Today, I'd like to talk with you about something that should be a totally uncontroversial topic. But, unfortunately, it's become incredibly controversial.
Hôm nay, tôi sẽ nói với các bạn về một chủ đề mà lẽ ra nó hoàn toàn không hề mang tính tranh cãi. Nhưng thật đáng tiếc, nó lại đem đến rất nhiều sự tranh luận.
This year, if you think about it, over a billion couples will have sex with one another. Couples like this one, and this one, and this one, and, yes, even this one.
Trong năm nay, nếu bạn quan tâm, có hơn một tỷ cặp đôi quan hệ tình dục với nhau. Như cặp đôi này, và cặp này, và cặp này, và dĩ nhiên, cả cặp đôi này nữa.
(Laughter)
( Cười )
And my idea is this -- all these men and women should be free to decide whether they do or do not want to conceive a child. And they should be able to use one of these birth control methods to act on their decision. Now, I think you'd have a hard time finding many people who disagree with this idea. Over one billion people use birth control without any hesitation at all. They want the power to plan their own lives and to raise healthier, better educated and more prosperous families.
Và quan điểm của tôi ở đây là tất cả đàn ông và phụ nữ nên được tự do quyết định họ muốn hay không muốn sinh ra một đứa con. Họ nên sử dụng một trong những biện pháp tránh thai ở đây để quyết định. Tôi nghĩ rằng bạn đã từng khó chịu khi biết rằng có rất nhiều người không đồng ý với quan điểm này. Hơn một tỷ người dùng biện pháp ngừa thai mà không hề do dự chút nào. Họ muốn được quyền hoạch định cuộc sống riêng tư của họ muốn xây dựng một gia đình khỏe hơn, được học hành tốt hơn và sung túc hơn.
But, for an idea that is so broadly accepted in private, birth control certainly generates a lot of opposition in public. Some people think when we talk about contraception that it's code for abortion, which it's not. Some people -- let's be honest -- they're uncomfortable with the topic because it's about sex. Some people worry that the real goal of family planning is to control populations. These are all side issues that have attached themselves to this core idea that men and women should be able to decide when they want to have a child. And as a result, birth control has almost completely and totally disappeared from the global health agenda.
Nhưng đối với một quan điểm được chấp nhận rộng rãi trong sự riêng tư, việc ngừa thai lại tạo ra nhiều phản đối trong công luận. Một vài người nghĩ rằng khi nói đến phương pháp ngừa thai nó có nghĩa là phá thai, vốn không phải như thế. Thực lòng mà nói, một số người, họ không thoải mái khi nói về chủ đề này vì nó đề cập đến tình dục. Một số người lo lắng rằng mục tiêu thực sự của kế hoạch hóa gia đình là kiểm soát sự gia tăng dân số. Những vấn đề phát sinh từ đa phía này tự gắn kết chúng với một tư tưởng cốt lõi rằng tất cả đàn ông và phụ nữ nên có quyền quyết định khi nào họ muốn có một đứa con. Và kết quả là, sự tránh thai đã hoàn toàn biến mất khỏi nghị trình về sức khỏe toàn cầu.
The victims of this paralysis are the people of sub-Saharan Africa and South Asia. Here in Germany, the proportion of people that use contraception is about 66 percent. That's about what you'd expect. In El Salvador, very similar, 66 percent. Thailand, 64 percent. But let's compare that to other places, like Uttar Pradesh, one of the largest states in India. In fact, if Uttar Pradesh was its own country, it would be the fifth largest country in the world. Their contraception rate -- 29 percent. Nigeria, the most populous country in Africa, 10 percent. Chad, 2 percent. Let's just take one country in Africa, Senegal. Their rate is about 12 percent.
Nạn nhân của sự tê liệt này là những cư dân vùng Saharan Châu Phi và vùng Nam Á. Ở Đức, tỷ lệ người sử dụng biện pháp ngừa thai vào khoảng 66%. Đó là tỷ lệ quý vị mong muốn. Ở El Salvador, cũng như vậy, 66%. Thái Lan, 64%. Nhưng hãy so sánh với những nơi khác, như Uttar Pradesh, một trong những bang lớn nhất của Ấn Độ. Thật ra, nếu như Uttar Pradesh là một quốc gia, nó sẽ là đất nước lớn thứ năm của thế giới Tỷ lệ dùng biện pháp ngừa thai là 29%. Nigeria, quốc gia đông dân nhất ở Châu Phi, 10%. Chad, 2%. Hãy lấy một quốc gia ở Châu Phi làm ví dụ, Senegal. Tỷ lệ vào khoảng 12%.
But why is it so low? One reason is that the most popular contraceptives are rarely available. Women in Africa will tell you over and over again that what they prefer today is an injectable. They get it in their arm -- and they go about four times a year, they have to get it every three months -- to get their injection. The reason women like it so much in Africa is they can hide it from their husbands, who sometimes want a lot of children. The problem is every other time a woman goes into a clinic in Senegal, that injection is stocked out. It's stocked out 150 days out of the year. So can you imagine the situation -- she walks all this way to go get her injection. She leaves her field, sometimes leaves her children, and it's not there. And she doesn't know when it's going to be available again. This is the same story across the continent of Africa today.
