[SHIT]
[PHÂN]
This is arguably the back end of the design of animals.
Người ta tranh cãi rằng đây là một phần phụ cuối cùng trong cấu tạo động vật.
(Laughter)
(Cười)
But the reason I put this up here is because when I was in Africa last year, my wife and I were driving around, we had this wonderful guide, who showed us something that surprised both of us, and it was very revealing in terms of the fascination that comes with the design of animals. It turns out that in about the 1880s, the missionaries came to Africa to spread the word of Christianity, to teach English to the natives. And they brought blackboards and chalk. And I'd like you to imagine that that's a blackboard, and I just used some chalk on there. And they brought quite a bit of this stuff. But over the years, the blackboards were fine, but they ran out of chalk. And this is a real crisis for them.
Nhưng lý do tôi đặt nó ở đây là vì khi tôi ở châu Phi năm rồi, trong lúc tôi và vợ đang lái xe xung quanh, chúng tôi đã có được người hướng dẫn tuyệt vời này, người đã làm cả hai chúng tôi ngạc nhiên, Và nó đã dẫn tôi đến một niềm đam mê liên quan đến thiết kế của các loài động vật Khoảng vào những năm 1880, các nhà truyền giáo đã đến châu Phi để truyền bá đạo Cơ đốc Giáo, để dạy tiếng Anh cho người bản xứ. Và họ mang theo cả bảng đen và phấn. Và tôi cũng muốn các bạn xem đây là bảng đen và tôi cũng đã sử dụng một vài viên phấn ở đây. Và họ mang theo một vài công cụ như thế này. Nhưng những năm sau đó, bảng đen vẫn còn sử dụng tốt, nhưng họ hết phấn. Và đây là một cuộc khủng hoảng thật sự với họ
And that's where the hyena comes in. The hyena is probably the most perfectly designed scavenging animal in the world. It strip-mines carcasses, and it has amazing teeth, because it enables the hyena to essentially eat bones. Now, the end product of that action is up on the board here. What the missionaries would do is, they'd walk around and they'd pick up hyena shit. And the incredible thing about hyena shit is, it makes great chalk.
Và đó là nơi linh cẩu xuất hiện. Linh cẩu có lẽ là một loài tuyêt vời nhất trên thế giới trong việc tìm xác. Nó có mỏ nhọn và hàm răng tuyệt vời, bởi vậy mà linh cẩu có khả năng ăn những bộ xương. Lúc này, sản phẩm cuối cùng của hành động đó xuất hiện ở đây. Điều mà các nhà truyền giáo sẽ làm, họ đi xung quanh và thu gom phân của linh cẩu. Và một điều đáng kinh ngạc về phân của linh cẩu, đó là viên phấn tuyệt vời.
(Laughter)
(Tiếng cười)
That's not what I'm here to talk about, but it is a fascinating aspect of animal design. What I'm here to talk about is the camel. When I started talking to Richard about what I was going to speak about, I had recently come back from Jordan, where I had an amazing experience with a camel.
Đó không phải là điều tôi muốn nói ở đây, nhưng nó là một khía cạnh hấp dẫn về thiết kế của các loài động vật. Điều tôi muốn nói chính là con lạc đà. Khi tôi bắt đầu nói với Richard về điều tôi chuẩn bị nói đến, tôi vừa trở về từ Jordan gần đây, nơi tôi đã có một trải nghiệm thú vị với một con lạc đà.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And we were in the desert.
Và chúng tôi đi vào sa mạc.
Richard Wurman: That's the end! Keith Bellows: Yeah, yeah.
Richard Wurman: Hết rồi! Keith Bellows: Yeah, yeah.
We were in the desert, in Wadi Rum, in a small Jeep. There were four of us, two Bedouin drivers. You can just imagine, this expanse is an ocean of sand, 105 degrees, one water bottle. And we were driving in what they told us was their very, very best Jeep. Didn't look like it to me. And as we started to go through the desert, the Jeep broke down. The guys got out, they put the hood up, they started working under the hood, got it going again. About a hundred yards, it broke down. This went on about 6-7 times, we were getting more and more alarmed, we were also getting deeper and deeper into the desert.
