The fragrance that you will smell, you will never be able to smell this way again. It’s a fragrance called Beyond Paradise, which you can find in any store in the nation. Except here it’s been split up in parts by Estée Lauder and by the perfumer who did it, Calice Becker, and I'm most grateful to them for this. And it’s been split up in successive bits and a chord.
Hương thơm bạn ngửi thấy, các bạn sẽ không bao giờ có thể ngửi thấy nó như thế này nữa. Hương thơm đó có tên Phía Trên Thiên Đường, bạn có thể tìm thấy nó ở bất cứ cửa hàng nào trên cả nước. Ngoại trừ ở đây nó đã được chia thành các phần nhỏ bởi Estée Lauder và người tạo ra nước hoa đó, cô Calice Becker, rất cảm ơn hai người đã làm việc này giúp tôi. Hương thơm được chia thành các đoạn liên tục và một dây cung.
So what you’re smelling now is the top note. And then will come what they call the heart, the lush heart note. I will show it to you. The Eden top note is named after the Eden Project in the U.K.
Các bạn đang ngửi thấy nốt cao nhất. Và tiếp theo sẽ là nốt trung tâm xanh. Các bạn sẽ thấy ngay sau đây. Nốt đỉnh Eden( vườn địa đàng) được đặt tên theo điểm du lịch Vườn Đia Đàng ở Anh.
The lush heart note, Melaleuca bark note -- which does not contain any Melaleuca bark, because it’s totally forbidden.
Nốt trung tâm xanh, có tên nốt vỏ cây Malaleuca -- nhưng không chứa bất kỳ vỏ Malaleuca nào vì cây ấy bị cấm hoàn toàn.
And after that, the complete fragrance. Now what you are smelling is a combination of -- I asked how many molecules there were in there, and nobody would tell me. So I put it through a G.C., a Gas Chromatograph that I have in my office, and it’s about 400. So what you’re smelling is several hundred molecules floating through the air, hitting your nose.
Và sau cùng là hương thơm hoàn chỉnh. Nào giờ các bạn đang ngửi thấy hương thơm tổng hợp của -- Tôi đã hỏi có bao nhiêu phân tử trong đó nhưng không ai trả lời được. Nên tôi đã đặt nó qua một sắc ký khí GC có trong văn phòng của tôi, và có khoảng 400 phân tử. Các bạn đang ngửi thấy vài trăm phân tử đang trôi nổi trong không khí, chạm tới mũi bạn.
And do not get the impression that this is very subjective. You are all smelling pretty much the same thing, OK? Smell has this reputation of being somewhat different for each person. It’s not really true. And perfumery shows you that can’t be true, because if it were like that it wouldn’t be an art, OK?
Và các bạn đừng có tưởng nhầm rằng nó rất chủ quan nhé. Các bạn đều đang ngửi thấy mùi giống nhau, đúng không? Ai cũng nghĩ với mỗi người, mùi hương đem lại cảm nhận khác nhau, không ai giống ai. Không hẳn đúng lắm. Và một quá trình sản xuất nước hoa sẽ cho bạn thấy điều đó là không đúng vì nếu như thế thì nó còn gì là nghệ thuật nữa, đúng không?
Now, while the smell wafts over you, let me tell you the history of an idea. Everything that you’re smelling in here is made up of atoms that come from what I call the Upper East Side of the periodic table -- a nice, safe neighborhood. (Laughter) You really don’t want to leave it if you want to have a career in perfumery. Some people have tried in the 1920s to add things from the bad parts, and it didn’t really work.
Nào, trong khi mùi thơm còn vương vấn quanh các bạn, tôi xin kể về lịch sử của một ý tưởng. Tất cả mùi hương bạn đang ngửi thấy bao gồm các nguyên tử đến từ phần góc trên bên phải của bảng tuần hoàn -- một khu vực an toàn. (Tiếng cười) Nếu muốn xin được việc trong xưởng điều chế nước hoa thì các bạn không bao giờ muốn rời nó. Trong thập niên 20, một số người đã cố gắng thêm mùi hương từ hương liệu kém nhưng không thu được kết quả gì.
