressure. It also dilates the coronary arteries, so it stops angina.
Dù sao, tôi trở lại từ Úc, mặc dù những rủi ro rõ ràng cho sức khỏe của tôi, tôi chuyển đến Aberdeen. (Tiếng cười) Bây giờ, tại Aberdeen, tôi bắt đầu nghiên cứu chuyên khoa da liễu của tôi. Nhưng tôi cũng đã trở nên quan tâm đến việc khảo cứu, và đặc biệt quan tâm đến chất này, nitric oxide. Bây giờ là những người trên đây Furchgott, Ignarro và Murad, đã đoạt giải Nobel y học vào năm 1998. Và họ là những người đầu tiên mô tả chất chuyển tiếp mới này, nitric oxide. Những gì nitric oxide làm là giãn thành mạch máu, do đó, nó làm giảm huyết áp của bạn. Nó cũng làm giãn các động mạch vành, do đó, nó ngăn cơn đau thắt ngực.
And what was remarkable about it was in the past when we think of chemical messengers within the body, we thought of complicated things like estrogen and insulin, or nerve transmission. Very complex processes with very complex chemicals that fit into very complex receptors. And here's this incredibly simple molecule, a nitrogen and an oxygen that are stuck together, and yet these are hugely important for [unclear] our low blood pressure, for neurotransmission, for many, many things, but particularly cardiovascular health.
Và những gì là đáng chú ý về nó là trong quá khứ khi nghĩ về các chất xúc tác trong cơ thể, chúng ta nghĩ về thứ phức tạp như estrogen và insulin, hoặc dây thần kinh truyền tải. những quá trình rất phức tạp với những hóa chất rất phức tạp điều đó phù hợp với các thụ thể phức tạp. Và đây là phân tử vô cùng đơn giản, một nitơ và một oxy đang gắn chặt với nhau, và những thứ này cực kỳ quan trọng đối với bệnh huyết áp thấp của chúng ta với vận chuyển thần kinh, cho nhiều, rất nhiều thứ, nhưng đặc biệt là sức khỏe tim mạch
And I started doing research, and we found, very excitingly, that the skin produces nitric oxide. So it's not just in the cardiovascular system it arises. It arises in the skin. Well, having found that and published that, I thought, well, what's it doing? How do you have low blood pressure in your skin? It's not the heart. What do you do?
Tôi bắt đầu làm nghiên cứu, và chúng tôi nhận ra rất thú vị , rằng da tạo ra oxit nitric. Vì vậy, nó là không chỉ ở trong hệ thống tim mạch, nó phát sinh. Nó phát sinh trong da. Vâng, tìm ra và công bố điều đó Tôi nghĩ, vậy, nó làm những gì? Làm thế nào bạn có huyết áp thấp trong da? Không phải là trái tim. Bạn làm gì?
So I went off to the States, as many people do if they're going to do research, and I spent a few years in Pittsburgh. This is Pittsburgh. And I was interested in these really complex systems. We thought that maybe nitric oxide affected cell death, and how cells survive, and their resistance to other things. And I first off started work in cell culture, growing cells, and then I was using knockout mouse models -- mice that couldn't make the gene. We worked out a mechanism, which -- NO was helping cells survive.
Vì vậy, tôi đã đi ra đến các tiểu bang, như những nhà nghiên cứu sẽ làm, và tôi đã dành một vài năm ở Pittsburgh. Đây là Pittsburgh. Và tôi đã thích thú với những hệ thống phức tạp này. Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ nitric oxide có ảnh hưởng đến tế bào chết, và làm thế nào các tế bào tồn tại và sức đề kháng của chúng với những thứ khác Và tôi ra bắt đầu làm việc trong tế bào học, sự phát triển của tế bào và sau đó tôi đã sử dụng các mẫu chuột biến đổi gen-- chuột không thể tạo ra các gen. Chúng tôi tìm hiểu một cơ chế, đó là --NO (Nitric Oxide) đã giúp đỡ các tế bào tồn tại.
