So, can we dare to be optimistic? Well, the thesis of "The Bottom Billion" is that a billion people have been stuck living in economies that have been stagnant for 40 years, and hence diverging from the rest of mankind. And so, the real question to pose is not, "Can we be optimistic?" It's, "How can we give credible hope to that billion people?" That, to my mind, is the fundamental challenge now of development.
Liệu chúng ta có dám lạc quan? Vấn đề "Tỉ người ở đáy xã hội" đề cập đến một tỉ người đang bị kẹt cứng trong những nền kinh tế trì trệ từ 40 năm nay và vì thế họ bị tách biệt khỏi thế giới. Do đó, câu hỏi thật sự không phải là "Liệu chúng ta có thể lạc quan?" mà là, "Chúng ta mang hi vọng tới một tỉ người đó bằng cách nào?" Việc đó, theo tôi, là thách thức cơ bản nhất của sự phát triển hiện nay.
What I'm going to offer you is a recipe, a combination of the two forces that changed the world for good, which is the alliance of compassion and enlightened self-interest. Compassion, because a billion people are living in societies that have not offered credible hope. That is a human tragedy. Enlightened self-interest, because if that economic divergence continues for another 40 years, combined with social integration globally, it will build a nightmare for our children. We need compassion to get ourselves started, and enlightened self-interest to get ourselves serious. That's the alliance that changes the world.
Điều tôi sắp nói đây là một công thức bao gồm sự kết hợp của hai nguồn lực đang thay đổi thế giới theo chiều hướng tốt, đó là sự tương thân tương ái và loại bỏ sự ích kỷ. Đó là lòng thương vì một tỉ người này đang sống trong những xã hội không có niềm hi vọng tối thiểu. Một thảm kịch của nhân loại. Đó là sự loại bỏ ích kỷ vì lợi ích chung, vì nếu khác biệt giữa các nền kinh tế kéo dài thêm 40 năm nữa, cùng với sự giao thoa xã hội toàn cầu, nó sẽ trở thành cơn ác mộng cho thế hệ con cháu chúng ta. Chúng ta cần lòng thương để bắt đầu và loại bỏ ích kỷ để nhìn nhận một cách nghiêm túc. Chính sự chung lòng sẽ thay đổi thế giới.
So, what does it mean to get serious about providing hope for the bottom billion? What can we actually do? Well, a good guide is to think, "What did we do last time the rich world got serious about developing another region of the world?" That gives us, it turns out, quite a good clue, except you have to go back quite a long time. The last time the rich world got serious about developing another region was in the late 1940s. The rich world was you, America, and the region that needed to be developed was my world, Europe. That was post-War Europe.
Vậy, ý nghĩa thực sự của việc truyền hi vọng tới một tỉ người bần cùng đó là gì? Chúng ta thực sự có thể làm được những gì? Một hướng suy nghĩ tích cực, đó là "Chúng ta đã làm gì vào lần gần đây nhất khi nước giàu nghiêm túc trong việc giúp phát triển các vùng khác trên thế giới?" Hóa ra đó là một điểm sáng, tiếc là việc việc đó xảy ra lâu lắm rồi. Lần cuối mà nước giàu nghiêm túc về việc giúp đỡ các nước khác là vào cuối thập niên 1940. Vâng, tôi đang nói đến vùng đất thịnh vượng Hoa Kỳ và khu vực cần được vực dậy chính là Châu Âu, vùng đất của tôi Đó là Châu Âu sau chiến tranh.
Why did America get serious? It wasn't just compassion for Europe, though there was that. It was that you knew you had to, because, in the late 1940s, country after country in Central Europe was falling into the Soviet bloc, and so you knew you'd no choice. Europe had to be dragged into economic development.
Tại sao lúc đó Mỹ lại nghiêm túc? Không phải chỉ vì lòng thương dành cho Châu Âu. Mà đó là vì bạn biết bạn cần phải làm, bởi cuối những năm 1940, liên tiếp các nước Trung Âu gia nhập vào khối Soviet, và Mỹ biết mình không còn sự lựa chọn khác Châu Âu cần được kéo vào quỹ đạo phát triển kinh tế.
