I am no designer, nope, no way. My dad was, which is kind of an interesting way to grow up. I had to figure out what it is my dad did and why it was important.
Tôi không phải là nhà thiết kế, không, còn lâu nhé. Nhưng bố tôi thì có... ... vậy nên lớn lên với người như thế khá là thú vị. Tôi từng tìm hiểu xem chính xác là bố mình làm gì... ... và tại sao những công việc đó lại quan trọng với ông.
Dad talked a lot about bad design when we were growing up, you know, "Bad design is just people not thinking, John," he would say whenever a kid would be injured by a rotary lawn mower or, say, a typewriter ribbon would get tangled or an eggbeater would get jammed in the kitchen.
Hồi tôi còn nhỏ, ông nói rất nhiều về những bản thiết kế tồi. Ông hay ca thán: "John này, Chỉ những người không có suy nghĩ mới làm ra những thiết kế dở như vậy" ... khi thấy máy cắt cỏ làm bị thương một đứa bé, ... hay khi dây ruy băng đánh máy rối vào nhau... ... hay là khi máy đánh trứng bị kẹt động cơ.
You know, "Design -- bad design, there's just no excuse for it. It's letting stuff happen without thinking about it. Every object should be about something, John. It should imagine a user. It should cast that user in a story starring the user and the object.
Ông bực mình nói: "Không thể nhân nhượng cho những thiết kế tồi như thế được." "Những thiết kế đó là hậu quả của việc làm mà không suy nghĩ." "Mỗi vật tạo ra đều phải là dành cho việc gì đó, John ạ." "Nó phải gắn liền với người sử dụng nó." "Nó phải là một câu chuyện mà trong đó nhân vật là người sử dụng và đồ vật."
Good design," my dad said, "is about supplying intent." That's what he said.
Bố tôi nói, "Một thiết kế chuẩn phải truyền tải được mục đích." Ông đã tâm sự như thế.
Dad helped design the control panels for the IBM 360 computer. That was a big deal; that was important. He worked for Kodak for a while; that was important. He designed chairs and desks and other office equipment for Steelcase; that was important. I knew design was important in my house because, for heaven's sake, it put food on our table, right?
Bố tôi góp một phần thiết kế mục "Control Panel" trong máy IBM 360. Một thời ông từng làm cho Kodak, cái đó đáng để kể và khá quan trọng. Ông cũng thiết kế các mẫu bàn ghế và các thiết bị văn phòng khác cho Steelcase; những việc đó đều quan trọng. Tôi biết thiết kế sản phẩm rất quan trọng với gia đình mình, vì không có nó thì chúng tôi lấy tiền đâu mà mua gạo?
And design was in everything my dad did. He had a Dixieland jazz band when we were growing up, and he would always cover Louis Armstrong tunes. And I would ask him every once in a while,
Và bố tôi dành hết tâm sức cho việc thiết kế. Hồi trước ông từng ở trong ban nhạc jazz Dixieland. Lúc nào ông cũng thích chơi những bản của Louis Armstrong. Đôi khi, tôi hỏi ông rằng:
"Dad, do you want it to sound like the record?" We had lots of old jazz records lying around the house. And he said, "No, never, John, never. The song is just a given, that's how you have to think about it. You gotta make it your own. You gotta design it. Show everyone what you intend," is what he said. "Doing that, acting by design, is what we all should be doing. It's where we all belong."
"Bố ơi, bố có muốn chơi giống như bản gốc không ạ?" Nhà chúng tôi đâu đâu cũng thấy những đĩa nhạc jazz hồi xưa. Và ông đáp ngay: "Không, không bao giờ John à." "Bản nhạc chỉ là cái được cho thôi, con phải nghĩ như thế." "Còn con chơi là theo phong cách của mình. Con phải thiết kế ra giai điệu riêng." "Hãy cho mọi người thấy con muốn thể hiện điều gì," ông đã nói như thế đấy. "Hành động bằng cách thiết kế, đó mới là điều đáng làm." "Đó là cái thuộc về chúng ta."