Chúng tôi đã ở trong sa mạc, ở Wadi Rum, trong một chiếc jeep nhỏ. Chúng tôi có 4 người, thêm 2 tài xế người Bedouin. Bạn có thể hình dung, khung cảnh rộng lớn này là cả một đại dương cát, 105 độ, một chai nước. Và chúng tôi đang lái chiếc xe mà họ bảo với chúng tôi là chiếc jeep tốt nhất. Nhưng tôi không nghĩ thế. Và khi chúng tôi bắt đầu đi xuyên qua sa mạc, chiếc jeep hư máy. Hai ông tài xế ra khỏi xe, họ úp mui xe lên, Họ bắt đầu làm việc dưới mui xe, để sửa máy. Đi được khoảng trăm thước, nó lại hư. Điều này cứ tiếp tục 6 - 7 lần, chúng tôi ngày càng lo lắng chúng tôi đã đi ngày càng sâu trong sa mạc.
And eventually, our worst nightmare happened: they flooded the engine. And they said, "Ah, no problem! We just get out and walk." And we said, "We get out and walk?" One water bottle, remember, guys, four people. And they said, "Yeah, yeah, we'll walk. We'll find some camels." We got out and walked, and sure enough, about half a mile, we came over the crest of this hill, and there was a huge gathering of Bedouin with their camels. The guy went up and started dickering, and 10 dollars later, we had four camels. They went down like elevators; we got on them. They went back up, and the Bedouin, each Bedouin, four of them, got behind each of the camels with a little whip. And they started slashing away at the back of the camels, and they started galloping. And if you've ever been on a camel, it is a very, very uncomfortable ride. There's also one other aspect about these camels. About every 10 steps, they lean back and try to take a chunk out of your leg.
Và cuối cùng, cơn ác mộng tồi tệ nhất của chúng tôi đã xảy ra: Họ tắt động cơ. Và họ nói, "Ah, không sao cả. Chúng ta xuống xe và đi bộ". Và chúng tôi hỏi lại: "Chúng ta xuống xe và đi bộ?" Hãy nhớ chúng ta chỉ có 1 chai nước cho 4 người. Và họ nói, "Yeah, yeah, chúng ta sẽ đi bộ. Chúng ta sẽ tìm vài con lạc đà." Chúng tôi xuống xe và đi bộ, và chắc chắn là, khoảng nữa dặm, chúng tôi đến đỉnh của ngọn đồi này, và ở đó có rất nhiều người Bedouin với những con lạc đà của họ. Những anh chàng này đi lên và bắt đầu mặc cả, và 10 đô la sau đó, chúng tôi có 4 con lạc đà. Chúng hạ xuống như thang máy; chúng tôi cưỡi chúng. Chúng đứng lên, và mỗi người Bedouin, có tất cả 4 người, đi sau những con lạc đà với cây roi nhỏ. Và họ đánh vào phía sau lưng của những con lạc đà, và chúng bắt đầu phi nhanh. Và nếu bạn có dịp cưỡi một con lạc đà, điều này rất khó chịu. Ngoài ra còn có một khía cạnh khác về những con lạc đà này. Khoảng 10 bước, chúng lại nghiêng trở lại và cố cắn vào chân bạn.
(Laughter)
(Cười)
So we kept on going, and this camel kept on trying to take a chunk out of my leg. And eventually, three miles later, we arrived at our destination, where a Jeep was supposed to meet us. And the camels come down again like elevators, we sort of clumsily get off, and they, obviously, try to take another chunk out of my leg. And I've developed a very wonderful relationship with this creature by this point, and I've realized that this is a mean son of a bitch. And much meaner, by the way, than the Bedouin who greeted me and tried to sell me one of his 26 daughters to take back to the States.