And I then moved back to Edinburgh. And in Edinburgh, the experimental animal we use is the medical student. It's a species close to human, with several advantages over mice: They're free, you don't shave them, they feed themselves, and nobody pickets your office saying, "Save the lab medical student." So they're really an ideal model.
Và tôi sau đó chuyển về Edinburgh. Và tại Edinburgh, các vật thí nghiệm chúng tôi sử dụng là sinh viên y khoa. Đó là một loài gần gũi với con người, với một số lợi thế hơn chuột: Họ miễn phí, bạn không cạo râu họ, họ tự ăn, và không ai chạy vào văn phòng bạn nói, "Cứu sinh viên y khoa ." Vì vậy, họ thực sự là một mô hình lý tưởng.
But what we found was that we couldn't reproduce in man the data we had shown in mice. It seemed we couldn't turn off the production of nitric oxide in the skin of humans. We put on creams that blocked the enzyme that made it, we injected things. We couldn't turn off the nitric oxide.
Nhưng những gì chúng tôi tìm thấy là chúng tôi không thể sao chép trong con người các dữ liệu chúng tôi đã thấy ở chuột. Dường như chúng tôi không thể ngừng việc sản xuất nitric oxide trong da của con người. Chúng tôi đưa vào các loại kem chặn enzym tạo ra nó, chúng tôi tiêm. Chúng tôi không thể ngăn nitric oxide.
And the reason for this, it turned out, after two or three years' work, was that in the skin we have huge stores not of nitric oxide, because nitric oxide is a gas, and it's released -- (Poof!) -- and in a few seconds it's away, but it can be turned into these forms of nitric oxide -- nitrate, NO3; nitrite, NO2; nitrosothiols. And these are more stable, and your skin has got really large stores of NO. And we then thought to ourselves, with those big stores, I wonder if sunlight might activate those stores and release them from the skin, where the stores are about 10 times as big as what's in the circulation. Could the sun activate those stores into the circulation, and there in the circulation do its good things for your cardiovascular system?
Và lý do cho điều này, hóa ra, sau hai đến ba năm làm việc, là trong da chúng tôi có những cửa hàng lớn không phải tạo nitric oxide, bởi vì oxit nitric là một chất khí, và nó đã phát tán -(Poof!) - và trong một vài giây là bay mất, nhưng nó có thể được biến thành các hình thức nitric oxide-- nitrat, NO3; nitrit, NO2; nitrosothiols. Và chúng ổn định hơn, và làn da của bạn đã có các xưởng sản xuất NO thực sự lớn Và sau đó chúng tôi nghĩ đến bản thân, với những xưởng sản xuất lớn ấy, Tôi tự hỏi, phải chăng ánh sáng mặt trời có thể kích hoạt các xưởng và phát tán chúng từ da, nơi các xưởng lớn gấp 10 lần những gì trong tuần hoàn. Mặt trời có thể kích hoạt các xưởng vào tuần hoàn, và trong vòng tuần hoàn sẽ làm những điều tốt của nó cho hệ thống tim mạch của bạn?
Well, I'm an experimental dermatologist, so what we did was we thought we'd have to expose our experimental animals to sunlight. And so what we did was we took a bunch of volunteers and we exposed them to ultraviolet light. So these are kind of sunlamps. Now, what we were careful to do was, vitamin D is made by ultraviolet B rays and we wanted to separate our story from the vitamin D story. So we used ultraviolet A, which doesn't make vitamin D.
Vâng, tôi là một bác sĩ da liễu thực nghiệm, Vì vậy, chúng tôi làm những gì chúng tôi nghĩ chúng tôi phải phơi những thí nghiệm động vật ra ánh sáng Và vì vậy những gì chúng tôi đã làm là tìm một loạt tình nguyện viên và chúng tôi cho họ tiếp xúc với ánh sáng cực tím và đây là những chiếc đèn cực tím. Bây giờ, những gì chúng tôi đã được cẩn thận để làm là, vitamin D được thực hiện bởi tia cực tím B và chúng tôi muốn tách riêng vấn đề của chúng tôi với vitamin D Nên chúng tôi sử dụng tia cực tím A không tạo vitamin D.