Tại sao tỷ lệ này lại thấp đến thế? Lý do là những công cụ ngừa thai phổ biến nhất hiếm khi nào có sẵn. Những phụ nữ ở Châu Phi sẽ nói đi nói lại với bạn rằng biện pháp mà họ ưa thích nhất hiện nay là tiêm thuốc . Họ tiêm thuốc vào cánh tay khoảng bốn lần một năm, họ phải tiêm thuốc cứ ba tháng một lần. Lý do phụ nữ ở Châu Phi rất thích tiêm là họ có thể giấu điều đó với chồng họ, những ông chồng đôi khi muốn có nhiều con. Vấn đề là nhiều lúc một phụ nữ đến một phòng khám ở Senegal, thì thuốc tiêm đã hết rồi. Chúng đã hết trước đó 150 ngày. Qúy vị có thể tưởng tượng được rằng Cô ấy đi bộ khắp nơi để tìm chỗ tiêm thuốc. Cô ấy phải tạm dừng việc đồng áng, đôi khi để con cái ở nhà, khi đến đó thuốc tiêm đã hết. Cô ấy cũng không biết rằng khi nào thuốc sẽ có trở lại. Đây là câu chuyện chung xảy ra trên toàn lục địa Châu Phi ngày nay
And so what we've created as a world has become a life-and-death crisis. There are 100,000 women [per year] who say they don't want to be pregnant and they die in childbirth -- 100,000 women a year. There are another 600,000 women [per year] who say they didn't want to be pregnant in the first place, and they give birth to a baby and her baby dies in that first month of life. I know everyone wants to save these mothers and these children. But somewhere along the way, we got confused by our own conversation. And we stopped trying to save these lives.
Những gì chúng ta tạo ra trên thế giới này đã trở thành một cuộc khủng hoảng sống còn. Có 100.000 phụ nữ (trong một năm) nói rằng họ không muốn mang thai và họ chết trong lúc sinh nở - 100.000 phụ nữ trong một năm. Có 600.000 phụ nữ khác (trong vòng một năm) nói rằng họ đã không muốn mang thai lần đầu, và khi họ sinh ra đứa trẻ nó đã chết khi mới được một tháng tuổi. Tôi biết mọi người đều muốn cứu sống những bà mẹ và những đứa trẻ này. Nhưng đôi khi ở một nơi nào đó, chúng ta lại trở nên mơ hồ với chính những gì chúng ta đã nói. Và chúng ta đã ngừng cứu họ.
So if we're going to make progress on this issue, we have to be really clear about what our agenda is. We're not talking about abortion. We're not talking about population control. What I'm talking about is giving women the power to save their lives, to save their children's lives and to give their families the best possible future.
Vì thế nếu chúng ta muốn cải thiện vấn đề này, chúng ta phải thực sự hiểu rõ về chương trình nghị sự của chúng ta là gì. Chúng ta không nói về việc phá thai. Chúng ta không nói về sự kiểm soát dân số. Những gì tôi đang nói là trao cho phụ nữ quyền cứu lấy cuộc sống của họ, cứu lấy cuộc sống của những đứa trẻ và đem lại cho gia đình của họ tương lai tốt đẹp nhất.
Now, as a world, there are lots of things we have to do in the global health community if we want to make the world better in the future -- things like fight diseases. So many children today die of diarrhea, as you heard earlier, and pneumonia. They kill literally millions of children a year. We also need to help small farmers -- farmers who plow small plots of land in Africa -- so that they can grow enough food to feed their children. And we have to make sure that children are educated around the world. But one of the simplest and most transformative things we can do is to give everybody access to birth control methods that almost all Germans have access to and all Americans, at some point, they use these tools during their life. And I think as long as we're really clear about what our agenda is, there's a global movement waiting to happen and ready to get behind this totally uncontroversial idea.
Cùng là đồng loại với nhau, chúng ta phải làm rất nhiều thứ cho sức khỏe cộng đồng trên toàn cầu nếu chúng ta muốn làm cho thế giới tốt đẹp hơn nữa Những thứ như chống lại bệnh tật. Có rất nhiều trẻ em chết vì tiêu chảy và chết vì bệnh viêm phổi hiện nay. Bệnh tật đã giết chết hàng triệu đứa trẻ trong một năm. Chúng ta cũng cần giúp những nông dân nhỏ bé, những người đang cày bừa trên những thửa ruộng bé nhỏ ở Châu Phi nhờ đó họ có thể trồng đủ lương thực để nuôi sống con của họ. Chúng ta phải chắc chắn rằng trẻ em trên khắp thế giới được học hành Một trong những điều đơn giản nhất và có tính đổi mới nhất ta có thể làm là đem đến cho mọi người khả năng tiếp cận các biện pháp tránh thai như mọi công dân Đức và công dân Mỹ, họ dùng các biện pháp tránh thai này trong suốt cuộc đời họ. Tôi nghĩ miễn là chúng ta thực sự hiểu chương trình nghị sự của chúng ta là gì, thì sẽ có một vận động mang tính toàn cầu và nó sẽ sẵn sàng ủng hộ quan điểm mang tính tranh cãi này.
When I grew up, I grew up in a Catholic home. I still consider myself a practicing Catholic. My mom's great-uncle was a Jesuit priest. My great-aunt was a Dominican nun. She was a schoolteacher and a principal her entire life. In fact, she's the one who taught me as a young girl how to read. I was very close to her. And I went to Catholic schools for my entire childhood until I left home to go to university. In my high school, Ursuline Academy, the nuns made service and social justice a high priority in the school. Today, in the [Gates] Foundation's work, I believe I'm applying the lessons that I learned in high school.
