(Laughter)
(Cười)
(Laughter)
(Cười)
That's SpotMini. He'll be back in a little while.
Đây là SpotMini. Chút nữa nó sẽ trở lại.
I --
Tôi --
(Applause)
(Vỗ tay)
I love building robots. And my long-term goal is to build robots that can do what people and animals do. And there's three things in particular that we're interested in. One is balance and dynamic mobility, the second one is mobile manipulation, and the third one is mobile perception.
Tôi là người đam mê chế tạo robot. Và về lâu dài tôi muốn làm ra những robot có khả năng làm những việc mà con người và động vật làm. Và cụ thể thì có ba điều mà chúng tôi quan tâm. Đầu tiên là sự cân bằng động và di động, thứ hai là thao tác di động, và thứ ba là cảm ứng từ xa.
So, dynamic mobility and balance -- I'm going to do a demo for you. I'm standing here, balancing. I can see you're not very impressed. OK, how about now?
Sự cân bằng động và di động-- tôi sẽ làm thử cho các bạn xem nhé. Tôi đang đứng đây, cân bằng. Các bạn có vẻ chưa ấn tượng lắm. Thế bây giờ thì sao?
(Laughter)
(Cười)
How about now?
Thế này thì sao?
(Applause)
(Vỗ tay)
Those simple capabilities mean that people can go almost anywhere on earth, on any kind of terrain. We want to capture that for robots.
Những khả năng đơn giản đó giúp loài người đi đến bất kỳ nơi nào trên trái đât, trên bất kỳ địa hình nào. Chúng tôi muốn robot cũng được như vậy.
What about manipulation? I'm holding this clicker in my hand; I'm not even looking at it, and I can manipulate it without any problem. But even more important, I can move my body while I hold the manipulator, the clicker, and stabilize and coordinate my body, and I can even walk around. And that means I can move around in the world and expand the range of my arms and my hands and really be able to handle almost anything. So that's mobile manipulation. And all of you can do this.
Thế còn thao tác thì sao? Trên tay tôi là chiếc điều khiển; tôi thậm chí không nhìn nó, và tôi có thể thao tác với nó dễ dàng. Nhưng quan trọng hơn là, tôi có thể di chuyển cơ thể trong khi cầm thiết bị này, cố định cơ thể và thậm chí có thể đi lại nữa. Nghĩa là tôi có thể đi lại khắp thế giới dang rộng cánh tay và bàn tay và có thể làm hầu như mọi thứ. Đó chính là thao tác di động. Và các bạn cũng có thể làm điều này.
Third is perception. I'm looking at a room with over 1,000 people in it, and my amazing visual system can see every one of you -- you're all stable in space, even when I move my head, even when I move around. That kind of mobile perception is really important for robots that are going to move and act out in the world.
Thứ ba là sự nhận thức. Tôi đang nhìn một khán phòng với hơn 1.000 người, và hệ thị giác tuyệt vời của tôi có thể nhìn thấy từng người một -- các bạn đều cố định trong không gian, ngay cả khi đầu tôi di chuyển thậm chí khi tôi đi xung quanh. Cách cảm ứng di động này rất quan trọng với robots để chúng có thể đi và thao tác trong thế giới thực.
I'm going to give you a little status report on where we are in developing robots toward these ends. The first three robots are all dynamically stabilized robots. This one goes back a little over 10 years ago -- "BigDog." It's got a gyroscope that helps stabilize it. It's got sensors and a control computer.
Tôi muốn cho các bạn xem một báo cáo về những gì ta đã đạt được trong việc phát triển robot theo hướng này. Ba con robot đầu tiên đều là những con có khả năng cân bằng. Con này được hơn mười tuổi rồi -- ''BigDog.'' Một con quay được gắn vào để cân bằng nó. Nó có hệ thống cảm biến và một máy tính điều khiển.
Here's a Cheetah robot that's running with a galloping gait, where it recycles its energy, it bounces on the ground, and it's computing all the time in order to keep itself stabilized and propelled.