These are the five atoms from which just about everything that you’re going to smell in real life, from coffee to fragrance, are made of. The top note that you smelled at the very beginning, the cut-grass green, what we call in perfumery -- they’re weird terms -- and this would be called a green note, because it smells of something green, like cut grass.
Đây là 5 nguyên tử từ tất cả các mùi bạn ngửi thấy trong cuộc sống, từ mùi thơm cà phê đến hương hoa. Nốt cao nhất các bạn đã ngửi lúc đầu, trong xưởng điều chế chúng tôi gọi nó là Thảo Mộc Xén -- cái tên nghe rất lạ tai -- và đây sẽ là nốt xanh, vì nó có hương thơm như mùi cỏ non mới cắt.
This is cis-3-hexene-1-ol. And I had to learn chemistry on the fly in the last three years. A very expensive high school chemistry education. This has six carbon atoms, so "hexa," hexene-1-ol. It has one double bond, it has an alcohol on the end, so it’s "ol," and that’s why they call it cis-3-hexene-1-ol. Once you figure this out, you can really impress people at parties.
Đây là Cis 3 Hexanol. Tôi đã phải học hóa cấp tốc trong 3 năm qua, một khóa học hóa chương trình THPT rất tốn kém. Rượu này có 6 nguyên tử C, nên có tên hexanol (hexa = 6). Nó có một liên kết đôi và có nhóm chức OH ( rượu : alcohol) ở cuối, nên nó có chữ "ol", và đó là lý do tại sao nó có tên Cis 3 Hexanol. Nếu biết được điều này, bạn có thể gây ấn tượng với mọi người trong các buổi tiệc.
This smells of cut grass. Now, this is the skeleton of the molecule. If you dress it up with atoms, hydrogen atoms -- that’s what it looks like when you have it on your computer -- but actually it’s sort of more like this, in the sense that the atoms have a certain sphere that you cannot penetrate. They repel.
Nó có mùi thơm cỏ mới cắt. Đây là khung phân tử. Nếu phủ nguyên tử H2 lên, đó là hình ảnh của nó khi xem trên máy tính, nhưng thực ra nó trông giống thế này hơn, khi các nguyên tử có một hình cầu nhất định không thể xâm nhập -- chúng phản kháng lại.
OK, now. Why does this thing smell of cut grass, OK? Why doesn’t it smell of potatoes or violets? Well, there are really two theories. But the first theory is: it must be the shape. And that’s a perfectly reasonable theory in the sense that almost everything else in biology works by shape. Enzymes that chew things up, antibodies, it’s all, you know, the fit between a protein and whatever it is grabbing, in this case a smell. And I will try and explain to you what’s wrong with this notion.
Tại sao nó lại có mùi cỏ mới cắt chứ? Sao nó không có mùi khoai tây hay hoa violet? Có 2 giả thuyết cho điều này. Thứ nhất là: hình dạng. Và giả thuyết đó hoàn hảo khi xét đến hầu hết mọi thứ trong hệ sinh học hoạt động bởi hình dạng. Enzyme nghiền nhỏ các kháng thể, giữa một protein và bất kỳ cái gì nó đang tóm được, trong trường hợp này là một mùi. Và tôi sẽ cố gắng giải thích với các bạn khái niệm này sai ở đâu.
And the other theory is that we smell molecular vibrations. Now, this is a totally insane idea. And when I first came across it in the early '90s, I thought my predecessor, Malcolm Dyson and Bob Wright, had really taken leave of their senses, and I’ll explain to you why this was the case. However, I came to realize gradually that they may be right -- and I have to convince all my colleagues that this is so, but I’m working on it.