Tôi sinh trưởng trong một gia đình theo đạo Công giáo. Tôi vẫn xem mình là một người ngoan đạo. Ông chú của mẹ tôi là một người tu theo dòng Chúa Giêsu. Bà cô của mẹ là một bà sơ tu theo dòng Dominican. Bà là một giáo viên và là một hiệu trưởng lâu năm. Bà là người đã dạy tôi biết đọc lúc tôi còn là một cô bé. Tôi rất thân thiết với bà. Tôi học ở trường Công giáo trong suốt thời thơ ấu cho đến khi tôi rời gia đình để đi học đại học. Ở trường trung học của tôi, học viện Ursuline, các bà sơ rất đề cao việc phụng sự và công bằng xã hội. Ngày nay, khi làm việc cho Qũy Gates, Tôi tin mình đã ứng dụng các bài học mà tôi được dạy ở trường trung học.
So, in the tradition of Catholic scholars, the nuns also taught us to question received teachings. And one of the teachings that we girls and my peers questioned was is birth control really a sin? Because I think one of the reasons we have this huge discomfort talking about contraception is this lingering concern that if we separate sex from reproduction, we're going to promote promiscuity. And I think that's a reasonable question to be asked about contraception -- what is its impact on sexual morality?
Theo Công giáo truyền thống, các bà sơ cũng dạy chúng tôi biết xem xét lại những điều được học. Điều mà chúng tôi đã từng hoài nghi đó là việc tránh thai liệu có thực sự là một tội lỗi? Tôi nghĩ một trong những lý do khiến chúng ta thấy ngại khi nói về vấn đề tránh thai chính là mối bận tâm kéo dài ở chỗ nếu chúng ta tách biệt tình dục với sinh sản, chúng ta sẽ khuyến khích việc quan hệ bừa bãi. Một câu hỏi hợp lý về việc tránh thai cần được nêu lên là tác động của nó lên luân lý tình dục là gì?
But, like most women, my decision about birth control had nothing to do with promiscuity. I had a plan for my future. I wanted to go to college. I studied really hard in college, and I was proud to be one of the very few female computer science graduates at my university. I wanted to have a career, so I went on to business school and I became one of the youngest female executives at Microsoft.
Nhưng, như mọi phụ nữ khác, quyết định ngừa thai của tôi chẳng liên quan gì đến việc quan hệ bừa bãi. Tôi đã có kế hoạch cho tương lai. Tôi muốn lên đại học. Tôi đã học rất chăm chỉ ở đại học, tôi tự hào là một trong số ít nữ sinh tốt nghiệp ngành khoa học máy tính ở trường đại học của tôi. Tôi muốn có sự nghiệp, vì thế tôi đã theo học trường kinh doanh và tôi đã trở thành một trong những nhà điều hành trẻ tuổi nhất ở Microsoft.
I still remember, though, when I left my parents' home to move across the country to start this new job at Microsoft. They had sacrificed a lot to give me five years of higher education. But they said, as I left home -- and I literally went down the front steps, down the porch at home -- and they said, "Even though you've had this great education, if you decide to get married and have kids right away, that's OK by us, too." They wanted me to do the thing that would make me the very happiest. I was free to decide what that would be. It was an amazing feeling.
Tôi vẫn còn nhớ lúc tôi xa ba mẹ để đi khắp đất nước, bắt đầu công việc mới ở Microsoft. Họ đã hy sinh rất nhiều để tôi có thể học cao hơn nữa. Nhưng khi tôi rời khỏi nhà, lúc tôi đang bước xuống những bậc thềm để đi ra cổng họ nói rằng, "Ngay cả khi con có học vấn cao, nếu con quyết định kết hôn và sinh con ngay lập tức, ba mẹ cũng sẽ hoàn toàn đồng ý" Họ muốn tôi làm những điều mà khiến tôi vui vẻ nhất. Tôi được tự do quyết định cuộc đời mình. Cảm giác ấy đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên.
In fact, I did want to have kids -- but I wanted to have them when I was ready. And so now, Bill and I have three. And when our eldest daughter was born, we weren't, I would say, exactly sure how to be great parents. Maybe some of you know that feeling. And so we waited a little while before we had our second child. And it's no accident that we have three children that are spaced three years apart. Now, as a mother, what do I want the very most for my children? I want them to feel the way I did -- like they can do anything they want to do in life. And so, what has struck me as I've travelled the last decade for the foundation around the world is that all women want that same thing.
Thật ra, tôi đã muốn sinh con, nhưng tôi muốn sinh chúng khi tôi đã sẳn sàng. Hiện tại, Bill và tôi đã có ba đứa. Khi đứa con gái lớn của chúng tôi ra đời, chúng tôi không biết làm thế nào để là ông bố bà mẹ tuyệt vời nhất. Có thể là quý vị đã từng có cảm giác đó. Vì thế chúng tôi chờ thêm vài năm nữa trước khi cho ra đời đứa trẻ thứ hai. Chẳng có sự cố nào xảy ra khi cả ba đứa trẻ ra đời, mỗi đứa ra đời cách nhau ba năm. Là một người mẹ, điều tốt đẹp nhất mà tôi muốn dành cho lũ trẻ của mình là gì? Tôi muốn chúng có được cảm giác ngày xưa mà tôi đã từng có - đó là chúng có thể làm bất cứ thứ gì chúng muốn làm trong cuộc sống. Vì thế, động lực thúc đẩy tôi khi đại diện cho Qũy, đi khắp thế giới trong mấy chục năm qua chính là giúp cho tất cả phụ nữ đều có chung một mong muốn đó.