Đây là robot Cheetah đang phi nước đại, để tái chế nguồn năng lượng của nó, nó bật lên trên mặt đất, và nó không ngừng tính toán để giữ cân bằng và giữ đà.
And here's a bigger robot that's got such good locomotion using its legs, that it can go in deep snow. This is about 10 inches deep, and it doesn't really have any trouble.
Đây là một con robot lớn hơn có khả năng di chuyển tốt bằng chân và đi trên lớp tuyết dày Lớp tuyết dày khoảng 10 inch, và nó không hề gặp trở ngại nào.
This is Spot, a new generation of robot -- just slightly older than the one that came out onstage. And we've been asking the question -- you've all heard about drone delivery: Can we deliver packages to your houses with drones? Well, what about plain old legged-robot delivery?
Đây là Spot, một robot thế hệ mới -- chỉ già hơn con trên sân khấu một chút Chúng tôi đã đặt ra câu hỏi -- các bạn đều biết dịch vụ giao hàng bằng drone Ta có thể giao hàng tận nhà bằng những thiết bị này? Vậy giao hàng bằng chú robot già có chân thì sao?
(Laughter)
(Cười)
So we've been taking our robot to our employees' homes to see whether we could get in --
Chúng tôi đã mang những con robot tới nhà của các nhân viên để xem liệu chúng tôi có thể
(Laughter)
vào nhà bằng nhiều cách khác nhau không.
the various access ways. And believe me, in the Boston area, there's every manner of stairway twists and turns. So it's a real challenge. But we're doing very well, about 70 percent of the way.
Tin tôi đi, tại Boston, có rất nhiều loại loại cầu thang quanh co. Đó là thách thức thật sự. Nhưng chúng tôi đang làm rất tốt, khoảng 70% rồi.
And here's mobile manipulation, where we've put an arm on the robot, and it's finding its way through the door. Now, one of the important things about making autonomous robots is to make them not do just exactly what you say, but make them deal with the uncertainty of what happens in the real world. So we have Steve there, one of the engineers, giving the robot a hard time.
Và đây chính là thao tác di động chúng tôi lắp tay vào robot và nó tìm được đường bước qua cửa. Một trong những yếu tố quan trọng để tạo ra các robot tự động là khiến chúng không chỉ làm chính xác những gì bạn nói. mà hãy đặt chúng vào những tình huống bất thường trong đời thực. Đây là Steve, một trong số những kỹ sư, tạo ra thách thức cho robot.
(Laughter)
(Cười)
And the fact that the programming still tolerates all that disturbance -- it does what it's supposed to.
Sự thật là chương trình điều khiển vẫn chịu đựng những trở ngại -- nó làm những gì nên làm.
Here's another example, where Eric is tugging on the robot as it goes up the stairs. And believe me, getting it to do what it's supposed to do in those circumstances is a real challenge, but the result is something that's going to generalize and make robots much more autonomous than they would be otherwise.
Đây là một ví dụ khác, Eric đang kéo ngược con robot lúc nó đi lên cầu thang Và tin tôi đi, buộc con robot làm những gì cần làm trong những tình huống thế này thật sự là một thử thách, nhưng kết quả thì rất chung chung và khiến robot ngày càng tự động hơn.
This is Atlas, a humanoid robot. It's a third-generation humanoid that we've been building. I'll tell you a little bit about the hardware design later. And we've been saying: How close to human levels of performance and speed could we get in an ordinary task, like moving boxes around on a conveyor? We're getting up to about two-thirds of the speed that a human operates on average. And this robot is using both hands, it's using its body, it's stepping, so it's really an example of dynamic stability, mobile manipulation and mobile perception. Here --
Đây là Atlas, một robot hình người. Đây là người máy thế hệ thứ ba mà chúng tôi vừa tạo ra. Tôi sẽ cho các bạn biết vài điều về thiết kế phần cứng sau. Chúng tôi tự nhủ rằng: Liệu robot của chúng tôi có thể thao tác và tốc độ như con người trong một công việc thông thường, như di chuyển hộp trên băng chuyền? Chúng tôi đã đạt được tốc độ trung bình bằng hai phần ba của con người. Và con robot này sử dụng cả hai tay, cả cơ thể, nó đang bước đi, đây là một ví dụ về cân bằng động thao tác di động và cảm ứng di động. Đây --
(Laughter)
(Cười)
We actually have two Atlases.