When we put people under a lamp for the equivalent of about 30 minutes of sunshine in summer in Edinburgh, what we produced was, we produced a rise in circulating nitric oxide. So we put patients with these subjects under the UV, and their NO levels do go up, and their blood pressure goes down. Not by much, as an individual level, but enough at a population level to shift the rates of heart disease in a whole population. And when we shone UV at them, or when we warmed them up to the same level as the lamps, but didn't actually let the rays hit the skin, this didn't happen. So this seems to be a feature of ultraviolet rays hitting the skin.
Khi chúng tôi đặt con người dưới một bóng đèn tương đương với khoảng 30 phút ánh sáng mùa hè ở Edinburgh, những gì chúng tôi tạo ra là, chúng tôi tạo ra sự thúc đẩy trong lưu thông nitric oxide. Vì vậy, chúng tôi đặt các bệnh nhân với các đối tượng dưới tia cực tím, và mức độ Nitric Oxide của họ không tăng, và huyết áp của họ giảm xuống. Không nhiều, ở một mức độ riêng rẽ, nhưng đủ ở mức độ dân cư để thay đổi tỷ lệ bệnh tim trong toàn bộ dân số. Và khi chúng tôi chiếu UV vào họ, hoặc khi chúng tôi làm ấm họ lên đến mức độ tương tự như đèn, nhưng thực sự không cho phép các tia tác động đến da, điều này không xảy ra. Vậy nên, điều này có vẻ là một đặc trưng của tia cực tím tác động vào da.
Now, we're still collecting data. A few good things here: This appeared to be more marked in older people. I'm not sure exactly how much. One of the subjects here was my mother-in-law, and clearly I do not know her age. But certainly in people older than my wife, this appears to be a more marked effect. And the other thing I should mention was there was no change in vitamin D. This is separate from vitamin D. So vitamin D is good for you -- it stops rickets, it prevents calcium metabolism, important stuff. But this is a separate mechanism from vitamin D.
Bây giờ, chúng tôi vẫn đang thu thập dữ liệu. Một vài điều tốt ở đây: Điều này dường như đáng chú ý hơn ở người cao tuổi. Tôi không chắc chắn chính xác nhiều như thế nào. Một trong các đối tượng ở đây là mẹ vợ của tôi, và tôi không biết rõ tuổi của bà ấy Nhưng chắc chắn trong số những người lớn tuổi hơn vợ tôi, Điều này dường như hiệu quả một cách đáng chú ý. Và điều nữa, tôi nên đề cập đến đó là không có sự thay đổi vitamin D. Điều này là riêng biệt với vitamin D. Vitamin D tốt cho bạn--nó ngăn bệnh còi xương, nó ngăn ngừa sự trao đổi chất canxi, công cụ quan trọng. Nhưng đây là một cơ chế riêng biệt với vitamin D.
Now, one of the problems with looking at blood pressure is your body does everything it can to keep your blood pressure at the same place. If your leg is chopped off and you lose blood, your body will clamp down, increase the heart rate, do everything it can to keep your blood pressure up. That is an absolutely fundamental physiological principle.
Bây giờ, là một trong những vấn đề với huyết áp là cơ thể của bạn làm mọi thứ có thể để giữ cho huyết áp của bạn ổn định. Nếu chân của bạn bị cắt và bạn mất máu, cơ thể của bạn sẽ kìm lại, tăng nhịp tim, làm tất cả mọi thứ có thể để bắt kịp huyết áp của bạn. Đó là một nguyên tắc sinh lý hoàn toàn cơ bản.
So what we've next done is we've moved on to looking at blood vessel dilatation. So we've measured -- this is again, notice no tail and hairless, this is a medical student. In the arm, you can measure blood flow in the arm by how much it swells up as some blood flows into it. And what we've shown is that doing a sham irradiation -- this is the thick line here -- this is shining UV on the arm so it warms up but keeping it covered so the rays don't hit the skin. There is no change in blood flow, in dilatation of the blood vessels. But the active irradiation, during the UV and for an hour after it, there is dilation of the blood vessels. This is the mechanism by which you lower blood pressure, by which you dilate the coronary arteries also, to let the blood be supplied with the heart. So here, further data that ultraviolet -- that's sunlight -- has benefits on the blood flow and the cardiovascular system.