Last year, I was in Nairobi, in the slums, in one called Korogocho -- which literally means when translated, "standing shoulder to shoulder." And I spoke with this women's group that's pictured here. And the women talked very openly about their family life in the slums, what it was like. And they talked quite intimately about what they did for birth control. Marianne, in the center of the screen in the red sweater, she summed up that entire two-hour conversation in a phrase that I will never forget. She said, "I want to bring every good thing to this child before I have another." And I thought -- that's it. That's universal. We all want to bring every good thing to our children.
Năm ngoái, tôi đến Nairobi, trong một khu ổ chuột gọi là Korogocho, từ này, khi chúng ta dịch ra, có nghĩa là "tương trợ lẫn nhau". Tôi đã trò chuyện với người phụ nữ có mặt trong bức ảnh trên đây. Cô ấy đã nói chuyện rất cởi mở về gia đình của cô ấy ở những khu ổ chuột, về cuộc sống ở đó như thế nào Họ đã trò chuyện rất thân mật về việc tránh thai của họ. Marianne, người mặc áo len đỏ đứng ở giữa trong bức ảnh này, cô ấy kết luận cuộc trò chuyện kéo dài hai giờ đồng hồ bằng một câu mà tôi không bao giờ quên. Cô nói: "Tôi muốn đem đến mọi thứ tốt đẹp cho đứa con này của mình trước khi tôi sinh thêm một đứa nữa". Và tôi nghĩ rằng - Đó là mong muốn chung của mọi người. Chúng ta đều muốn mang đến mọi thứ tốt đẹp cho con cái chúng ta.
But what's not universal is our ability to provide every good thing. So many women suffer from domestic violence. And they can't even broach the subject of contraception, even inside their own marriage. There are many women who lack basic education. Even many of the women who do have knowledge and do have power don't have access to contraceptives.
Điều khác biệt là khả năng đem lại những thứ tốt đẹp đó của từng người. Rất nhiều phụ nữ đang phải gánh chịu bạo lực gia đình. Họ còn không có quyền đề cập đến vấn đề tránh thai, ngay cả trong cuộc hôn nhân của họ. Có rất nhiều phụ nữ bị thiếu mất kiến thức nền tảng. Ngay cả những người có kiến thức và quyền hạn cũng không thể tiếp cận được những công cụ ngừa thai.
For 250 years, parents around the world have been deciding to have smaller families. This trend has been steady for a quarter of a millennium, across cultures and across geographies, with the glaring exception of sub-Saharan Africa and South Asia. The French started bringing down their family size in the mid-1700s. And over the next 150 years, this trend spread all across Europe. The surprising thing to me, as I learned this history, was that it spread not along socioeconomic lines but around cultural lines. People who spoke the same language made that change as a group. They made the same choice for their family, whether they were rich or whether they were poor. The reason that trend toward smaller families spread was that this whole way was driven by an idea -- the idea that couples can exercise conscious control over how many children they have. This is a very powerful idea. It means that parents have the ability to affect the future, not just accept it as it is.
Trong 250 năm trở lại đây, các bậc cha mẹ trên khắp thế giới đã quyết định hạn chế sinh đẻ lại. Khuynh hướng này trở nên bền vững trong suốt 250 năm qua, xuyên suốt các nền văn hóa và xuyên qua các lục địa, ngoại trừ vùng hạ Saharan của Châu Phi và Đông Á. Người Pháp bắt đầu hạn chế sinh đẻ vào giữa các năm 1700. Sau 150 năm, xu hướng này lan rộng khắp Châu Âu. Khi học đến giai đoạn lịch sử này, điều khiến tôi ngạc nhiên, là nó lan dọc theo đường kinh tế-xã hội và lan cả xung quanh đường văn hóa. Những người nói cùng một ngôn ngữ đã thay đổi chung theo một nhóm. Họ có chung một sự lựa chọn cho gia đình của họ, bất kể là họ giàu hay nghèo. Lý do làm cho xu hướng hạn chế sinh đẻ lan rộng là toàn bộ tiến trình này được dẫn dắt bởi một ý niệm - đó là các cặp vợ chồng có thể thực hiện việc kiểm soát một cách ý thức về số lượng con cái mà họ muốn có. Đây là một ý niệm có sức mạnh lớn lao. Nghĩa là các bậc cha mẹ đều có khả năng tác động đến tương lai của họ, không còn chấp nhận thực tại nữa.
In France, the average family size went down every decade for 150 years in a row until it stabilized. It took so long back then because the contraceptives weren't that good. In Germany, this transition started in the 1880s, and it took just 50 years for family size to stabilize in this country. And in Asia and Latin America, the transition started in the 1960s, and it happened much faster because of modern contraception.
Ở Pháp, dân số giảm đều qua mỗi thập kỷ trong vòng 150 năm cho đến khi nó ổn định. Việc này mất quá nhiều thời gian bởi vì các biện pháp ngừa thai lúc đó chưa tốt. Ở Đức, sự chuyển biến này bắt đầu ở những năm 1880 và chỉ mất 50 năm cho đến khi dân số ổn định ở quốc gia này. Ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh, sự chuyển biến bắt đầu ở những năm 1960, Nó xảy ra nhanh hơn nhiều nhờ phương pháp tránh thai hiện đại.