All of us? Designers? Oh, oh, Dad. Oh, Dad.
Chúng ta ư? Những nhà thiết kế ư? Bố ơi, bố ơi là bố.
The song is just a given. It's how you cover it that matters. Well, let's hold on to that thought for just a minute. It's kind of like this wheelchair I'm in, right? The original tune? It's a little scary.
"Bản nhạc chỉ là được cho." "Còn chơi như thế nào mới là điều quan trọng." Chúng ta tạm thời gác lại điều đó một chút. Bản nhạc đó giống như chiếc xe lăn tôi đang ngồi đây vậy. Giai điệu gốc? Nghe có vẻ hơi sợ đây.
"Ooh, what happened to that dude? He can't walk. Anybody know the story? Anybody?"
"Trời, anh ta làm sao ra thế?" "Anh ta không đi được. Có ai biết được tại sao không?" "Có ai biết không?"
I don't like to talk about this very much, but I'll tell you guys the story today. All right, exactly 36 years ago this week, that's right, I was in a poorly designed automobile that hit a poorly designed guardrail on a poorly designed road in Pennsylvania, and plummeted down a 200-foot embankment and killed two people in the car. But ever since then, the wheelchair has been a given in my life. My life, at the mercy of good design and bad design.
Tôi thường không thích kể về chuyện đó, nhưng hôm nay tôi sẽ phá lệ. Chính xác là 36 năm về trước, vào khoản tuần này... ... tôi lái một chiếc xe bị thiết kế tồi... ... rồi đâm vào một cái hành lang bảo vệ tồi... ... trên một con đường tồi ở Pennsylvania. Kết quả là lao thẳng xuống bờ đê sâu gần 61 mét. Hai người đã qua đời trong vụ tai nạn. Kể từ lúc đó, xe lăn là thứ gắn liền với cuộc sống của tôi. Cuộc đời tôi dính liền với thiết kế tốt và tồi.
Think about it. Now, in design terms, a wheelchair is a very difficult object. It mostly projects tragedy and fear and misfortune, and it projects that message, that story, so strongly that it almost blots out anything else.
Thử nghĩ theo từ chuyên ngành thiết kế... ... một chiếc xe lăn là một vật không ai muốn. Nó liên tưởng tới bi kịch, sợ hãi, và xui xẻo. Chính thông điệp đó, câu chuyện đó hiện diện mạnh mẽ đến mức... ... chẳng khiến ai có thể nghĩ đến điều gì khác.
I roll swiftly through an airport, right? And moms grab their kids out of the way and say, "Don't stare!" The poor kid, you know, has this terrified look on his face, God knows what they think. And for decades, I'm going, why does this happen? What can I do about it? How can I change this? I mean there must be something. So I would roll, I'd make no eye contact -- just kinda frown, right? Or I'd dress up really, really sharply or something. Or I'd make eye contact with everyone -- that was really creepy; that didn't work at all. (Laughter) You know anything, I'd try. I wouldn't shower for a week -- nothing worked.
Tôi đang lăn bánh tà tà trong một sân bay. Rồi một bà mẹ kéo đứa con lại nhắc nhở: "Đừng có nhìn ông ấy." Tội nghiệp thằng bé, cái vẻ sợ sệt hiện rõ trên mặt nó, Chúa biết nó nghĩ gì trong đầu. Gần mấy chục năm, tôi cứ nghĩ... ... sao lại thế nhỉ? Mình phải làm thế nào? Làm sao thay đổi được những ánh nhìn đó? Phải có cách nào chứ. Bạn nghĩ hay cứ lăn như thường, chẳng nhìn vào ai, mặt mày hầm hầm. Hay là ăn mặc cho thật ngầu vào. Hoặc là lúc nào cùng nhìn chằm chằm vào mắt người ta. Cái đó thấy ghê quá, không có tác dụng. (Cười lớn) Tôi đã thử tất cả mọi cách, kể cả không tắm trong một tuần, chắng có tác dụng.