Vì vậy những gì chúng tôi đã làm tiếp đó là chúng tôi đã chuyển sang nhìn vào sự nở ra của mạch máu Vì vậy, chúng tôi đã đo--điều này một lần nữa, lưu ý không đuôi và lông, đây là một sinh viên y khoa. Trong cánh tay, bạn có thể đo lường lưu lượng máu bằng sự nở ra bao nhiêu của mạch khi một lượng máu chảy qua Và những gì chúng tôi đã chỉ ra là làm một bức xạ Sham là đường liền nét ở đây-- đây là việc chiếu UV lên cánh tay để nó ấm lên nhưng giữ nó kín để các tia không tác động vào da. Không có sự thay đổi trong dòng máu, sự nở ra của mạch máu. Nhưng bức xạ hoạt động, trong suốt quá trình chiếu tia cực tím và một giờ sau đó, có sự giãn nở của các mạch máu. Đây là cơ chế mà bạn giảm huyết áp, qua đó bạn giãn các động mạch vành ngoài ra, để cho máu được cung cấp đến tim Vì vậy ở đây, hơn cả dữ liệu tia cực tím - đó là ánh sáng mặt trời-- có lợi ích cho sự lưu thông máu và hệ thống tim mạch.
So we thought we'd just kind of model -- Different amounts of UV hit different parts of the Earth at different times of year, so you can actually work out those stores of nitric oxide -- the nitrates, nitrites, nitrosothiols in the skin -- cleave to release NO. Different wavelengths of light have different activities of doing that. So you can look at the wavelengths of light that do that. And you can look -- So, if you live on the equator, the sun comes straight overhead, it comes through a very thin bit of atmosphere. In winter or summer, it's the same amount of light. If you live up here, in summer the sun is coming fairly directly down, but in winter it's coming through a huge amount of atmosphere, and much of the ultraviolet is weeded out, and the range of wavelengths that hit the Earth are different from summer to winter. So what you can do is you can multiply those data by the NO that's released and you can calculate how much nitric oxide would be released from the skin into the circulation.
Nên chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có loại mô hình-- Những lượng khác nhau của UV tác động đến khu vực khác nhau của trái đất ở các thời điểm khác nhau của năm Vì vậy, bạn có thể thực sự khởi động những xưởng sản xuất nitric oxide-- nitrit, nitrat, nitrosothiols trong da-- tách ra để phát tán NO Các bước sóng khác nhau của ánh sáng có các hoạt động khác nhau. Vì vậy, bạn có thể nhìn vào các bước sóng của ánh sáng mà thực hiện điều đó. Và bạn có thể xem--vì vậy, nếu bạn sống trên đường xích đạo, mặt trời đến thiên đỉnh, ánh sáng đi qua bầu khí quyển rất mỏng. Vào mùa đông hoặc mùa hè, cũng có cùng một lượng ánh sáng. Nếu bạn sống ở đây, trong mùa hè mặt trời chiếu xuống khá trực tiếp, nhưng vào mùa đông ánh sáng truyền qua tầng khí quyển rất lớn, và phần lớn tia cực tím bị đào thải , và phạm vi của các bước sóng đến trái đất là khác nhau giữa mùa hè và mùa đông. Những gì bạn có thể làm là bạn có thể nhân những dữ liệu với lượng NO được phát tán và bạn có thể tính toán lượng nitric oxide sẽ được phát tán từ da tới vòng tuần hoàn.
Now, if you're on the equator here -- that's these two lines here, the red line and the purple line -- the amount of nitric oxide that's released is the area under the curve, it's the area in this space here. So if you're on the equator, December or June, you've got masses of NO being released from the skin. So Ventura is in southern California. In summer, you might as well be at the equator. It's great. Lots of NO is released. Ventura mid-winter, well, there's still a decent amount. Edinburgh in summer, the area beneath the curve is pretty good, but Edinburgh in winter, the amount of NO that can be released is next to nothing, tiny amounts.