Chúng tôi có hai con Atlas.
(Laughter)
(Cười)
Now, everything doesn't go exactly the way it's supposed to.
Lúc này, mọi thứ không hoàn toàn đi theo những gì nó được lập trình.
(Laughter)
(Cười)
(Laughter)
(Cười)
(Laughter)
(Cười)
And here's our latest robot, called "Handle." Handle is interesting, because it's sort of half like an animal, and it's half something else with these leg-like things and wheels. It's got its arms on in kind of a funny way, but it really does some remarkable things. It can carry 100 pounds. It's probably going to lift more than that, but so far we've done 100. It's got some pretty good rough-terrain capability, even though it has wheels. And Handle loves to put on a show.
Đây là robot tân tiến nhất của chúng tôi: "Handle''. Handle rất thú vị, bởi nó vừa giống động vật, vừa giống một thứ gì đó có hai chân và bánh xe. Cánh tay của nó trông hơi buồn cười, nhưng nó thật sự làm những điều tuyệt vời. Nó có thể mang vật 100 pound. Nó có lẽ nhấc được vật nặng hơn thế nữa, nhưng chúng tôi chỉ mới thử 100 pound Nó có thể di chuyển ở nơi có địa hình xấu, mặc dù nó có hai chiếc bánh xe Và Handle thích làm trò.
(Laughter)
(Cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
I'm going to give you a little bit of robot religion. A lot of people think that a robot is a machine where there's a computer that's telling it what to do, and the computer is listening through its sensors. But that's really only half of the story. The real story is that the computer is on one side, making suggestions to the robot, and on the other side are the physics of the world. And that physics involves gravity, friction, bouncing into things. In order to have a successful robot, my religion is that you have to do a holistic design, where you're designing the software, the hardware and the behavior all at one time, and all these parts really intermesh and cooperate with each other. And when you get the perfect design, you get a real harmony between all those parts interacting with each other. So it's half software and half hardware, plus the behavior.
Tôi muốn kể cho các bạn về tín ngưỡng robot. Nhiều người nghĩ rằng robot chỉ là một cái máy gắn thêm máy tính và làm theo những gì được bảo, và chiếc máy tính thì nghe theo thiết bị cảm biến. Nhưng đây chỉ mới là một nửa câu chuyện. Thật sự thì máy tính chỉ là một mặt, đưa ra những gợi ý cho robot, mặt khác là các yếu tố vật lý của trái đất Các yếu tố vật lnày bao gồm trọng lực, ma sát, sức bật. Để tạo ra một robot thành công, tôi tâm niệm rằng cần có một thiết kế toàn diện, bạn thiết kế phần mềm, phần cứng và hành vi cùng lúc, và tất cả các phần này thật sự ăn khớp và kết hợp với nhau. Và khi tạo ra một thiết kế hoàn hảo, bạn sẽ tạo ra được sự hài hòa giữa các phần tương tác với nhau. Đó chính là phần cứng và phần mềm, cộng với hành vi.
We've done some work lately on the hardware, where we tried to go -- the picture on the left is a conventional design, where you have parts that are all bolted together, conductors, tubes, connectors. And on the right is a more integrated thing; it's supposed to look like an anatomy drawing. Using the miracle of 3-D printing, we're starting to build parts of robots that look a lot more like the anatomy of an animal. So that's an upper-leg part that has hydraulic pathways -- actuators, filters -- all embedded, all printed as one piece, and the whole structure is developed with a knowledge of what the loads and behavior are going to be, which is available from data recorded from robots and simulations and things like that.