I think, as we go through this history, it's important to pause for a moment and to remember why this has become such a contentious issue. It's because some family planning programs resorted to unfortunate incentives and coercive policies. For instance, in the 1960s, India adopted very specific numeric targets and they paid women to accept having an IUD placed in their bodies. Now, Indian women were really smart in this situation. When they went to get an IUD inserted, they got paid six rupees. And so what did they do? They waited a few hours or a few days, and they went to another service provider and had the IUD removed for one rupee. For decades in the United States, African-American women were sterilized without their consent. The procedure was so common it became known as the Mississippi appendectomy -- a tragic chapter in my country's history. And as recently as the 1990s, in Peru, women from the Andes region were given anesthesia and they were sterilized without their knowledge.
Tôi nghĩ, ở giai đoạn lịch sử này, chúng ta nên dừng lại một chút để nhớ lại vì sao giai đoạn này lại trở thành một vấn đề gây tranh cãi. Đó là bởi vì một số chương trình kế hoạch hóa gia đình phải nhờ đến những khích lệ rủi ro và những chính sách gây ép buộc. Ví dụ, ở những năm 60, Ấn Độ đã thực hiện những mục tiêu rất đặc biệt Họ trả tiền cho những phụ nữ chấp nhận đặt vòng tránh thai. Ngày nay, những phụ nữ Ấn Độ rất thông minh ở tình huống này Khi họ đến đặt vòng tránh thai, họ được nhận sáu đồng rupi. Và họ đã làm gì sau đó? Họ chờ vài giờ hoặc vài ngày sau đó, Họ đi tìm đến nhà cung cấp dịch vụ khác để tháo vòng ra với giá một rupi. Qua nhiều thập kỷ tại Mỹ, Những người phụ nữ gốc Phi đã bị ép buộc phải triệt sản. Thủ tục này từng rất phổ biến Nó được biết đến như là phong trào cắt bỏ tử cung Mississippi - một chương đen tối của lịch sử nước Mỹ Tiếp đó vào những năm 90, tại Peru, những phụ nữ ở vùng Andes đã bị gây mê và họ bị triệt sản mà không hề hay biết.
The most startling thing about this is that these coercive policies weren't even needed. They were carried out in places where parents already wanted to lower their family size. Because in region after region, again and again, parents have wanted to have smaller families. There's no reason to believe that African women have innately different desires. Given the option, they will have fewer children. The question is: will we invest in helping all women get what they want now? Or, are we going to condemn them to some century-long struggle, as if this was still revolutionary France and the best method was coitus interruptus?
Điều gây ngạc nhiên nhất về sự kiện này là những chính sách ép buộc đó không hề được yêu cầu. Chúng được thực hiện ở những nơi mà những bậc cha mẹ muốn hạn chế có nhiều con. Bởi vì từ vùng này qua vùng khác, từ năm này qua năm khác, các bậc cha mẹ đều muốn có ít con. Không có lý do nào để tin rằng những phụ nữ Châu Phi bẩm sinh lại có những mong muốn khác biệt. Nếu được lựa chọn, họ sẽ có ít con hơn. Câu hỏi ở đây là: Chúng ta có chịu đầu tư để giúp đỡ những phụ nữ có thứ họ muốn không? Hay chúng ta đang ép họ vào những xung đột kéo dài hàng thế kỷ, như thể vẫn đang tồn tại cuộc cách mạng Pháp và biện pháp tốt nhất có phải là xuất tinh ngoài âm đạo?
Empowering parents -- it doesn't need justification. But here's the thing -- our desire to bring every good thing to our children is a force for good throughout the world. It's what propels societies forward. In that same slum in Nairobi, I met a young businesswoman, and she was making backpacks out of her home. She and her young kids would go to the local jeans factory and collect scraps of denim. She'd create these backpacks and resell them. And when I talked with her, she had three children, and I asked her about her family. And she said she and her husband decided that they wanted to stop having children after their third one. And so when I asked her why, she simply said, "Well, because I couldn't run my business if I had another child." And she explained the income that she was getting out of her business afforded her to be able to give an education to all three of her children. She was incredibly optimistic about her family's future. This is the same mental calculus that hundreds of millions of men and women have gone through. And evidence proves that they have it exactly right. They are able to give their children more opportunities by exercising control over when they have them.
Những bậc cha mẹ được trao quyền - không cần phải biện hộ gì thêm. Bởi chính khát khao đem lại mọi thứ tốt đẹp nhất cho con cái chúng ta là động lực để làm những việc tốt trên khắp thế giới này. Đó là thứ thúc đẩy xã hội tiến lên. Cũng một khu ổ chuột khác tại Nairobi tôi đã gặp một nữ doanh nhân trẻ tuổi, Cô ấy đang may túi xách ở ngoài. Cô cùng những đứa con của mình đến nhà máy quần bò ở địa phương và thu nhặt những mảnh vải vụn. Cô may chúng thành những túi xách để bán lại chúng. Khi tôi nói chuyện với cô ấy, cô đã có ba đứa con. khi tôi hỏi về gia đình của cô, cô nói cô và người chồng đã quyết định ngừng sinh con khi đứa trẻ thứ ba ra đời Tôi hỏi cô ấy lý do tại sao, cô ấy trả lời đơn giản rằng, "Bởi vì tôi không thể làm việc được nếu tôi có thêm con cái nữa". Rồi cô ấy giải thích về thu nhập mà cô có được từ việc kinh doanh nó giúp cô có thể trang trải học phí cho ba đứa nhỏ. Cô ấy vô cùng lạc quan về tương lai của gia đình cô. Nếu thử làm phép tính nhẩm, thì có hàng trăm triệu đàn ông và phụ nữ đã từng trải nghiệm qua Và minh chứng đã chỉ ra rằng họ đang đi đúng hướng. Họ có thể đem đến cho con cái của họ nhiều cơ hội hơn nữa nhờ vào việc kế hoạch hóa gia đình.