Vì thế chúng tôi cố đi. và con lạc đà này cứ tiếp tục cắn chân của tôi. Và cuối cùng, 3 dặm sau đó, chúng tôi đến nơi, nơi có chiếc xe jeep đợi chúng tôi. Và những con lạc đà hạ xuống một lần nữa như thang máy, chúng tôi loạng choạng leo xuống, và chúng dĩ nhiên, cố gắng cắn vào chân tôi. Và tôi đã phát triển một mối quan hệ tốt đẹp với loài vật này từ thời điểm đó, và tôi nhận ra điều này thật tuyệt vời. Và còn tuyệt vời hơn, đó là người Bedouin chào đón tôi và cố gắng bán cho tôi một trong 26 con gái của ông để mang về nước Mỹ.
So as we talked, Richard and I, I said, "You know, maybe I should bring a camel. It's the best designed animal in the world." He went, "Nah. I don't think we want to be bringing a camel." And you should be really glad we decided not to bring the camel. So I did the next best thing. I went to the Washington Zoo. Richard said, "I want you to get up close and personal with this camel. I want you to inspect its mouth, look at its teeth. Go underneath it. Go above it. Go around it. Pull its tail up; take a look in there. I want you to get as close to that camel as you possibly can."
Vì thế, tôi và Richard nói chuyện, Tôi nói, "Ông bạn biết không, có lẽ tôi nên mang theo 1 con lạc đà. Chúng là loài có thiết kế tuyệt vời nhất trên thế giới" Anh ta trả lời, "Không. Tôi không nghĩ chúng tôi muốn mang theo một con lạc đà." Và mọi người nên vui khi chúng tôi quyết định không mang theo lạc đà. Thế là tôi đã làm một điều tốt nhất tiếp theo. Tôi đến sở thú Washington. Richard nói, "Tôi muốn bạn thân với con lạc đà này. Tôi muốn bạn kiểm tra miệng của nó, nhìn vào răng của nó. Tới bên dưới nó. Đi trên nó. Đi xung quanh nó. Kéo đuôi nó lên; rồi nhìn vào. Tôi muốn bạn thân thiết với con lạc đà nhiều nhất có thể."
So, I got a National Geographic film crew. We went down there, and I took one look at this camel. It is a 2,000 pound creature who is in rut.
Thế là, tôi đến một đoàn làm phim địa lý quốc gia. Chúng tôi đi xuống đó, và xem con lạc đà này. Nó nặng 2000 pound, và trong thời kì động dục.
(Laughter)
(Cười)
Now, if you've ever seen a 2,000 pound camel in rut, it is a scary, scary thing to behold. And if Richard thought I was getting in the ring with that camel, someone was smoking Bedouin high grade.
Bây giờ, nếu bạn đã thấy con lạc đà 2000 pound đang động dục, đó thật là một điều đáng sợ. Và nếu Richard nghĩ tôi đang trong vòng lẩn quẩn với lạc đà, thì một vài người cũng đang nhắm đến Bedouin cao độ.
(Laughter)
(Cười)
So we got as close to it as possible, and I'm going to share this. Chris, if you want to roll this film. Then I'm going to show you a little bit more about the design of camels.
Vì thế chúng tôi nghiên cứu sâu hơn có thể. và tôi đang chuẩn bị chia sẻ điều này. Chris, nếu bạn muốn cuộn phim này. Sau này tôi sẽ cho bạn xem nhiều hơn một tí về thiết kế của loài lạc đà.
Do you want to roll the film?
Bạn có muốn cuộn phim này không?
(Adventure music)
(Nhạc)
(Video) Hello. This is Keith Bellows with the TED National Geographic Camel Investigation Unit. I'm here to look at the ultimate desert machine.
(Video) Xin chào. Đây là Keith Bellows với đơn vị Nghiên cứu lạc đà của địa lý quốc gia tại TED. Tôi ở đây để nhìn cổ máy sa mạc tốt nhất.