Chúng tôi vừa mới làm một vài việc với phần cứng, chúng tôi đã thử -- bức bên trái là một thiết kế điển hình, các phần đã được gắn lại với nhau, hệ thống bán dẫn, ống dẫn, dây nối. Bên phải là phần có tính tích hợp cao hơn; nó giống một bức vẽ giải phẫu học. Sử dụng phép màu của công nghệ in 3D, chúng tôi bắt đầu ráp các bộ phận robot nhìn giống ảnh giải phẫu động vật hơn. Đây là phần chân trên có những đường mòn thủy lực -- thiết bị truyền động, bộ lọc -- được gắn chặt và in thành một miếng và cả cấu trúc được phát triển dựa trên kiến thức về vận tải và hành vi có sẵn trên cơ sở dữ liệu được ghi bởi robot, những mô phỏng hay những thứ tương tự.
So it's a data-driven hardware design. And using processes like that, not only the upper leg but some other things, we've gotten our robots to go from big, behemoth, bulky, slow, bad robots -- that one on the right, weighing almost 400 pounds -- down to the one in the middle which was just in the video, weighs about 190 pounds, just a little bit more than me, and we have a new one, which is working but I'm not going to show it to you yet, on the left, which weighs just 165 pounds, with all the same strength and capabilities. So these things are really getting better very quickly.
Đó chính là thiết kế phần cứng chạy trên cơ sở dữ liệu. Và sử dụng các quy trình như thế, không chỉ phần chân trên mà vài thứ nữa, chúng tôi đã tạo ra những con robot lớn, cồng kềnh, chậm chạp, chất lượng thấp -- như con bên phải, nặng đến gần 400 pound cho đến con ở giữa vừa được chiếu lên, nặng khoảng 190 pound, nặng hơn tôi một tí, và tôi đã tạo ra một con mới, nó đã hoạt động nhưng tôi chưa cho các bạn xem được, bên trái, nặng 165 pound, có cùng sức mạnh và khả năng. Những máy móc đang ngày càng cải tiến.
So it's time for Spot to come back out, and we're going to demonstrate a little bit of mobility, dexterity and perception. This is Seth Davis, who's my robot wrangler today, and he's giving Spot some general direction by steering it around, but all the coordination of the legs and the sensors is done by the robot's computers on board. The robot can walk with a number of different gaits; it's got a gyro, or a solid-state gyro, an IMU on board. Obviously, it's got a battery, and things like that. One of the cool things about a legged robot is, it's omnidirectional. In addition to going forward, it can go sideways, it can turn in place. And this robot is a little bit of a show-off. It loves to use its dynamic gaits, like running --
Giờ là lúc Spot trở lại sân khấu và chúng tôi sẽ trình diễn một vài tính năng di động, tính cơ động và độ cảm ứng. Đây là Seth Davis, người điều khiển hôm nay, và anh ấy sẽ hướng dẫn sơ cho Spot bằng cách chỉ đạo, nhưng toàn bộ sự kết hợp của chân và bộ cảm biến được thực hiện bởi máy tính hỗ trợ của robot. Robot có thể đi bộ theo nhiều cách; nó có một con quay, hay gọi là con quay thể rắn, một cái IMU hỗ trợ. Rõ ràng là con robot này được gắn pin và những thứ tương tự. Một trong những điều tuyệt vời về robot có chân là, nó có thể thao tác mọi hướng. Ngoài khả năng đi về phía trước, nó có thể đi bên lề, và quay các hướng. Và con robot này chỉ hơi khoe mẽ chút xíu Nó thích những dáng vẻ năng động của mình như chạy này --
(Laughter)
(Cười)
And it's got one more.
và nó còn trò này nữa.
(Laughter)
(Cười)
Now if it were really a show-off, it would be hopping on one foot, but, you know.
Nếu nó thật sự khoe khoang, nó đã có thể nhảy một chân rồi, nhưng... bạn biết đó.