Giả thuyết còn lại là chúng ta ngửi thấy các rung động phân tử. Nào, đây là ý tưởng hoàn toàn điên khùng. Vào đầu thập kỷ 90, khi lần đầu tiên gặp ý tưởng đó, tôi nghĩ tiền bối của tôi, Malcolm Dyson và Bob Wright đã bỏ qua xúc giác của mình, và tôi sẽ giải thích với bạn điều đó có gì liên quan. Tuy nhiên, tôi đã dần nhận ra có thể họ đúng -- và tôi phải thuyết phục các đồng nghiệp điều đó, hiện tại tôi đang nghiên cứu nó.
Here’s how shape works in normal receptors. You have a molecule coming in, it gets into the protein, which is schematic here, and it causes this thing to switch, to turn, to move in some way by binding in certain parts. And the attraction, the forces, between the molecule and the protein cause the motion. This is a shape-based idea.
Đây là phương thức hoạt động của hình dạng trong các cơ quan cảm nhận bình thường. Một phân tử đi vào protein theo kế hoạch, và nó khiến cái này xoay và di chuyển bằng cách liên kết các phần nhất định với nhau. Và lực hấp dẫn giữa phân tử và protein gây ra sự chuyển động. Đó là một ý tưởng dựa trên hình dạng.
Now, what’s wrong with shape is summarized in this slide. The way --I expect everybody to memorize these compounds. This is one page of work from a chemist’s workbook, OK? Working for a fragrance company. He’s making 45 molecules, and he’s looking for a sandalwood, something that smells of sandalwood. Because there’s a lot of money in sandalwoods. And of these 45 molecules, only 4629 actually smells of sandalwood. And he puts an exclamation mark, OK? This is an awful lot of work. This actually is roughly, in man-years of work, 200,000 dollars roughly, if you keep them on the low salaries with no benefits. So this is a profoundly inefficient process. And my definition of a theory is, it’s not just something that you teach people; it’s labor saving. A theory is something that enables you to do less work. I love the idea of doing less work. So let me explain to you why -- a very simple fact that tells you why this shape theory really does not work very well.
Điều không ổn với hình dạng được tóm tắt trong slide này. Tôi mong các bạn sẽ ghi nhớ các hợp chất này. Đây là một trang trong tập ghi chép của một nhà hóa học. Ông làm việc cho một công ty hương liệu. Ông đang tạo 45 phân tử và tìm kiếm một mùi hương của gỗ đàn hương. Bởi vì gỗ đàn hương rất đắt. Và trong 45 phân tử này thì chỉ có phân tử số 4629 thực sự có mùi gỗ đàn hương. Ông đặt một dấu chấm than. Đây thực sự là một khối lượng công việc lớn. Đây là 200,000$, số tiền cả đời làm việc của một người với mức lương thấp và không có các khoản trợ cấp phúc lợi. Nên đây là một quá trình cực kỳ kém hiệu quả. Và định nghĩa của tôi về lý thuyết là nó không phải kiến thức chỉ để dạy người khác mà là công cụ tiết kiệm sức lao động. Lý thuyết giúp ta bỏ ít công sức hơn. Tôi rất thích ý tưởng đó. Hãy để tôi giải thích với bạn tại sao tôi thích nó -- một bằng chứng đơn giản sẽ nói với bạn tại sao giả thuyết hình dạng này không phù hợp.