(Music continues)
(Nhạc tiếp tục)
Keith Bellows: And you'll note I started chewing gum because I was around this camel all day.
Keith Bellows: Và bạn cũng thấy đấy, tôi đã bặt đầu nhai kẹo cao su bởi vì tôi ở xung quanh con lạc đà này cả ngày.
(Video) That's it, OK. No! See, now he's getting a little overexcited. So we'll need to be very careful around him. Don't let him get you. Now, you can see copious amounts of saliva in there. I always called myself the unstable stable boy. Their nose, you can see his nose is flared right now. When they're in rut, they're similar to seals in the way, like, a seal has to open its nose to breathe. And they're similar. They have to consciously open their nose.
(Video)Được rồi, OK. Không! Xem này, bây giờ nó đang bắt đầu kích động. Vì thế chúng ta phải cẩn thận. Đừng để nó đụng bạn. Bây giờ, bạn có thể thấy có vô vàn nước bọt trong đó. Tôi luôn tự gọi nó là cậu bé điềm tĩnh một cách bất ổn. Mũi chúng, bạn có thể thấy nó đang xòe ra. Khi đang động dục, chúng khá giống như hải cẩu ở chỗ là hải cẩu phải mở mũi để thở. Và chúng giống như vậy. Chúng phải cố mở mũi ra.
KB: Ears?
KB: Thế còn tai?
SK: They are small. But they have excellent hearing. But not big; for instance, in zebras, they have a huge ear that's very mobile, so they can actually turn them both around. And they use them in the same way we use our binocular vision. They use that to pinpoint sound. The desert's extremely windy as well as being very cold. So not only do they have the very long eyelashes, but there's the secondary -- I guess you'd call it the [unclear] or whatever. It's this hair that's above the eyes, and below it, it's longer.
SK: Tai chúng nhỏ. Nhưng chúng có khả năng nghe rất tuyệt. Nhưng không lớn; ví dụ, ở loài ngựa vằn, thì chúng có tai khổng lồ điều này rất tiện lợi, vì thế loài lạc đà có thể thay đổi đôi tai nhanh chóng. Và chúng làm như cái cách chúng ta sử dụng thị giác của chúng ta. Chúng sử dụng để xác định âm thanh. Sa mạc đầy gió, và rất lạnh. Vì vậy mà chúng không chỉ có đôi mi rất dài, mà còn có những thứ khác-- Tôi đoán bạn sẽ gọi nó [không rõ ràng] hay bất cứ cái gì khác. Chính là lông, thứ nằm trên và dưới đôi mắt, và dài hơn.
Most people think that the humps store water. They don't. They store fat. Now, I'm not a chemist, but basically what happens is the fat is oxidized by their breathing. And that will turn it into actually usable water. Like a lot of predators, they walk on their toes. But there's a big fat pad in there that squishes out. They're like sun shoes, but, you know, with sand. Hooves? They don't have traditional hooves, but they do have one, like, big nail.
Nhiều người nghĩ rằng bướu lạc đà dự trữ nước. Không phải thế. Chúng dự trữ chất béo. Lúc này, tôi không phải nhà hóa học, nhưng cơ bản những điều diễn ra là chất béo bị oxy hóa bởi hơi thở. Và điều này sẽ biến nó thành nước có thể sử dụng được. Giống như nhiều loài ăn thịt, chúng đi bằng ngón chân. Nhưng có một miếng đệm mỡ lớn dưới chân tạo âm thanh lộc cộc. Chúng giống như chiếc giày đi nắng, nhưng là để đi cát, Móng guốc? Thường thì chúng không có móng guốc, nhưng chúng có một thứ đại loại như móng tay lớn.
(Audience laughter)
( Tiếng cười)
You can't really see too clear. The fur's kind of grown over. But they use their tails a lot, especially in rut. He will urinate and spin his tail to spread the urine around and make him more attractive. I don't know why that would be, but it works for them. So, what the hell.