In Bangladesh, there's a district called Matlab. It's where researchers have collected data on over 180,000 inhabitants since 1963. In the global health community, we like to say it's one of the longest pieces of research that's been running. We have so many great health statistics. In one of the studies, what did they do? Half the villagers were chosen to get contraceptives. They got education and access to contraception. Twenty years later, following those villages, what we learned is that they had a better quality of life than their neighbors. The families were healthier. The women were less likely to die in childbirth. Their children were less likely to die in the first thirty days of life. The children were better nourished. The families were also wealthier. The adult women's wages were higher. Households had more assets -- things like livestock or land or savings. Finally, their sons and daughters had more schooling. So when you multiply these types of effects over millions of families, the product can be large-scale economic development. People talk about the Asian economic miracle of the 1980s -- but it wasn't really a miracle. One of the leading causes of economic growth across that region was this cultural trend towards smaller families.
Tại Banglasesh, trong quận Matlab, Các nhà nghiên cứu đã thu thập dữ liệu của hơn 180.000 cư dân từ năm 1963. Trong cộng đồng sức khỏe toàn cầu, đây là một trong những nghiên cứu dài nhất đang được thực hiện. Chúng tôi có rất nhiều thống kê thú vị về vấn đề sức khỏe. Họ đã viết gì trong bài nghiên cứu đó? Một nửa số dân làng được chọn để thực hiện các biện pháp tránh thai. Họ được giáo dục kiến thức và tiếp cận các biện pháp này. Sau hai mươi năm, khi theo dõi những ngôi làng đó, chúng tôi nhận thấy họ đã có cuộc sống tốt hơn so với các láng giềng khác. Các hộ gia đình khỏe mạnh hơn, Số phụ nữ tử vong khi sinh nở ít hơn. Số trẻ em tử vong trong những tháng đầu đời giảm đi nhiều. Con cái họ được nuôi dưỡng tốt hơn. Các hộ gia đình trở nên sung túc hơn. Những phụ nữ trưởng thành có tiền công cao hơn trước. Các hộ gia đình có thêm nhiều tài sản như vật nuôi, đất đai, tiền tiết kiệm. Cuối cùng, con cái của họ được học hành nhiều hơn. Khi bạn nhân rộng những ảnh hưởng này lên hàng triệu gia đình khác, kết quả nhận được sẽ là sự phát triển kinh tế có quy mô lớn. Người ta thường nói về phép màu kinh tế ở Châu Á vào những năm 80 - nhưng nó thực sự không phải là một phép màu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển kinh tế trong khu vực này chính là xu hướng văn hóa hạn chế sinh đẻ.
Sweeping changes start at the individual family level -- the family making a decision about what's best for their children. When they make that change and that decision, those become sweeping regional and national trends. When families in sub-Saharan Africa are given the opportunity to make those decisions for themselves, I think it will help spark a virtuous cycle of development in communities across the continent. We can help poor families build a better future. We can insist that all people have the opportunity to learn about contraceptives and have access to the full variety of methods.
Những thay đổi chung bắt đầu từ cấp độ gia đình riêng lẻ - gia đình quyết định những thứ tốt đẹp nhất cho con cái của họ. Khi họ tạo ra những thay đổi và thực hiện quyết định đó, chúng sẽ trở thành những xu hướng chung của quốc gia và khu vực. Khi trao cơ hội cho những gia đình ở vùng hạ Sharan Châu Phi để thực hiện quyết định của chính họ, Tôi nghĩ việc này sẽ tạo ra một vòng tròn phát triển tích cực ở những cộng đồng trên khắp lục địa này. Chúng ta có thể giúp các gia đình nghèo xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể khẳng định rằng mọi người đều có cơ hội để học hỏi về các biện pháp tránh thai và tiếp cận được mọi phương pháp.
I think the goal here is really clear: universal access to birth control that women want. And for that to happen, it means that both rich and poor governments alike must make contraception a total priority. We can do our part, in this room and globally, by talking about the hundreds of millions of families that don't have access to contraception today and what it would do to change their lives if they did have access.
Tôi nghĩ mục tiêu ở đây thực sự đã rõ: sự tiếp cận các biện pháp ngừa thai mà mọi phụ nữ đều muốn. Và để điều này được xảy ra, mọi quốc gia dù giàu hay nghèo đều phải đề cao việc tránh thai. Chúng ta có thể chung tay góp sức. bằng cách nói về hàng trăm triệu gia đình hiện giờ không thể tiếp cận các biện pháp ngừa thai và những gì cần làm để thay đổi cuộc sống khi họ đã tiếp cận được.
I think if Marianne and the members of her women's group can talk about this openly and have this discussion out amongst themselves and in public, we can, too. And we need to start now. Because like Marianne, we all want to bring every good thing to our children. And where is the controversy in that? Thank you.