Nothing whatsoever worked until a few years ago, my six-year-old daughters were looking at this wheelchair catalog that I had, and they said,
Điều đó cứ tiếp diễn cho đến vài năm về trước. Có một lần, hai cô con gái 6 tuổi của tôi chỉ vào tạo chí quảng cáo xe lăn và nói:
"Oh, Dad! Dad! Look, you gotta get these, these flashy wheels -- you gotta get 'em!"
"Bố, bố, nhìn nè. Bố phải mua mấy cái bánh xe phát sáng này nè. Mua đi bố!"
And I said, "Oh, girls, Dad is a very important journalist, that just wouldn't do at all."
Rồi tôi cự tuyệt: "Trời các con, bố là một nhà báo quan trọng lắm đó." "Như thế không được đâu."
And of course, they immediately concluded,
Và thế là chúng phán ngay một câu:
"Oh, what a bummer, Dad. Journalists aren't allowed to have flashy wheels. I mean, how important could you be then?" they said.
"Chán vậy bố. Nhà báo mà không được có bánh xe phát sáng." "Vậy thì bố quan trọng thế nào chứ?" Chúng nói vậy đấy.
I went, "Wait a minute, all right, right -- I'll get the wheels." Purely out of protest,
Thế là tôi miễn cưỡng gật đầu: "Thôi được rồi, được rồi. Bố sẽ mua."
I got the flashy wheels, and I installed them and -- check this out. Could I have my special light cue please? (Laughter) Look at that! Now ... look at, look at this! Look at this!
Tôi nhận được mấy cái bánh xe phát sáng, lắp chúng vào xe lăn. Mọi người xem nè. Làm ơn giảm ánh đèn lại giùm tôi một lát. (Cười lớn) Thấy không! Giờ thì thêm nữa, đấy, mọi người thấy rồi chứ.
So what you are looking at here has completely changed my life, I mean totally changed my life. Instead of blank stares and awkwardness, now it is pointing and smiling!
Những gì bạn vừa thấy... ... đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời tôi. Hoàn toàn thay đổi. Không còn những ánh nhìn e ngại và rụt rè nữa. Mà giờ là những ngón tay chỉ và nụ cười thích thú.
People going, "Awesome wheels, dude! Those are awesome! I mean, I want some of those wheels!" Little kids say, "Can I have a ride?" (Laughter)
Giờ thì người ta nói: "Bánh xe trông đẹp quá. Độc thật đấy!" Mấy đứa con nít thì reo lên: "Cháu cũng muốn có một cái." "Cho cháu đi ké được không ạ?" (Cười lớn)
And of course there's the occasional person -- usually a middle-aged male who will say, "Oh, those wheels are great! I guess they're for safety, right?" (Laughter) No! They're not for safety. No, no, no, no, no.
Và tất nhiên thỉnh thoảng cũng có trường hợp... ... thường là các anh tuổi trung niên nói: "Ô, hai chiếc bánh xe của anh được quá." "Chắc là lắp vào cho an toàn đúng không?" (Cười lớn) Trời, đâu phải an toàn gì cho cam. Không, không, không phải.
What's the difference here, the wheelchair with no lights and the wheelchair with lights? The difference is intent. That's right, that's right; I'm no longer a victim. I chose to change the situation -- I'm the Commander of the Starship Wheelchair with the phaser wheels in the front. Right? Intent changes the picture completely. I choose to enhance this rolling experience with a simple design element. Acting with intent. It conveys authorship. It suggests that someone is driving. It's reassuring; people are drawn to it. Someone making the experience their own. Covering the tragic tune with something different, something radically different. People respond to that.