Bạn không thể thấy rõ ràng được. Lông dường như bao phủ hết. Nhưng chúng sử dụng đuôi rất thường, đặc biệt là khi động dục. Chúng sẽ đi tiểu và xoáy cái đuôi để phát tán nước tiểu và làm nó trông hấp dẫn hơn. Tôi không biết tại sao, nhưng việc này có hiệu quả với chúng. Thật không thể tin được.
(Audience laughter)
(Tiếng cười của người xem)
Now, they will also defecate in certain areas. Generally, they poop wherever they want to, but during their rut, they will defecate in perimeter areas. I don't know if you've read or heard about the sub-sonic sounds from elephants, you know what I mean, like, "Br-r-r!" These big, big rumbling sounds. He will do the same thing. You can actually see, right here, it will vibrate. We weigh our animals. Unfortunately, he's a very aggressive animal, so he's actually destroyed some of the scales. We had these big things that I weigh the bison on, for instance. I'm guessing that he's at least 1,600 pounds. But I would put him closer to 2,000. He's basically a walking mulch pile. We're kind of like buds, but I'm also a male as well.
Lúc này, chúng sẽ ị ở những nơi cố định. Thông thường, chúng sẽ ị ở bất cứ nơi nào chúng muốn, nhưng trong quá trình động dục, chúng sẽ ị ở phía ngoài. Tôi không biết rằng bạn đã nghe hay đọc về âm thanh tần số thấp của loài voi chưa, ý tôi, kiểu như. "Br-r-r!" Những âm thanh lớn khó nghe. Lạc đà cũng giống như vậy. Bạn có thể thấy, ở đây, nó sẽ bị chấn động. Chúng ta đo cân nặng của các loài động vật. Không may, lạc đà là loại động vật khá dữ, chúng sẽ làm hư luôn cái cân. Chúng tôi có những cái cân rất to, để cân cỡ như bò bison. Tôi đoán nó nặng ít nhất cũng 1600 pound. Nhưng cũng gần 2,000. Chúng cơ bản là một đống mùn di động. Chúng ta như những nụ hoa mặc dù tôi là nam.
KB: He sees you as competition? Senior Keeper: Yeah, exactly. And it makes him very dangerous at this time of year. Don't even think about it. Don't think about it!
KB: Nó đang xem bạn là kẻ thù? Senior Keeper: Yeah, chính xác rồi. Điều này làm chúng rất nguy hiểm trong lúc này. Đừng nghĩ về nó, Đừng nghĩ về nó nữa!
But now, we're going to meet. Out! Out! Out! No. Out!
Bây giờ, chúng ta đang chuẩn bị gặp nó. Ra đây! Ra đây! Ra đây nào! Không. Ra đây nào!
(Music)
(Nhạc)
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
KB: What I didn't show you was, you got that swinging thing going? Well, and you're glad I didn't show you this. One of the other things about the camel's beautiful design is that its penis points backwards. That way the camel can dip its tail in the stream, and just whacker the entire area around him. And that's how he really marks his territory. Now, what you also didn't see was that -- and you may have noticed in the pen beside him and, by the way, the camel's name is Suki. In the pen beside him is Jasmine. Jasmine has been his mate for some time. But on this particular occasion, it was very, very clear that as horny as Suki was, Jasmine was having none of it. And so we started thinking. Well, if poor old Suki is in search of a mate, what would Suki do to find the perfect mate?