So, what did you do, last time you got serious? Well, yes, you had a big aid program. Thank you very much. That was Marshall aid: we need to do it again. Aid is part of the solution. But what else did you do? Well, you tore up your trade policy, and totally reversed it. Before the war, America had been highly protectionist. After the war, you opened your markets to Europe, you dragged Europe into the then-global economy, which was your economy, and you institutionalized that trade liberalization through founding the General Agreement on Tariffs and Trade. So, total reversal of trade policy.
Vậy nước Mỹ đã làm những gì vào thời điểm ấy? Đúng thế, các bạn đã cung cấp một chương trình viện trợ lớn. Rất cảm ơn Là Hỗ trợ Marshall: hãy làm lại. Viện trợ là một phần của giải pháp. Nhưng, Mỹ còn làm gì nữa? Vâng, các bạn đã bỏ chính sách giao thương và làm ngược lại Trước chiến tranh, Mỹ rất hạn chế giao thương. Sau chiến tranh, Mỹ đã mở cửa với Châu Âu, Mỹ kéo Châu Âu vào nền kinh tế toàn cầu, lúc đó là nền kinh tế Mỹ và tổ chức tự do giao thương, qua việc thành lập hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch Vậy, chính sách giao thương đã bị lật ngược hoàn toàn.
Did you do anything else? Yes, you totally reversed your security policy. Before the war, your security policy had been isolationist. After the war, you tear that up, you put 100,000 troops in Europe for over 40 years. So, total reversal of security policy. Anything else? Yes, you tear up the "Eleventh Commandment" -- national sovereignty. Before the war, you treated national sovereignty as so sacrosanct that you weren't even willing to join the League of Nations. After the war, you found the United Nations, you found the Organization for Economic Cooperation and Development, you found the IMF, you encouraged Europe to create the European Community -- all systems for mutual government support. That is still the waterfront of effective policies: aid, trade, security, governments. Of course, the details of policy are going to be different, because the challenge is different. It's not rebuilding Europe, it's reversing the divergence for the bottom billion, so that they actually catch up. Is that easier or harder? We need to be at least as serious as we were then.
Mỹ còn làm gì khác? Đúng thế, các bạn đã lật ngược hoàn toàn chính sách an ninh Trước chiến tranh, chính sách an ninh của Mỹ theo khuynh hướng biệt lập Sau chiến tranh, các bạn đã phá bỏ nó và đưa 100,000 quân tới Châu Âu trong hơn 40 năm Chính sách an ninh bị lật ngược. Còn gì khác nữa? Mỹ còn phá bỏ "Điều lệnh thứ 11" về chủ quyền quốc gia Trước chiến tranh, Mỹ coi chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm và vì thế Mỹ không tham gia Hội Quốc Liên Sau chiến tranh, các bạn thành lập Liên Hiệp Quốc, và thành lập Tổ chức Hợp tác và phát triển Kinh tế, lập Quỹ tiền tệ thế giới, khuyến khích Châu Âu thành lập cộng đồng chung -- tất cả hệ thống đó nhằm sự tương hỗ giữa các chính phủ. Đây vẫn chỉ là bề nổi của những chính sách hiệu quả: trợ giúp, thương mại, an ninh, chính phủ. Tất nhiên, ngày nay khi đi chi tiết vào từng chính sách sẽ có sự khác biệt vì những khó khăn cũng rất khác. Đó còn là chuyện xây dựng lại Châu Âu mà là xóa bỏ cách biệt đối với một tỷ người cùng cực để họ thực sự có thể theo kịp. Điều đó khó khăn hơn hay đơn giản hơn? Chúng ta ít nhất phải có được ý thức giống như trước đây.
Now, today I'm going to take just one of those four. I'm going to take the one that sounds the weakest, the one that's just motherhood and apple pie -- governments, mutual systems of support for governments -- and I'm going to show you one idea in how we could do something to strengthen governance, and I'm going to show you that that is enormously important now. The opportunity we're going to look to is a genuine basis for optimism about the bottom billion, and that is the commodity booms. The commodity booms are pumping unprecedented amounts of money into many, though not all, of the countries of the bottom billion. Partly, they're pumping money in because commodity prices are high, but it's not just that. There's also a range of new discoveries. Uganda has just discovered oil, in about the most disastrous location on Earth; Ghana has discovered oil; Guinea has got a huge new exploitation of iron ore coming out of the ground. So, a mass of new discoveries. Between them, these new revenue flows dwarf aid. Just to give you one example: Angola alone is getting 50 billion dollars a year in oil revenue. The entire aid flows to the 60 countries of the bottom billion last year were 34 billion. So, the flow of resources from the commodity booms to the bottom billion are without precedent. So there's the optimism.