Sự khác biệt mà các bạn thấy... ... giữa một chiếc xe không có đèn... ... và có lắp đèn là gì? Đó là mục đích. Đúng đúng, tôi không còn ở thế bị động nữa. Tôi chủ động thay đổi cục diện. Tôi giờ là Chỉ Huy Trưởng của Tàu Xe Lăn với hai bánh xe phát sáng phía trước. Mục đích đã làm thay đổi tất cả. Tôi chọn cách thay đổi... ...cách nhìn về chiếc xe lăn... ... chỉ bằng một thiết kế đơn giản. Hành động có mục đích. Nó thể hiện sự chủ động. Nó cho người ta biết là tôi đang điều khiển xe lăn. Khiến họ thoải mái và thu hút sự chú ý của đám đông. Người ta tạo ra cách sử dụng cho riêng mình. Thay đổi tông điệu buồn ... bằng một điều mới mẻ... ... một điều làm thay đổi mọi thứ. Người ta phản ứng tích cực.
Now it seems simple, but actually I think in our society and culture in general, we have a huge problem with intent. Now go with me here. Look at this guy. You know who this is? It's Anders Breivik. Now, if he intended to kill in Olso, Norway last year, dozens and dozens of young people -- if he intended to do that, he's a vicious criminal. We punish him. Life in prison. Death penalty in the United States, not so much in Norway. But, if he instead acted out of a delusional fantasy, if he was motivated by some random mental illness, he's in a completely different category. We may put him away for life, but we watch him clinically. It's a completely different domain. As an intentional murderer, Anders Breivik is merely evil. But as a dysfunctional, as a dysfunctional murderer/psychotic, he's something much more complicated. He's the breath of some primitive, ancient chaos. He's the random state of nature we emerged from. He's something very, very different.
Nghe thì đơn giản đấy, nhưng cá nhân tôi nghĩ... ... trong xã hội và văn hóa của chúng ta, nhìn chung... ... có sự hiểu lệch lạc về mục đích. Mọi người nhìn trên màn hình đi. Có ai biết gã này là ai không? Hắn ta tên là Anders Breivik. Nếu hắn định đánh bom... ... ở Olso, Na Uy năm ngoái... ... nhằm vào hàng chục người... Nếu hắn làm thế... ... anh ta một kẻ tội phạm nguy hiểm. Cần phải trừng phạt hắn. Tù chung thân, kết án tử hình ở Mỹ, nhưng không nặng mấy ở Na Uy. Nhưng nếu hắn ta thay vì hành động vì bị ảo tưởng điên rồ... ... bị tác động bởi một chứng bệnh thần kinh nào đó... ... anh ta đã thuộc vào diện khác rồi. Chúng ta có thể phán tù chung thân,... ... nhưng sẽ theo dõi về mặt tâm thần. Đó là một khía cạnh khác rồi. Vì là một tên sát nhân có mục đích, ... Anders Breivik là một kẻ độc ác. Nhưng xét theo diện rối loạn... ... kiểu sát nhân rối loạn tâm thần... Hắn ta thuộc về một loại người phức tạp hơn thế. Là chút gì còn sót lại... ... của thời nguyên thủy và cổ đại đầy hỗn loạn. Anh ta là sự ngẫu nhiên... ... của trạng thái tự nhiên. Hắn ta là cái gì đó thật sự rất, rất khác biệt.
It's as though intent is an essential component for humanity. It's what we're supposed to do somehow. We're supposed to act with intent. We're supposed to do things by design. Intent is a marker for civilization.
Như thể mục đính là một phần không thể thiếu của nhân loại. Đó là điều chúng ta phải làm, cách này hay cách khác. Chúng ta phải hành động có mục đích. Phải suy nghĩ trước sau rồi mới làm. Mục đích tạo nên một nền văn minh.
Now here's an example a little closer to home: My family is all about intent. You can probably tell there are two sets of twins, the result of IVF technology, in vitro fertilization technology, due to some physical limitations I won't go into. Anyway, in vitro technology, IVF, is about as intentional as agriculture. Let me tell you, some of you may have the experience. In fact, the whole technology of sperm extraction for spinal cord-injured males was invented by a veterinarian. I met the dude. He's a great guy. He carried this big leather bag full of sperm probes for all of the animals that he'd worked with, all the different animals. Probes he designed, and in fact, he was really, really proud of these probes.