Tôi nghĩ nếu Marianne và các thành viên trong hội phụ nữ có thể nói về điều này một cách cởi mở và đem cuộc thảo luận này ra trước công chúng, chúng ta cũng có thể làm điều đó. Và chúng ta cần bắt đầu ngay bây giờ. Bởi cũng như Marianne, chúng ta đều muốn con chúng ta có mọi thứ tốt đẹp. Vậy mong muốn này có gì đáng để tranh luận? Cám ơn quý vị.
(Applause)
(Vỗ tay)
Chris Anderson: Thank you. I have some questions for Melinda.
Chirs Anderson: Cám ơn chị. Tôi có một vài câu hỏi dành cho Melinda.
(Applause ends)
(Vỗ tay kết thúc)
Thank you for your courage and everything else.
Cám ơn vì sự can đảm của chị và về mọi thứ.
So, Melinda, in the last few years I've heard a lot of smart people say something to the effect of, "We don't need to worry about the population issue anymore. Family sizes are coming down naturally all over the world. We're going to peak at nine or 10 billion. And that's it." Are they wrong?
Melinda này, trong vài năm trở lại đây Tôi nghe rất nhiều người có học thức nói vài thứ đại loại như là: "Chúng ta không cần lo lắng về vấn đề dân số nữa. Dân số thế giới đang ngày một giảm dần. Chúng ta đang tiến đến mức 9 hay 10 tỷ người". Liệu họ có sai không?
Melinda Gates: If you look at the statistics across Africa, they are wrong. And I think we need to look at it, though, from a different lens. We need to look at it from the ground upwards. I think that's one of the reasons we got ourselves in so much trouble on this issue of contraception. We looked at it from top down and said we want to have different population numbers over time. Yes, we care about the planet. Yes, we need to make the right choices. But the choices have to be made at the family level. And it's only by giving people access and letting them choose what to do
MG: Nếu anh nhìn vào thống kê ở khu vực Châu Phi, thì họ đã sai. Và tôi nghĩ chúng ta nên nhìn nó qua nhiều lăng kính khác nhau. Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề từ thấp lên cao. Và đó là một trong các lý do chúng ta đã tự tạo ra quá nhiều lo âu về vấn đề tránh thai. Chúng ta nhìn từ trên xuống và nói chúng ta muốn có số liệu về dân số khác nhau qua mỗi năm. Đúng, chúng ta quan tâm thế giới này. chúng ta cần chọn lựa đúng. Nhưng sự chọn lựa cần được thực hiện ở cấp độ gia đình.
that you get those sweeping changes that we have seen globally -- except for sub-Saharan Africa and those places in South Asia and Afghanistan.
Chỉ còn cách đưa cho họ sự tiếp cận và để họ tự lựa chọn những gì cần thiết thì bạn mới nhận thấy được những thay đổi mang tính toàn cầu đó - ngoại trừ vùng hạ Saharan Châu Phi và các nước Nam Á và Afghanistan,
CA: Some people on the right in America and in many conservative cultures around the world might say something like this: "It's all very well to talk about saving lives and empowering women and so on. But, sex is sacred. What you're proposing is going to increase the likelihood that lots of sex happens outside marriage. And that is wrong." What would you say to them?
CA: Một số người ở Mỹ và ở nhiều nền văn hóa bảo thủ khác có thể nói những điều như thế này: "Thật đúng khi nói về việc cứu người và trao quyền cho phụ nữ. Nhưng quan hệ tình dục là thiêng liêng. Những gì chị đề xuất sẽ làm tăng khả năng xảy ra quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Và điều này là sai trái". Bạn sẽ nói gì với họ?
MG: I would say that sex is absolutely sacred. And it's sacred in Germany, and it's sacred in the United States, and it's sacred in France and so many places around the world. And the fact that 98 percent of women in my country who are sexually experienced say they use birth control doesn't make sex any less sacred. It just means that they're getting to make choices about their lives. And I think in that choice, we're also honoring the sacredness of the family and the sacredness of the mother's life and the childrens' lives by saving their lives. To me, that's incredibly sacred, too.
MG: Tôi sẽ nói rằng quan hệ tình dục là hoàn toàn thiêng liêng. Thiêng liêng ở Đức, Thiêng liêng ở Mỹ, Thiêng liêng ở Pháp và ở nhiều nước khác trên thế giới. Sự thật là 98% phụ nữ ở nước tôi, những người đã trải nghiệm tình dục, nói việc họ dùng biện pháp tránh thai không làm giảm sự thiêng liêng của tình dục. Việc này chỉ có nghĩa là họ đang chọn lựa cho cuộc sống của họ. Tôi nghĩ với sự chọn lựa đó chúng ta cũng tôn trọng sự thiêng liêng của gia đình sự thiêng liêng về cuộc sống của người mẹ và của những đứa con bằng việc cứu sống họ. Đối với tôi, những điều này cũng vô cùng thiêng liêng.
CA: So what is your foundation doing to promote this issue? And what could people here and people listening on the web -- what would you like them to do?
CA: Vậy Qũy của chị đang làm điều gì để xúc tiến cho vấn đề này? Và với những người ở đây, cũng như các thính giả trên mạng xã hội - bạn muốn họ làm điều gì?
MG: I would say this -- join the conversation. We've listed the website up here. Join the conversation. Tell your story about how contraception has either changed your life or somebody's life that you know. And say that you're for this. We need a groundswell of people saying, "This makes sense. We've got to give all women access -- no matter where they live." And one of the things that we're going to do is do a large event July 11 in London, with a whole host of countries, a whole host of African nations, to all say we're putting this back on the global health agenda. We're going to commit resources to it, and we're going to do planning from the bottom up with governments to make sure that women are educated -- so that if they want the tool, they have it, and that they have lots of options available either through their local healthcare worker or their local community rural clinic.