Xin bàn về một trong bốn điều, trợ giúp, thương mại, an ninh, chính phủ. Tôi sẽ nói về chính sách có vẻ yếu thế nhất, điều dễ hiểu và cốt yếu-- các chính phủ, hệ thống tương hỗ chính phủ các chính phủ - Tôi sẽ đưa ra một ý tưởng làm thế nào củng cố quản lí nhà nước, tôi sẽ chỉ ra ngày nay điều đó vô cùng quan trọng. Cơ hội chúng ta sẽ hướng tới là nền tảng lạc quan cho một tỉ người nghèo khổ, và đó là sự bùng nổ hàng hóa. Bùng nổ hàng hóa là việc bơm những khoản tiền chưa từng có vào nhiều, mặc dù không phải tất cả, vào những nước có dân chúng nghèo khổ. Một mặt, họ bơm tiền vào vì giá cả hàng hóa còn cao, nhưng không chỉ thế. Đã có nhiều phát hiện nguồn dự trữ tại đó. Uganda vừa khám phá ra dầu, tại nơi gần như là khắc nghiệt nhất Trái Đất. Ghana đã tìm ra dầu; Guinea vừa khai thác lượng lớn quặng sắt từ lòng đất. Ồ, thật nhiều phát hiện mới. Nguồn thu từ chúng duy trì những viện trợ nhỏ. Đây là một ví dụ: Chỉ riêng Angola đã thu 50 triệu đô mỗi năm nhờ dầu thô Năm ngoái họ đã tài trợ 34 tỉ đến 60 nước có 1 tỉ người nghèo. Dòng chảy tài nguyên qua hiện tượng bùng nổ hàng hóa đến với một tỉ người nghèo là chưa từng có. Thật lạc quan.
The question is, how is it going to help their development? It's a huge opportunity for transformational development. Will it be taken? So, here comes a bit of science, and this is a bit of science I've done since "The Bottom Billion," so it's new. I've looked to see what is the relationship between higher commodity prices of exports, and the growth of commodity-exporting countries. And I've looked globally, I've taken all the countries in the world for the last 40 years, and looked to see what the relationship is. And the short run -- say, the first five to seven years -- is just great. In fact, it's hunky dory: everything goes up. You get more money because your terms of trade have improved, but also that drives up output across the board. So GDP goes up a lot -- fantastic! That's the short run. And how about the long run? Come back 15 years later. Well, the short run, it's hunky dory, but the long run, it's humpty dumpty. You go up in the short run, but then most societies historically have ended up worse than if they'd had no booms at all. That is not a forecast about how commodity prices go; it's a forecast of the consequences, the long-term consequences, for growth of an increase in prices.
Vậy câu hỏi là làm thế nào điều đó giúp cho sự phát triển của họ? Đó là cơ hội lớn cho sự phát triển toàn diện. Liệu cơ hội đó sẽ được chớp lấy? Đây là một nghiên cứu nhỏ tôi đã làm từ "một tỉ người nghèo nhất", nó khá mới. Tôi đã xem xét mối quan hệ giữa giá hàng hóa xuất khẩu cao hơn và sự phát triển của các nước xuất khẩu đó. Tôi đã nghiên cứu tất cả các nước trên toàn thế giới trong 40 năm qua, và tôi đã xem xét mối quan hệ đó là gì Trong thời gian ngắn, 5 đến 7 năm đầu, kết quả rất tuyệt Đúng như mong đợi: mọi thứ đều đi lên. Bạn có nhiều tiền hơn vì cán cân thương mại được cải thiện, nhưng nó cũng giúp tổng số sản phẩm. GDP tăng lên nhiều - tuyệt vời! Đó là trước mắt. Vậy lâu dài thì sao? Trở lại 15 năm sau đó. Trong thời gian ngắn, kết quả rất tốt. Nhưng về lâu dài, nó thực sự tồi tệ. Đi lên trong thời gian ngắn, nhưng sau đó hầu hết các nước có kết cục tồi tệ hơn so với nếu không có đợt bùng nổ đó. Đó không phải là dự báo về cách thức giá hàng hóa giao động; mà là dự báo về hệ quả lâu dài đối với sự phát triển nhờ sự tăng giá.