This is cis-3-hexene-1-ol. It smells of cut grass. This is cis-3-hexene-1-thiol, and this smells of rotten eggs, OK? Now, you will have noticed that vodka never smells of rotten eggs. If it does, you put the glass down, you go to a different bar. This is -- in other words, we never get the O-H -- we never mistake it for an S-H, OK? Like, at no concentration, even pure, you know, if you smelt pure ethanol, it doesn’t smell of rotten eggs. Conversely, there is no concentration at which the sulfur compound will smell like vodka. It’s very hard to explain this by molecular recognition. Now, I showed this to a physicist friend of mine who has a profound distaste for biology, and he says, "That’s easy! The things are a different color!" (Laughter)
Đây là Cis 3 Hexanol, nó có mùi cỏ mới cắt. Đây là Cis 3 Hexanethiol, có mùi trứng ung. Các bạn cũng biết rượu vodka không bao giờ có mùi trứng ung. Nếu có, bạn sẽ đặt cốc rượu xuống và chạy sang quán bar khác liền. Nói cách khác, chúng ta không bao giờ có nhóm chức O-H chúng ta không bao giờ nhầm nó với S-H, đúng không? Giống như khi bạn ngửi ethanol tinh khiết nó không bao giờ có mùi trứng ung. Ngược lại, dù ở bất kỳ nồng độ nào thì hợp chất sulphur cũng không thể có mùi giống vodka. Rất khó giải thích điều này qua nhận biết phân tử. Tôi đã cho bạn tôi xem cái này, anh ấy là một nhà vật lý học cực kỳ ghét môn sinh học, cậu ấy nói rằng, " Dễ ơt! Các chất có màu khác nhau!" (Tiếng cười)
We have to go a little beyond that. Now let me explain why vibrational theory has some sort of interest in it. These molecules, as you saw in the beginning, the building blocks had springs connecting them to each other. In fact, molecules are able to vibrate at a set of frequencies which are very specific for each molecule and for the bonds connecting them.
Chúng ta phải vượt xa hơn thế một chút. Giờ tôi sẽ giải thích tại sao giả thuyết độ rung lại liên quan đến nó. Các phân tử này như bạn đã thấy vừa nãy, các viên gạch xây có mạch vữa liên kết chúng với nhau. Thực ra, các phân tử có thể rung ở một mức tần số cụ thể cho mỗi phân tử và các liên kết giữa chúng.
So this is the sound of the O-H stretch, translated into the audible range. S-H, quite a different frequency. Now, this is kind of interesting, because it tells you that you should be looking for a particular fact, which is this: nothing in the world smells like rotten eggs except S-H, OK?
Đây là âm thanh của nhóm chức O-H giãn ra chuyển thành phạm vi âm thanh có thể nghe thấy. S-H -- một tần số khá khác biệt. Nào, điều này khá hay vì nó cho bạn biết rằng bạn nên tìm một sự thật cụ thể, đó là: không có gì trên thế giới này có mùi như trứng ung, ngoại trừ S-H, đúng không?
Now, Fact B: nothing in the world has that frequency except S-H. If you look on this, imagine a piano keyboard. The S-H stretch is in the middle of a part of the keyboard that has been, so to speak, damaged, and there are no neighboring notes, nothing is close to it. You have a unique smell, a unique vibration.
Giờ, sự thật B: không gì trên thế giới này có tần số đó ngoại trừ S-H. Hãy nhìn hình ảnh này và tượng tượng ra một bàn phím dương cầm nhé. sulfur giãn ra ở giữa bàn phím đã bị hỏng, nên không có các phím lân cận, nó không gần cái gì cả. Bạn có một mùi, một rung động độc nhất.
So I went searching when I started in this game to convince myself that there was any degree of plausibility to this whole crazy story. I went searching for a type of molecule, any molecule, that would have that vibration and that -- the obvious prediction was that it should absolutely smell of sulfur. If it didn’t, the whole idea was toast, and I might as well move on to other things.
Nên khi bắt đầu trò chơi này tôi đã đi tìm để tự thuyết phục mình rằng có một mức độ hợp lý nào đó trong toàn bộ câu chuyện điên khùng này. Tôi đi tìm một loại phân tử có rung động đó -- dự đoán rằng nó có mùi giống sulphur. Nếu không thì toàn bộ các ý tưởng đã thất bại và tôi sẽ chuyển sang nghiên cứu những thứ khác.