Now, Spot has a set of cameras here, stereo cameras, and we have a feed up in the center. It's kind of dark out in the audience, but it's going to use those cameras in order to look at the terrain right in front of it, while it goes over these obstacles back here. For this demo, Seth is steering, but the robot's doing all its own terrain planning. This is a terrain map, where the data from the cameras is being developed in real time, showing the red spots, which are where it doesn't want to step, and the green spots are the good places. And here it's treating them like stepping-stones. So it's trying to stay up on the blocks, and it adjusts its stride, and there's a ton of planning that has to go into an operation like that, and it does all that planning in real time, where it adjusts the steps a little bit longer or a little bit shorter.
Spot có một dàn camera ở đây, và nó truyền dữ liệu lên bộ trung tâm. Dưới khán giả hơi tối, nhưng nó sử dụng những máy quay này để nhìn và phân tích địa hình ngay trước mặt nó, trong khi vượt chướng ngại vật. Bây giờ Seth đang dẫn đường nhưng thật ra robot đang tự phân tích địa hình. Đây là một bản đồ địa hình, mà dữ liệu từ máy quay truyền trực tiếp về khu vực đỏ là nơi nó không muốn bước lên, và khu vực xanh là nơi di chuyển được. Nó đang bước qua chúng như những phiến đá. Nó đang cố bước lên những khối này, và điều chỉnh sải chân, và đây là một vài kế hoạch khác mà nó phải phân tích, và nó mới làm điều đó tức thời, nó đang điều chỉnh bước đi dài hơn hoặc ngắn hơn.
Now we're going to change it into a different mode, where it's just going to treat the blocks like terrain and decide whether to step up or down as it goes. So this is using dynamic balance and mobile perception, because it has to coordinate what it sees along with how it's moving.
Giờ chúng ta sẽ đổi sang một chế độ khác, chế độ này làm nó xem những khối hộp như mặt đất và quyết định sẽ bước lên hay bước xuống để vượt qua. Chức năng sử dụng nguyên lí cân bằng động và cảm ứng động, bởi nó phải kết hợp những gì thấy được với cách thức di chuyển của chúng.
The other thing Spot has is a robot arm. Some of you may see that as a head and a neck, but believe me, it's an arm. Seth is driving it around. He's actually driving the hand and the body is following. So the two are coordinated in the way I was talking about before -- in the way people can do that. In fact, one of the cool things Spot can do we call, "chicken-head mode," and it keeps its head in one place in space, and it moves its body all around. There's a variation of this that's called "twerking" --
Spot còn sở hữu cánh tay robot này. Một vài người sẽ nhìn thành đầu và cổ, nhưng thật ra đó là cánh tay đấy. Seth đang điều khiển nó. Thật ra anh ấy đang lái cánh tay và cả cơ thể nó di chuyển theo. Vậy nên cả hai đang hợp tác bằng cái cách tôi nói ban nãy -- cách mà người ta có thể làm như vậy. Thật ra một trong những điều tuyệt vời Spot có thể làm là "chế độ đầu gà" nghĩa là giữ đầu nó cố định và di chuyển thân người. Một phiên bản khác của cái này là "twerking" đấy.
(Laughter)
(Cười)
but we're not going to use that today.
nhưng ta sẽ không làm vậy hôm nay.
(Laughter)
(Cười)
So, Spot: I'm feeling a little thirsty. Could you get me a soda? For this demo, Seth is not doing any driving. We have a LIDAR on the back of the robot, and it's using these props we've put on the stage to localize itself. It's gone over to that location. Now it's using a camera that's in its hand to find the cup, picks it up -- and again, Seth's not driving. We've planned out a path for it to go -- it looked like it was going off the path -- and now Seth's going to take over control again, because I'm a little bit chicken about having it do this by itself. Thank you, Spot.