So, what goes wrong? Why is there this "resource curse," as it's called? And again, I've looked at that, and it turns out that the critical issue is the level of governance, the initial level of economic governance, when the resource booms accrue. In fact, if you've got good enough governance, there is no resource boom. You go up in the short term, and then you go up even more in the long term. That's Norway, the richest country in Europe. It's Australia. It's Canada. The resource curse is entirely confined to countries below a threshold of governance. They still go up in the short run. That's what we're seeing across the bottom billion at the moment. The best growth rates they've had -- ever. And the question is whether the short run will persist. And with bad governance historically, over the last 40 years, it hasn't. It's countries like Nigeria, which are worse off than if they'd never had oil.
Vậy, chỗ sai ở đâu? Tại sao có "lời nguyền tài nguyên", đúng như tên gọi Một lần nữa, tôi nhận thấy rằng vấn đề mấu chốt là trình độ quản lí, trình độ ban đầu của quản lí kinh tế, khi sự bùng nổ nguyên liệu xuất hiện. Trên thực tế, nếu quản trị đủ tốt, sự bùng nổ sẽ không xảy ra. Bạn đi lên trong thời gian ngắn, và tiếp tục lâu dài. Đó là Na uy, đất nước giàu nhất Châu Âu. Là Úc, hay Canada. Lời nguyền tài nguyên hoàn toàn gắn với những nước dưới ngưỡng quản lí nhà nước. Họ vẫn đi lên trong ngắn hạn. Đó là điều ta đang thấy ở những nước nghèo nhất. Tỉ lệ tăng trưởng cao nhất họ từng có. Câu hỏi đặt ra là: liệu thành quả ngắn hạn có duy trì được không. Với cách quản trị tồi tệ trong quá khứ. suốt 40 năm qua, điều này đã không xảy ra. Đó là những nước như Nigeria, tồi tệ hơn là nếu họ không có dầu mỏ.
So, there's a threshold level above which you go up in the long term, and below which you go down. Just to benchmark that threshold, it's about the governance level of Portugal in the mid 1980s. So, the question is, are the bottom billion above or below that threshold? Now, there's one big change since the commodity booms of the 1970s, and that is the spread of democracy. So I thought, well, maybe that is the thing which has transformed governance in the bottom billion. Maybe we can be more optimistic because of the spread of democracy. So, I looked. Democracy does have significant effects -- and unfortunately, they're adverse. Democracies make even more of a mess of these resource booms than autocracies.
Vậy, có một ngưỡng mà, trên ngưỡng đó họ sẽ phát triển trong dài hạn, và dưới ngưỡng đó họ đi xuống. Để thử lấy ví dụ về ngưỡng đó, trình độ quản trị của Bồ Đào Nha vào giữa những năm 1980. Câu hỏi đặt ra ở đây là: họ ở trên hay dưới ngưỡng đó? Có sự thay đổi rất lớn kể từ sự bùng nổ hàng hóa vào thập niên 1970, đó là sự phổ biến của chế độ dân chủ. Điều này làm tôi suy nghĩ rằng: có lẽ đó là điều làm thay đổi khả năng quản trị ở những nước nghèo. Có lẽ chúng ta cần lạc quan hơn vì có sự lan tỏa của chế độ dân chủ. Tôi nhận thấy. Chế độ dân chủ có nhiều tác động rất mạnh mẽ-- không may, đó là tác động tiêu cực. Nền dân chủ làm cho sự bùng nổ năng lượng trở nên lộn xộn hơn cả nền chuyên chế.
At that stage I just wanted to abandon the research, but -- (Laughter) -- it turns out that democracy is a little bit more complicated than that. Because there are two distinct aspects of democracy: there's electoral competition, which determines how you acquire power, and there are checks and balances, which determine how you use power. It turns out that electoral competition is the thing that's doing the damage with democracy, whereas strong checks and balances make resource booms good. And so, what the countries of the bottom billion need is very strong checks and balances. They haven't got them. They got instant democracy in the 1990s: elections without checks and balances.