Now, after searching high and low for several months, I discovered that there was a type of molecule called a Borane which has exactly the same vibration. Now the good news is, Boranes you can get hold of. The bad news is they’re rocket fuels. Most of them explode spontaneously in contact with air, and when you call up the companies, they only give you minimum ten tons, OK? (Laughter) So this was not what they call a laboratory-scale experiment, and they wouldn’t have liked it at my college.
Sau khi tìm kiếm tần số cao và thấp suốt mấy tháng, tôi đã phát hiện ra có một loại phân tử có tên Borane (hợp chất gồm 2 nguyên tố Bo và Hydro) có độ rung giống hệt. Tin tốt là các bạn có thể cầm nắm được Borane. Tin xấu là Borane là nhiên liệu tên lửa. Đa số các phân tử nổ ngay lập tức khi tiếp xúc với không khí, và khi gọi đến các công ty để đặt hàng, thì họ chỉ bán ít nhất là 10 tấn. (Tiếng cười) Thế nên đó không phải một thí nghiệm trong phạm vi phòng thí nghiệm và họ sẽ chẳng cho phép làm trong trường đại học đâu.
However, I managed to get a hold of a Borane eventually, and here is the beast. And it really does have the same -- if you calculate, if you measure the vibrational frequencies, they are the same as S-H.
Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng có được Borane. Nếu đo tần số rung sẽ thấy nó giống với sulfur.
Now, does it smell of sulfur? Well, if you go back in the literature, there’s a man who knew more about Boranes than anyone alive then or since, Alfred Stock, he synthesized all of them. And in an enormous 40-page paper in German he says, at one point -- my wife is German and she translated it for me -- and at one point he says, "ganz widerlich Geruch," an "absolutely repulsive smell," which is good. Reminiscent of hydrogen sulfide. So this fact that Boranes smell of sulfur had been known since 1910, and utterly forgotten until 1997, 1998.
Nào, giờ nó có mùi giống sulfur chứ? Nếu lật lại tài liệu ghi chép chúng ta sẽ tìm thấy một người hiểu biết về Borane hơn ai hết đó là Alfred Stock, người đã tổng hợp chúng. Trong một bản tóm tắt khổng lồ dày 40 trang ở Đức, ông viết -- bà xã nhà tôi là người Đức và cô ấy đã dịch cho tôi -- ông viết, "ganz widerlich Geruch." "một mùi kinh dị", giống mùi trứng ung. Nên việc Borane có mùi giống sulfur đã được biết đến kể từ năm 1910 và rơi vào quên lãng cho tới năm 1997, 1998.
Now, the slight fly in the ointment is this: that if we smell molecular vibrations, we must have a spectroscope in our nose. Now, this is a spectroscope, OK, on my laboratory bench. And it’s fair to say that if you look up somebody’s nose, you’re unlikely to see anything resembling this. And this is the main objection to the theory.
Nhưng con sâu bỏ rầu nồi canh: nếu chúng ta ngửi thấy các rung động phân tử, thì chúng ta hẳn phải có kính quang phổ trong mũi. Đây là một kính quang phổ trên ghế trong phòng thí nghiệm của tôi. Và đúng là nếu nhìn lên mũi của người khác các bạn sẽ không thể thấy thứ gì giống cái này. Và đây là phản đề chủ chốt của giả thuyết.
OK, great, we smell vibrations. How? All right? Now when people ask this kind of question, they neglect something, which is that physicists are really clever, unlike biologists. (Laughter) This is a joke. I’m a biologist, OK? So it’s a joke against myself.
Tuyệt, chúng ta ngửi thấy các rung động. Bằng cách nào? Khi mọi người hỏi câu này họ luôn lờ đi sự thật rằng các nhà vật lý rất thông minh, không như nhà sinh vật học. (Tiếng cười) Đùa thôi à. Tôi là nhà sinh vật học mà. Một câu trêu nhạo bản thân.