Để đơn giản hóa, tôi cho một ví dụ gần gũi hơn. Mục đích luôn xoay quanh gia đình tôi. Mọi người có thể thấy nhà tôi có hai cặp sinh đôi. Chúng là kết quả của công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm. Nói ra thì dài dòng kỹ thuật lắm nên tôi chỉ tóm gọn như thế. Trên thực tế, cách thức thụ tinh trong ống nghiệm... ... hoạt động giống như thụ tinh với cây cỏ vậy. Một vài người ở đây chắc cũng có kinh nghiệm về chuyện này. Người phát minh ra công nghệ lấy tinh trùng... ... từ những người bị chấn thương tủy sống là một bác sĩ thú y. Tôi đã gặp ông ấy một lần, rất dễ mến. Ông ta lúc nào cũng mang theo người một cặp da chứa đầy những ống tinh trùng... ... của tất cả những con vật mà ông đã từng tiếp xúc. Đủ các loài động vật. Ông ấy đã tự thiết kế riêng những ống đựng tinh trùng đó. Và rất tự hào về điều ấy.
He would say, "You're right between horse and squirrel, John." (Laughter) But anyway, so when my wife and I decided to upgrade our early middle age -- we had four kids, after all -- with a little different technology that I won't explain in too much detail here -- my urologist assured me I had nothing whatsoever to worry about.
Có lần, ông ấy nhìn tôi và bảo: "Anh là sự kết hợp giữa ngựa và sóc đấy John." (Cười lớn) Quay lại chuyện chính, khi vợ chồng tôi đến ngưỡng cửa... ... của tuổi trung niên, chúng tôi đã có 4 đứa con. Sau khi giải thích bằng những từ chuyên môn... ... mà tôi không tiện giải thích ra ở đây,... ... bác sĩ khoa tiết niệu đã đảm bảo rằng tôi không phải lo lắng gì cả.
"No need for birth control, Doc, are you sure about that?"
"Không cần biện pháp tránh thai nào sao, anh có chắc không đấy bác sĩ?"
"John, John, I looked at your chart. From your sperm tests we can confidently say that you're basically a form of birth control."
"John, John này, tôi đã xem biểu đồ của anh rồi." "Từ kết quả xét nghiệm tinh trùng của anh..." "... tôi có thể khẳng định với anh rằng..." "... bản thân anh đã là một biện pháp tránh thai rồi."
Well! (Laughter) What a liberating thought! Yes! And after a couple very liberating weekends, my wife and I, utilizing some cutting-edge erectile technology that is certainly worthy of a TEDTalk someday but I won't get into it now, we noticed some familiar, if unexpected, symptoms. I wasn't exactly a form of birth control. Look at that font there. My wife was so pissed.
Thú vị đấy! (Cười lớn) Đúng là giải phóng! Quá tuyệt! Sau khi trải qua vài tuần thoải mái... ... vợ chồng tôi... ... đã tìm ra ra một phát minh dành cho người bị liệt ... mà xứng đáng được cho lên TED... Tạm thời tôi sẽ không đi vào chi tiết,... ... hai chúng tôi nhận ra những triệu chứng quen thuộc nhưng lại không hề mong đợi. Tôi thật ra cũng không hoàn toàn là biện pháp tránh thai cho lắm. Mọi người nhìn kết quả đi. Vợ tôi lúc đó tức lắm.