KB: Cái mà tôi không cho các bạn xem, là cái đang treo lủng lẳng thế này? Được rồi, các bạn nên vui vì tôi không cho các bạn xem. Một trong những thứ khác làm nên thiết kế tuyệt vời của lạc đà là dương vật của nó chỉ về phía sau. Nhờ thế mà lạc đà có thể ngâm cái đuôi trong dòng nước, Và nó cứ đánh nước tiểu ra toàn bộ khu vực xung quanh nó. Đó là cách nó đánh dấu lãnh thổ của nó. Bây giờ, điều mà bạn sẽ không nhìn thấy là -- và bạn hãy nhớ lưu ý người bạn bên cạnh nó. Và, nhân tiện, tên con lạc đà này là Suki. Và người bạn bên cạnh nó là Jasmine. Jasmine là bạn đồng hành của nó một thời gian. Nhưng trong những dịp thế này, rất, rất rõ là dù Suki đang bị kích động manh, nhưng Jasmine thì không có. Và vì thế chúng tôi bắt đầu suy nghĩ. là nếu anh bạn già Suki đang tìm bạn tình Suki sẽ làm gì để tìm bạn tình hoàn hảo?
I'm going to show you another film. But before I do, I just want to mention that this animal truly is a sort of the SUV of the sand, the ship of the desert. It's so vital to the inhabitants of the areas in which the camel is found, largely Mongolia and Sahara, that there are 160 words in Arabic to describe the camel. And if this is a creature that was designed by committee, it's certainly been like no committee I've ever been on. So here's what Suki would do in search of a mate. Can you roll it, please?
Tôi sẽ cho các bạn xem đoạn phim mới. Nhưng trước khi xem, tôi chỉ muốn nhắc rằng động vật này là một loại xe đi trên cát, là con tàu của sa mạc. Nó thật sự quan trọng đối với cư dân sống ở sa mạc nơi có những con lạc đà, vùng Mongolia và Sahara rộng lớn, nơi có 160 từ tiếng Ả Rập nói về lạc đà. Và nếu đây là loài sinh vật được thiết kế bởi hội đồng, nó chắc chắn không phải hội đồng chúng ta nhìn thấy. Vì thế đây là cách Suki tìm bạn tình. Bạn có thể cuộn nó không?
Camel seeking camel Lusty beast desires attractive and sincere mate. I'm seven feet, 2,000 lbs., with brown hair and eyes, long legs -- and I'm very well ... hung. I'm TED Camel. The perfect desert machine. I'm smartly designed. Eyelashes that keep out sand and a third eyelash that works like a windshield wiper. A distinguished nose -- with nostrils lined to filter out sand and dust and a groove that catches moisture. Amazingly full lips -- that allow me to eat practically anything that grows. Callouses on my knees that let me kneel comfortably. Leathery chest pads that beat the heat. Short fur that keeps my skin cool. Long legs that allow heat to escape. And my hump? Ogden Nash once wrote: "The camel has a single hump; the dromedary two, or else the other way around. I'm never sure. Are you?" Here's a hint: Bactarian. Dromedary. My hump contains up to 80 lbs. of fat, but doesn't store H2O. I'm built to last. I'm the go-to animal when the oasis is dry. I usually won't sweat until my body reaches 105 ºF, enough to fry an egg. I'm able to lose 40% of my weight without dying. (Most animals would if they lost half that much.) I'll drink 5 to 7 gallons of water a day. But go without for more than a month. I'm powerful. Able to pack up to 400 lbs. of cargo. Outrun a horse -- And cover 26 miles on a good day. Camelot. Jackie O. once said that traveling by camel made riding an elephant seem like taking a jet plane. Yet my large, soft feet allow me to navigate sand. (Is that why the Bedouin claim I can dance?) I'm a good provider, too. Bedouins call the camel the Gift of God. No surprise. Tents and rugs are made of my hair. My dried bones are prized as a sort of ivory. My dung is burned as fuel. My milk is used for cheese. "Camels are like angels," a Bedouin once said.