Bob Jacklovich and John Lamb at Ford Motor Company, in the days when Ford Motor was spending vast amounts of money on fundamental research, discovered a way to build a spectroscope that was intrinsically nano-scale. In other words, no mirrors, no lasers, no prisms, no nonsense, just a tiny device, and he built this device. And this device uses electron tunneling. Now, I could do the dance of electron tunneling, but I’ve done a video instead, which is much more interesting. Here’s how it works.
Bob Jacklovich và Jonh Lamd ở công ty Ford Motor, khi hãng Ford đang dành một số tiền lớn vào nghiên cứu căn bản, họ đã phát hiện ra cách chế tạo một kính quang phổ kích cỡ nano ở bên trong. Nói cách khác, nó không cần gương, tia laser, lăng kính và các phụ kiện khác chỉ là một thiết bị nhỏ xíu. Thiết bị này sử dụng đào ngạch điện tử. Giờ tôi có thể thực hiện vũ điệu đào ngạch điện tử, nhưng thay vào đó tôi đã làm một đoạn băng thú vị hơn nhiều mô tả cách hoạt động của nó.
Electrons are fuzzy creatures, and they can jump across gaps, but only at equal energy. If the energy differs, they can’t jump. Unlike us, they won’t fall off the cliff. OK. Now. If something absorbs the energy, the electron can travel. So here you have a system, you have something -- and there’s plenty of that stuff in biology -- some substance giving an electron, and the electron tries to jump, and only when a molecule comes along that has the right vibration does the reaction happen, OK? This is the basis for the device that these two guys at Ford built.
Các electron là các sinh vật mờ nhạt, chúng có thể nhảy qua các khe hở nhưng chỉ ở năng lượng tương tương. Nếu năng lượng không tương ứng thì các electron không thể nhảy qua. Khác với chúng ta, chúng sẽ không rơi xuống vực. Electron có thể di chuyển nếu năng lượng được hấp thụ. Nên ở đây ta có một hệ thống, trong sinh học có rất nhiều yếu tố -- một chất cho một electron và electron đó cố gắng nhảy, và chỉ khi một phân tử có độ rung phù hợp đến thì phản ứng xảy ra, đúng không? Đây là nền tảng của thiết bị mà hai kỹ sư ở Ford đã chế tạo.
And every single part of this mechanism is actually plausible in biology. In other words, I’ve taken off-the-shelf components, and I’ve made a spectroscope. What’s nice about this idea, if you have a philosophical bent of mind, is that then it tells you that the nose, the ear and the eye are all vibrational senses. Of course, it doesn’t matter, because it could also be that they’re not. But it has a certain -- (Laughter) -- it has a certain ring to it which is attractive to people who read too much 19th-century German literature.
Và mỗi phần của cơ chế này đều hợp lý trong sinh học. Nói cách khác, tôi đã lấy các linh kiện hoàn thiện và lắp ráp một kính quang phổ. Nếu giỏi về triết học các bạn sẽ thấy ý tưởng này rất hay ở chỗ nó cho bạn biết mũi, tai và mắt đều là các giác quan dựa vào dao động. Dĩ nhiên, nó không ảnh hưởng gì vì cũng có thể nó không ảnh hưởng. Nhưng nó có một điều chắc chắn-- (Tiếng cười) Nó hấp dẫn với những người đã đọc quá nhiều văn học Đức thế kỷ 19.
And then a magnificent thing happened: I left academia and joined the real world of business, and a company was created around my ideas to make new molecules using my method, along the lines of, let’s put someone else’s money where your mouth is. And one of the first things that happened was we started going around to fragrance companies asking for what they needed, because, of course, if you could calculate smell, you don’t need chemists. You need a computer, a Mac will do it, if you know how to program the thing right, OK? So you can try a thousand molecules, you can try ten thousand molecules in a weekend, and then you only tell the chemists to make the right one. And so that’s a direct path to making new odorants.