MG: Tôi muốn họ tham gia buổi trò chuyện này. Chúng tôi đã liệt kê website ở đây. Hãy tham gia trò chuyện. Hãy kể cho người khác nghe tránh thai đã thay đổi cuộc sống của bạn thế nào hay kể câu chuyện của ai đó bạn biết. Và nói bạn ủng hộ điều đó. Chúng tôi cần mọi người nói rằng "Điều này quá rõ ràng" Chúng ta sẽ trao cho tất cả phụ nữ sự tiếp cận - bất kể họ sống ở đâu". Và một trong những điều chúng tôi sẽ làm là tổ chức một sự kiện lớn vào ngày 11 tháng 7 tại Luân Đôn, với sự tham gia của các khách mời đến từ nhiều quốc gia, có cả Châu Phi để quyết tâm đưa việc này trở lại nghị trình sức khỏe thế giới. Chúng tôi sẽ đề ra những phương sách, Chúng tôi sẽ lập kế hoạch từ dưới lên trên với các chính phủ để đảm bảo tất cả phụ nữ đều được học - từ đó có được công cụ mà họ muốn. và họ sẽ có nhiều chọn lựa từ nhân viên chăm sóc sức khỏe địa phương hay từ phòng khám dành cho cộng đồng nông thôn của họ.
CA: Melinda, I'm guessing that some of those nuns who taught you at school are going to see this TED Talk at some point. Are they going to be horrified, or are they cheering you on?
CA: Melinda, tôi đoán rằng những bà sơ đã dạy chị ở trường học sẽ xem chương trình TED Talk này một lúc nào đó. Liệu họ sẽ khiếp sợ hay khích lệ chị?
MG: I know they're going to see the TED Talk because they know that I'm doing it and I plan to send it to them. And, you know, the nuns who taught me were incredibly progressive. I hope that they'll be very proud of me for living out what they taught us about social justice and service. I have come to feel incredibly passionate about this issue because of what I've seen in the developing world. And for me, this topic has become very close to heart because you meet these women and they are so often voiceless. And yet they shouldn't be -- they should have a voice, they should have access. And so I hope they'll feel that I'm living out what I've learned from them and from the decades of work that I've already done at the foundation.
MG: Tôi biết là họ sẽ xem TED Talk bởi vì họ biết những gì tôi đang làm và tôi dự định gửi nó cho họ xem. Những bà sơ ở đó có tư tưởng rất tiến bộ. Tôi mong rằng họ sẽ tự hào về tôi khi tôi áp dụng những gì họ đã dạy tôi về công bằng xã hội và phụng sự. Tôi thực sự cảm thấy rất đam mê về vấn đề này vì những điều tôi thấy được ở thế giới đang phát triển này. Đối với tôi, chủ đề này mang tính nhân đạo sâu sắc bởi vì những người phụ nữ ở đây không hề có tiếng nói nào cả. Lẽ ra họ không bị như vậy Họ nên có tiếng nói, và có quyền tiếp cận. Và tôi hy vọng họ biết tôi đang truyền tải những gì tôi đã biết được từ họ và từ mấy chục năm tôi làm việc cho Qũy.
CA: So, you and your team brought together today an amazing group of speakers to whom we're all grateful. Did you learn anything?
CA: Hôm nay, chị cùng nhóm của chị là những diễn giả rất tuyệt vời những người khiến chúng tôi vô cùng cảm kích. Chị học hỏi được điều gì chứ?
(Laughter)
(Cười)
MG: Oh my gosh, I learned so many things. I have so many follow-up questions. And I think a lot of this work is a journey. You heard the discussion about the journey through energy, or the journey through social design, or the journey in the coming and saying, "Why aren't there any women on this platform?" And I think for all of us who work on these development issues, you learn by talking to other people. You learn by doing. You learn by trying and making mistakes. And it's the questions you ask. Sometimes it's the questions you ask that helps lead to the answer the next person that can help you answer it. So I have lots of questions for the panelists from today. And I thought it was just an amazing day.
MG: Lạy Chúa, tôi đã học được rất nhiều. Tôi có rất nhiều câu hỏi kèm theo. Tôi nghĩ công việc này giống như một hành trình. Bạn đã nghe cuộc thảo luận về một hành trình thông nhiệt huyết. hoặc hành trình thông qua mục đích xã hội, hoặc hành trình đang đến và nói rằng, "Vì sao không có phụ nữ nào diễn thuyết ở đây?" Tôi nghĩ rằng chúng ta, những người hành động vì những vấn đề này, Bạn học qua việc nói với người khác. Bạn học qua hành động. Bạn học từ những sai lầm. Và đó là câu hỏi của bạn. Đôi khi, chính câu hỏi bạn đưa ra lại giúp ta có câu trả lời hay tìm ra người trả lời nó. Nên tôi có nhiều câu hỏi cho những người tham gia hôm nay. Tôi nghĩ hôm nay là một ngày thú vị.
CA: Melinda, thank you for inviting all of us on this journey with you.
CA: Cám ơn chị đã mời chúng tôi cùng tham gia hành trình này với chị.
Thank you so much. MG: Great. Thanks, Chris.
Cám ơn chị rất nhiều. MG: Thật tuyệt. Cám ơn, Chris.