Lạc đà tìm lạc đà Thú ham muốn tìm một bạn tình hấp dẫn và thủy chung Tôi cao bảy feet, 2.000 lbs., với mái tócvà đôi mắt nâu, đôi chân dài và tôi rất là tốt... Tôi là lạc đà TED. Một cỗ máy sa mạc hoàn hảo. Tôi là một thiết kế thông minh. Lông mi dài tránh cát và 1/3 lông mi đóng vai trò làm kính gạt chắn gió. Một chiếc mũi đặc biệt-- với hai lỗ mũi lót để lọc cát và bụi và một móng guốc để giữ ẩm. Một đôi môi dày kỳ lạ-- thứ cho phép tôi ăn bất cứ thứ gì mọc lên. Những vết chai trên đầu gối giúp chân tôi thoải mái. Miếng đệm ngực ở da giúp hạ nhiệt Lớp lông vũ ngắn giúp làm mát da. Đôi chân dài để sức nóng thoát ra. Và bướu của tôi? Ogden Nash đã từng viết: Lạc đà có 1 bướu đơn; lạc đà 1 bướu thì có tới 2, hoặc theo cách nào khác. Tôi không dám chắc. Bạn dám không? Sau đây là một gợi ý: Lạc đà hai bướu. Lạc đà một bướu. Bướu của tôi chứa đên 80 Ibs chất béo chứ không chứa nước. Tôi được xây dựng để chịu đựng. Tôi là loài oai phong khi ốc đảo khô. Tôi thường sẽ không đổ mồ hôi cho đến khi cơ thể của tôi đạt đến 105 º F. đủ để chiên một quả trứng, Tôi có khả năng giảm 40% cân nặng mà không chết (Hầu hết động vật khác sẽ chết nếu chỉ giảm 20%) Tôi uống 5 đến 7 ga-lông nước một ngày nhưng có thể đi không uống nước hơn 1 tháng. Tôi tràn đầy năng lượng. Có thể gói lên đến 400 lbs hàng hóa. Hơn cả một con ngựa-- Và có thể đi 26 dặm trong một ngày. Camelot. Jackie O đã nói rằng du lịch bằng lạc đà so với cưỡi voi có vẻ giống như đang đi máy bay phản lực. Chưa kể bàn chân lớn mềm để tôi điều hướng cát. (Đó là vì sao người Bedouin cho rằng tôi có thể nhảy?) Tôi cũng là một nhà cung cấp tốt. Người Bedouin gọi lạc đà là quà của thượng đế. Không ngạc nhiên lắm. Lều và thảm được làm từ lông của tôi. Xương khô của tôi được đánh giá cao như 1 loại ngà. Phân của tôi được làm nhiên liệu đốt. Sữa của tôi được sử dụng làm pho mát. "Loài lạc đà như những thiên thần" một người Bedouin đã nói thế.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you. I just want to leave you with one last thought, which is probably the most important thing to take away. Humans, the animal, are pretty lucky creatures because, by and large, we really don't have to adapt to our environment; we adapt our environment to us. And we've seen that repeatedly through this conference, not just this year, but in past years. But this creature that you've just seen ultimately adapts, and keeps adapting and adapting. I think when you look at the animal kingdom, that is one of the most remarkable things. It doesn't have an environment that adapts to it; it has to adapt to the environment.
Cảm ơn. Tôi chỉ muốn gửi gắm đến các bạn một ý nghĩ cuối cùng, điều có thể là quan trọng nhất để mang về. Loài người, nhìn chung, là loài động vật khá may mắn, chúng ta thật sự không phải thích nghi với môi trường; chúng ta làm cho môi trường thích nghi với chúng ta. Và chúng tôi thấy nhiều lần thông qua buổi hội thảo này, không chỉ trong năm nay mà trong những năm vừa qua. Nhưng loài vật mà chúng ta vừa thấy thích nghi rất tốt và vẫn tiếp tục thích nghi và thích nghi, Tôi nghĩ khi bạn nhìn vào thế giới của muôn loài, đó là một trong những thứ phi thường nhất. Nó không phải có một môi trương thích nghi; mà nó phải thích nghi với môi trường.
Ricky, thank you very much for having me.
Ricky, cảm ơn rất nhiều vì những đã lắng nghe tôi.
RW: That's terrific. Thank you.
RW: Điều này thật tuyệt. Xin cảm ơn.