Và rồi một điều đặc biệt đã xảy ra: Tôi rời trường đại học và tham gia thế giới kinh doanh, dựa trên các ý tưởng tôi thành lập một công ty gia công các phân tử mới, ứng dụng phương pháp của mình, và giữ đúng phương châm của mình. Một trong số những việc đầu tiên xảy ra là, chúng tôi bắt đầu tìm hiểu các công ty hương liệu xem họ cần gì, bởi vì nếu có thể tính toán các mùi không cần nhà hóa học thì một chiếc máy tính có thể làm điều đó, một chiếc Mac là thích hợp nhất nếu biết lập trình đúng. Các bạn có thể thử một nghìn hoặc một vạn phân tử trong 1 tuần, rồi nói với các nhà hóa học tạo ra mùi hương theo yêu cầu. Đó là con đường trực tiếp để tạo ra mùi hương mới.
And one of the first things that happened was we went to see some perfumers in France -- and here’s where I do my Charles Fleischer impression -- and one of them says, "You cannot make a coumarin." He says to me, "I bet you cannot make a coumarin."
Hồi đầu chúng tôi đi gặp một số nhà sản xuất nước hoa ở Pháp -- và đó là nơi tôi ấn tượng với Charles Fleishcer -- một người trong số họ nói, 'Anh không thể làm được cumarin,'' (một hợp chất có mùi vani) ông ấy nói với tôi, "Tôi cá là anh không thể."
Now, coumarin is a very common thing, a material, in fragrance which is derived from a bean that comes from South America. And it is the classic synthetic aroma chemical, OK? It’s the molecule that has made men’s fragrances smell the way they do since 1881, to be exact.
Giờ cumarin là một hương liệu rất phổ biến chiết xuất từ một loại đậu ở Nam Phi. Và đó là chất thơm tổng hợp cổ điển. Đó là phân tử làm nên nước hoa cho nam giới từ năm 1881.
And the problem is it’s a carcinogen. So nobody likes particularly to -- you know, aftershave with carcinogens. (Laughter) There are some reckless people, but it’s not worth it, OK?
Vấn đề là, đó là một chất gây ung thư. Chẳng ai muốn dùng nước thơm cạo râu làm từ chất gây ung thư cả. (Tiếng cười) Dù một số người bất cẩn đến thế nào nhưng họ cũng thấy thật không đáng.
So they asked us to make a new coumarin. And so we started doing calculations. And the first thing you do is you calculate the vibrational spectrum of coumarin, and you smooth it out, so that you have a nice picture of what the sort of chord, so to speak, of coumarin is. And then you start cranking the computer to find other molecules, related or unrelated, that have the same vibrations.
Nên họ yêu cầu chúng tôi điều chế coumarin mới. Và chúng tôi bắt đầu tính toán. Và việc đầu tiên là tính toán phổ dao động của coumarin để có một bức tranh đẹp về dây của coumarin. Và sau đó dùng máy tính tìm kiếm các phân tử khác, có liên quan hoặc không liên quan có cùng dao động.
And we actually, in this case, I’m sorry to say, it happened -- it was serendipitous. Because I got a phone call from our chief chemist and he said, look, I’ve just found this such a beautiful reaction, that even if this compound doesn’t smell of coumarin, I want to do it, it’s just such a nifty, one step -- I mean, chemists have weird minds -- one step, 90 percent yield, you know, and you get this lovely crystalline compound. Let us try it.
Và tôi rất tiếc phải nói rằng nó hoàn toàn là ăn may. Vì tôi nhận một cuộc gọi từ trưởng nhóm các nhà hóa học thông báo anh ấy mới tìm thấy phản ứng tuyệt vời này, kể cả hợp chất này không có mùi coumarin thì anh ấy vẫn muốn điều chế nó vì nó thật tuyệt, ý tôi muốn nói, các nhà hóa học có những suy nghĩ kỳ quặc -- một bước sinh ra hiệu suất 90% và sẽ được hợp chất tinh thể đáng yêu này. Chúng ta hãy thử xem.