Bây giờ, nếu bạn đang trên đường xích đạo ở đây-- đó là hai đường biểu diễn ở đây, đường màu đỏ và đường màu tím-- lượng oxit nitric được phát tán ra là diện tích dưới đường cong, nó là diện tích vùng không gian này. Vì vậy, nếu bạn đang trên đường xích đạo, tháng 12 hay tháng 6, bạn đã có lượng lớn NO được phát ra từ da. Ventura, miền Nam California. Vào mùa hè, bạn cũng có như đang ở xích đạo. Thật tuyệt! Rất nhiều NO được phát tán ra ngoài. Ventura vào giữa mùa Đông, Vâng, vẫn còn một lượng hợp thức Edinburgh vào mùa hè, diện tích dưới đường cong là khá lớn, nhưng Edinburgh vào mùa đông, lượng NO có thể được phát tán gần như không có gì, một lượng quá nhỏ.
So what do we think? We're still working at this story, we're still developing it, we're still expanding it. We think it's very important. We think it probably accounts for a lot of the north-south health divide within Britain, It's of relevance to us. We think that the skin -- well, we know that the skin has got very large stores of nitric oxide as these various other forms. We suspect a lot of these come from diet, green leafy vegetables, beetroot, lettuce has a lot of these nitric oxides that we think go to the skin. We think they're then stored in the skin, and we think the sunlight releases this where it has generally beneficial effects.
Vì vậy chúng ta nghĩ gì? Chúng tôi vẫn đang làm việc tiếp với vấn đề này này, chúng tôi vẫn còn đang phát triển nó, chúng tôi vẫn đang mở rộng nó. Chúng tôi nghĩ rằng nó là rất quan trọng. Chúng tôi nghĩ rằng nó đóng vai trò trong sự khác biệt về sức khỏe giữa miền Bắc-Nam trong nước Anh Nó là sự liên quan đến chúng tôi. Chúng tôi nghĩ rằng da-- Vâng, chúng ta biết rằng da có nhà máy rất lớn sản xuất oxit nitric ở nhiều hình thức đa dạng. Chúng tôi nghi ngờ phần lớn đến từ chế độ ăn uống, rau xanh, củ cải đường, rau diếp có rất nhiều oxit nitric mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ đi đến da. Chúng tôi nghĩ rằng lượng này sau đó được lưu trữ trong da, và chúng tôi nghĩ rằng ánh sáng mặt trời bản phát tán chúng nơi mà nó có tác dụng mang lại lợi ích nói chung.
And this is ongoing work, but dermatologists -- I mean, I'm a dermatologist. My day job is saying to people, "You've got skin cancer, it's caused by sunlight, don't go in the sun." I actually think a far more important message is that there are benefits as well as risks to sunlight. Yes, sunlight is the major alterable risk factor for skin cancer, but deaths from heart disease are a hundred times higher than deaths from skin cancer. And I think that we need to be more aware of, and we need to find the risk-benefit ratio. How much sunlight is safe, and how can we finesse this best for our general health?
Và điều này vẫn đang tiếp tục làm việc, nhưng bác sĩ da liễu-- Ý tôi là, tôi là một bác sĩ da liễu. Công việc của tôi là nói với mọi người rằng: "Bạn bị ung thư da, nó bị gây ra bởi ánh sáng mặt trời, đừng đi trong ánh mặt trời nữa." Tôi thực sự nghĩ một thông điệp quan trọng hơn là có lợi ích cũng như rủi ro trong ánh sáng mặt trời. Có, ánh sáng mặt trời là yếu tố lớn gây nguy cơ ung thư da, nhưng người chết vì bệnh tim nhiều hơn hàng trăm lần so với người chết vì bệnh ung thư da. Và tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải ý thức nhiều hơn và chúng ta cần phải tìm ra được tỷ lệ rủi ro-lợi ích. Bao nhiêu ánh sáng mặt trời là an toàn, và làm thế nào để chúng ta sử dụng khéo léo nhất cho sức khỏe tổng quát của chúng ta?
So, thank you very much indeed. (Applause)
Cảm ơn các bạn rất nhiều (Vỗ tay)