Ở giai đoạn đó, tôi chỉ muốn vứt bỏ những nghiên cứu của mình, nhưng-- (cười) hóa ra nền dân chủ phức tạp hơn thế. Bởi vì có hai khía cạnh khác biệt của chế độ dân chủ: đó là cuộc đua bầu cử, điều quyết định ai sẽ dành được quyền lực và sự kiểm soát-cân bằng để quyết định cách sử dụng quyền lực. Hóa ra cuộc đua bầu cử là điều đang hủy hoại chế độ dân chủ, trong khi sự kiểm soát-cân bằng giữ cho sự bùng nổ năng lượng được an toàn. Vậy, điều mà các quốc gia của 1 tỷ người nghèo cần là một hệ thống tam quyền phân lập chặt chẽ. Họ chưa có điều đó Họ đột ngột tiến tới nền dân chủ vào những năm 1990: những cuộc bầu cử không có sự kiểm soát-cân bằng.
How can we help improve governance and introduce checks and balances? In all the societies of the bottom billion, there are intense struggles to do just that. The simple proposal is that we should have some international standards, which will be voluntary, but which would spell out the key decision points that need to be taken in order to harness these resource revenues. We know these international standards work because we've already got one. It's called the Extractive Industries Transparency Initiative. That is the very simple idea that governments should report to their citizens what revenues they have. No sooner was it proposed than reformers in Nigeria adopted it, pushed it and published the revenues in the paper. Nigerian newspapers circulations spiked. People wanted to know what their government was getting in terms of revenue.
Làm sao để cải thiện quản trị và thực hiện tam quyền phân lập. Trong tất cả các nước nghèo, có những cuộc đấu tranh quyết liệt để thực hiện điều đó. Một kiến nghị đơn giản là nên có một vài tiêu chuẩn quốc tế, không mang tính bắt buộc, nhưng phải nói lên những điểm quyết định cần được tiến hành đúng quy trình để kiểm soát những nguồn thu từ tài nguyên. Chúng ta biết những tiêu chuẩn quốc tế này sẽ hiệu quả, chúng ta cũng đã có một tiêu chuẩn rồi. Đó là Sáng kiến Minh bạch trong Công nghiệp Khai thác. Đó là cách đơn giản khi nhà nước công khai về các khoản thu. Ngay khi việc này được đề xuất các nhà cải cách ở Nigeria áp dụng, và công bố nguồn thu thông qua văn bản. Lượng tiêu thụ báo ở Nigeria tăng vọt. Mọi người muốn biết chính phủ đạt được gì về mặt nguồn thu.
So, we know it works. What would the content be of these international standards? I can't go through all of them, but I'll give you an example. The first is how to take the resources out of the ground -- the economic processes, taking the resources out of the ground and putting assets on top of the ground. And the first step in that is selling the rights to resource extraction. You know how rights to resource extraction are being sold at the moment, how they've been sold over the last 40 years? A company flies in, does a deal with a minister. And that's great for the company, and it's quite often great for the minister -- (Laughter) -- and it's not great for their country. There's a very simple institutional technology which can transform that, and it's called verified auctions. The public agency with the greatest expertise on Earth is of course the treasury -- that is, the British Treasury. And the British Treasury decided that it would sell the rights to third-generation mobile phones by working out what those rights were worth. They worked out they were worth two billion pounds. Just in time, a set of economists got there and said, "Why not try an auction? It'll reveal the value." It went for 20 billion pounds through auction. If the British Treasury can be out by a factor of 10, think what the ministry of finance in Sierra Leone is going to be like. (Laughter) When I put that to the President of Sierra Leone, the next day he asked the World Bank to send him a team to give expertise on how to conduct auctions.
Chúng ta biết nó hiệu quả. Vậy nội dung của những tiêu chuẩn quốc tế này là gì? Tôi không thể nói hết, nhưng có thể đưa cho bạn một ví dụ. Đầu tiên, làm sao để lấy nguồn nguyên liệu ra khỏi lòng đất - đó chính là quá trình của nền kinh tế và đặt nó trên mặt đất. Bước đầu tiên là rao bán quyền khai thác nguyên liệu. Bạn có biết quyền này đang được bán như thế nào không? Và nó được bán như thế nào 40 năm qua? Một công ty đến, thỏa thuận với 1 bộ trưởng. Điều đó rất tuyệt đối với công ty, và thường rất hấp dẫn đối với ngài bộ trưởng -- (cười) nhưng không tốt cho đất nước đó. Có một thể chế rất đơn giản có thể thay đổi điều này đó là các cuộc đấu giá được kiểm định. Cơ quan nhà nước với chuyên môn tốt nhất là kho bạc - kho bạc nước Anh Cơ quan này quyết định bán quyền cho thế hệ điện thoại di động thứ ba qua việc làm rõ quyền này giá trị thế nào. Họ xác định nó đáng giá 2 tỷ pounds. Đúng lúc một vài nhà kinh tế đến và nói rằng "Sao không đấu giá? Đấu giá thì biết giá trị thực ngay mà?" Cuối cùng nó được định giá 20 tỷ pounds. Nếu như kho bạc Anh đã có thể mất số tiền lớn gấp 10 lần, thì bộ trưởng tài chính của Sierra Leone sẽ thế nào đây? (Cười) Tôi đã đề đạt với tổng thống Sierra Leone, hôm sau ông yêu cầu ngân hàng thế giới gửi đến một nhóm tư vấn chuyên môn về việc tổ chức buổi đấu giá.