And I said, first of all, let me do the calculation on that compound, bottom right, which is related to coumarin, but has an extra pentagon inserted into the molecule. Calculate the vibrations, the purple spectrum is that new fellow, the white one is the old one. And the prediction is it should smell of coumarin. They made it ... and it smelled exactly like coumarin. And this is our new baby, called tonkene. You see, when you’re a scientist, you’re always selling ideas. And people are very resistant to ideas, and rightly so. Why should new ideas be accepted? But when you put a little 10-gram vial on the table in front of perfumers and it smells like coumarin, and it isn’t coumarin, and you’ve found it in three weeks, this focuses everybody’s mind wonderfully. (Laughter) (Applause)
Và trước tiên, hãy để tôi tính toán hợp chất liên quan tới coumarin nhưng có một hình ngũ giác phụ thêm vào phân tử. Tính toán các dao động, phổ màu tím là mới còn phổ trắng là cũ. Họ dự đoán nó sẽ có mùi coumarin. Và họ đã thành công, nó có mùi giống hệt coumarin. Đây là sản phẩm mới của chúng tôi có tên tonkene. Các bạn thấy đó, nếu là nhà khoa học các bạn có thể bán các ý tưởng của mình. Mọi người phản đối các ý tưởng: Tại sao các ý tưởng mới nên được chấp nhận? Nhưng khi đặt một lọ thủy tinh 10 gr lên bàn trước mặt các nhà sản xuất nước hoa nó có mùi giống coumarin nhưng không phải coumarin, bạn phát hiện ra điều đó trong 3 tuần, và nó khiến mọi người tập trung rất tốt, (Tiếng cười) (Vỗ tay)
And people often ask me, is your theory accepted? And I said, well, by whom? I mean most, you know -- there’s three attitudes: You’re right, and I don’t know why, which is the most rational one at this point. You’re right, and I don’t care how you do it, in a sense; you bring me the molecules, you know. And: You’re completely wrong, and I’m sure you’re completely wrong.
Mọi người thường hỏi tôi, liệu giả thuyết của anh có được chấp nhận? Tôi trả lời, bởi ai cơ? Ý tôi là, có 3 thái độ: Anh đúng đấy tuy tôi không hiểu tại sao và cái nào là hợp lý nhất. Anh đúng đấy, tôi không quan tâm anh làm thế nào; miễn là anh mang cho tôi các phân tử là được rồi. Và: Anh nhầm rồi, tôi đảm bảo là anh đã nhầm.
OK? Now, we’re dealing with people who only want results, and this is the commercial world. And they tell us that even if we do it by astrology, they’re happy. But we’re not actually doing it by astrology. But for the last three years, I’ve had what I consider to be the best job in the entire universe, which is to put my hobby -- which is, you know, fragrance and all the magnificent things -- plus a little bit of biophysics, a small amount of self-taught chemistry at the service of something that actually works.
Giờ chúng tôi đang làm việc với những người chỉ để ý đến kết quả mà thôi, vì đấy là thế giới thương mại mà. Và họ nói với chúng tôi rằng kể cả nếu chúng tôi lấy hú họa nhờ bói toán thì cũng không thành vấn đề. Nhưng chúng tôi không sản xuất nước hoa bằng bói toán đâu nhé. Trong 3 năm vừa qua, tôi đã có công việc mà bản thân cảm thấy là công việc tuyệt nhất quả đất, được làm việc đúng sở thích đó là, hương thơm và những thứ tuyệt vời khác -- cộng thêm một chút lý sinh, một chút kiến thức hóa học tự học liên quan đến những thứ thực sự hữu ích.
Thank you very much. (Applause)
Xin cảm ơn. (Vỗ tay)