Giờ, Spot này, ta đang hơi khát. Cậu có thể lấy soda giùm ta không? Trong bản thử nghiệm này, Seth không điều khiển gì cả. Chúng tôi gắn bộ quét LIDAR trên lưng robot, và nó sử dụng những đạo cụ chúng tôi đặt trên sân khấu để tự định vị. Nó đang đi về hướng kia. Giờ nó đang sử dụng máy quay trong tay để tìm cái ly, cầm nó lên, và, Seth vẫn không điều khiển gì nhé. Chúng tôi lập trình đường đi cho nó-- có vẻ nó đang đi chệch hướng -- và giờ Seth sẽ điều khiển lại, vì tôi không tự tin rằng nó sẽ làm điều này một mình. Cảm ơn, Spot.
(Applause)
(Vỗ tay)
So, Spot: How do you feel about having just finished your TED performance?
Vậy Spot này, Cậu cảm thấy sao sau khi hoàn thành màn trình diễn ở TED?
(Laughter)
(Cười)
Me, too!
Tôi cũng vậy!
(Laughter)
(Cười)
Thank you all, and thanks to the team at Boston Dynamics, who did all the hard work behind this.
Cảm ơn các bạn, và cảm ơn nhóm Boston Dynamics đã thực hiện những điều này.
(Applause)
(Vỗ tay)
Helen Walters: Marc, come back in the middle. Thank you so much. Come over here, I have questions.
Marc này, hãy nán lại một chút nhé. Cảm ơn anh. Lại đây nào, tôi có một vài câu hỏi.
So, you mentioned the UPS and the package delivery. What are the other applications that you see for your robots?
Anh có nhắc đến bộ lưu điện và chức năng giao hàng Anh còn nghĩ đến những ứng dụng nào khác cho robot của mình không?
Marc Raibert: You know, I think that robots that have the capabilities I've been talking about are going to be incredibly useful. About a year ago, I went to Fukushima to see what the situation was there, and there's just a huge need for machines that can go into some of the dirty places and help remediate that.
Tôi nghĩ rằng robot có những khả năng mà tôi đã nói đến cực kì hữu dụng. Khoảng một năm trước tôi đến Fukushima để xem tình hình ở đó và dường như họ rất cần máy móc trợ giúp để vào những nơi hư hỏng và sửa chữa nơi đó.
I think it won't be too long until we have robots like this in our homes, and one of the big needs is to take care of the aging and invalids. I think that it won't be too long till we're using robots to help take care of our parents, or probably more likely, have our children help take care of us. And there's a bunch of other things. I think the sky's the limit. Many of the ideas we haven't thought of yet, and people like you will help us think of new applications.
Tôi nghĩ thời điểm chúng ta sở hữu những robot như thế này sẽ không còn xa, và một trong những nhu cầu lớn nhất là chăm sóc người lớn tuổi và người bị bại liệt. Tôi nghĩ chúng ta sẽ sớm sử dụng robot để chăm sóc bố mẹ chúng ta, hoặc có lẽ con cái chúng ta sẽ chăm sóc chúng ta. Và còn rất nhiều thứ khác nữa. Tôi nghĩ khả năng là vô tận. Có rất nhiều ý tưởng ta chưa nghĩ đến, và những người như các bạn sẽ giúp chúng tôi nghĩ ra ứng dụng mới.
HW: So what about the dark side? What about the military? Are they interested?
Vậy những mặt trái là gì? Về quân sự chẳng hạn? Họ có quan tâm không?
MR: Sure, the military has been a big funder of robotics. I don't think the military is the dark side myself, but I think, as with all advanced technology, it can be used for all kinds of things.
Đương nhiên, quân đội vẫn là giới tài trợ nhiều cho ngành robot. Bản thân tôi không nghĩ quân đội là mặt tối, nhưng tôi nghĩ, cùng với những công nghệ tiên tiến khác, nó có thể sử dụng cho nhiều mục đích.
HW: Awesome. Thank you so much.
Tuyệt vời, cảm ơn anh.
MR: OK, you're welcome.
Không có chi.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)