There are five such decision points; each one needs an international standard. If we could do it, we would change the world. We would be helping the reformers in these societies, who are struggling for change. That's our modest role. We cannot change these societies, but we can help the people in these societies who are struggling and usually failing, because the odds are so stacked against them. And yet, we've not got these rules. If you think about it, the cost of promulgating international rules is zilch -- nothing. Why on Earth are they not there? I realized that the reason they're not there is that until we have a critical mass of informed citizens in our own societies, politicians will get away with gestures. That unless we have an informed society, what politicians do, especially in relation to Africa, is gestures: things that look good, but don't work. And so I realized we had to go through the business of building an informed citizenry.
Có 5 điểm quyết định: mỗi điểm cần một tiêu chuẩn quốc tế. Nếu làm được, chúng ta có thể thay đổi thế giới. Chúng ta có thể giúp đỡ những nhà cải cách đang chật vật với việc thay đổi. Đó là vai trò khiêm tốn của chúng ta. Chúng ta không thể thay đổi xã hội, nhưng chúng ta có thể giúp những người đang hàng ngày chật vật và thất bại, vì số đông vẫn đang chống lại họ. và cho đến giờ, chúng ta chưa có luật. Nếu suy nghĩ thì, Ban hành các luật lệ quốc tế không mất gì cả. Vậy tại sao lại nó không tồn tại? Tôi nhận ra nguyên nhân không nằm ở đó mà là cho đến khi chúng ta có một xã hội gồm những công dân hiểu biết, thì các chính trị gia sẽ làm được. Đó là khi ta có một xã hội được thông tin đầy đủ, thì những gì các chính trị gia làm, đặc biệt là ở châu Phi, là : những việc có vẻ tốt, nhưng không hiệu quả. Và tôi nhận thấy rằng, chúng ta cần phải thông qua thương mại để xây dựng một xã hội có thông tin.
That's why I broke all the professional rules of conduct for an economist, and I wrote an economics book that you could read on a beach. (Laughter). However, I have to say, the process of communication does not come naturally to me. This is why I'm on this stage, but it's alarming. I grew up in a culture of self-effacement. My wife showed me a blog comment on one of my last talks, and the blog comment said, "Collier is not charismatic -- (Laughter) -- but his arguments are compelling." (Laughter) (Applause) If you agree with that sentiment, and if you agree that we need a critical mass of informed citizenry, you will realize that I need you. Please, become ambassadors. Thank you. (Applause)
Đó là lý do tôi phá bỏ mọi nguyên tắc ứng xử của một nhà kinh tế học, để viết một cuốn sách kinh tế có thể đọc trên bãi biển. (Cười) Tuy vậy, phải nói rằng quá trình giao tiếp không tự nhiên đến với tôi. Đó là lý do tôi đứng trên sân khấu này, nhưng đáng báo động. Tôi lớn lên trong một nền văn hóa sống khép kín. Vợ tôi cho tôi xem 1 bình luận về 1 bài thuyết trình của tôi Bình luận đó nói rằng: "Collier không được lôi cuốn lắm-- (Cười) - nhưng lý lẽ của ông ấy khá thuyết phục." (Cười) (vỗ tay) Nếu các bạn cũng nghĩ như vậy, và cũng cho rằng cần phải có 1 xã hội hiểu biết, thì bạn sẽ nhận ra rằng tôi cần bạn. Xin hãy trở thành những đại sứ để truyền thông điệp này. Cảm ơn các bạn (vỗ tay)