I mean, did a designer come up with that? No, I don't think a designer did come up with that. In fact, maybe that's the problem. And so, little Ajax was born. He's like our other children, but the experience is completely different. It's something like my accident, right? He came out of nowhere. But we all had to change, but not just react to the given; we bend to this new experience with intent. We're five now. Five. Facing the given with intent. Doing things by design. Hey, the name Ajax -- you can't get much more intentional than that, right? We're really hoping he thanks us for that later on. (Laughter)
Nghĩ thử đi, một nhà thiết kế đã nghĩ ra điều đó sao? Không, tôi không cho là vậy. Mà như thế mới chính là điều đau đầu. Thế à Ajax ra đời. Nó cũng giống như bốn đứa còn lại... ... nhưng mà cách thức đến thì lại hoàn toàn khác. Giống như tai nạn hồi trước của tôi ấy nhỉ. Bỗng dưng xuất hiện trước mắt tôi vậy. Chúng tôi buộc phải phải thay đổi... ... bên cạnh việc nhận lấy những gì được cho. Chúng tôi chuyển sự không mong đợi thành điều đáng mong đợi. Bây giờ chúng tôi có 5 đứa rồi. Năm đứa đấy. Dùng mục đích với điều được cho. Suy nghĩ trước khi hành động. Cái tên "Ajax", không còn có gì đầy mục đích hơn thế nữa đúng không? Hy vọng sau này nó sẽ biết ơn chúng tôi vì cái tên đó. (Cười lớn)
But I never became a designer. No, no, no, no. Never attempted. Never even close. I did love some great designs as I was growing up: The HP 35S calculator -- God, I loved that thing. Oh God, I wish I had one. Man, I love that thing. I could afford that. Other designs I really couldn't afford, like the 1974 911 Targa. In school, I studied nothing close to design or engineering; I studied useless things like the Classics, but there were some lessons even there -- this guy, Plato, it turns out he's a designer. He designed a state in "The Republic," a design never implemented. Listen to one of the design features of Plato's Government 4.0:
Nhưng tôi chưa bao giờ thử làm nhà thiết kế. Không, không, và không bao giờ. Nhưng tôi lại bị thu hút bởi những thiết kế hoàn hảo. Máy tính HP 35S. Trời ơi, tôi cực kì thích cái máy đó. Ước gì tôi có được một cái. Quá tuyệt vời. Cái đó tôi còn mua được. Chứ như chiếc xe Targa 911 đời 1974 thì tôi lại không có khả năng mua. Hồi còn đi học, tôi chưa hề lấy một lớp nào liên quan tới thiết kế hay xây dựng cả. Tôi lại đi học mấy thứ vô dụng như "Triết lý cổ điển" ... nhưng cũng có nhiều điều đáng chú ý. Ví dụ như Plato, một nhà triết gia đầy mục đích. Ông ta đã thiết kế ra một tư tưởng mới trong cuốn "Cộng Hòa" Có điều nó chưa bao giờ được thử nghiệm. Thử nghe một đoạn trích nhắc tới... ... phương thức quản lý nhà nước của Plato ở khúc 4.0:
"The State in which the rulers are most reluctant to govern is always the best and most quietly governed, and the State in which they are most eager, the worst."
"Một đất nước mà người đứng đầu luôn đắn đo làm sao để điều hành... "... luôn là đất nước hưng thịnh nhất, ..." "... còn một nước mà có những kẻ cơ hội là một đất nước tồi tệ nhất."
Well, got that wrong, didn't we? But look at that statement; it's all about intent. That's what I love about it. But consider what Plato is doing here. What is he doing? It's a grand idea of design -- a huge idea of design, common to all of the voices of religion and philosophy that emerged in the Classical period. What was going on then? They were trying to answer the question of what would human beings do now that they were no longer simply trying to survive? As the human race emerged from a prehistoric chaos, a confrontation with random, brutal nature, they suddenly had a moment to think -- and there was a lot to think about. All of a sudden, human existence needed an intent. Human life needed a reason. Reality itself needed a designer. The given was replaced by various aspects of intent, by various designs, by various gods. Gods we're still fighting about. Oh yeah.
Vậy thì chúng ta đã hiểu sai rồi nhỉ? Nhưng mà điều khiến tôi thích nó là vì, trong câu nói đó chứa đầy mục đích Nhưng hãy thử nghĩ xem Plato muốn gì. Ông ta làm gì? Đó là một ý tưởng to lớn bao quát về cách thiết kế. Là tiếng nói chung cho tôn giáo và triết lý... ... hình thành thời Cổ Điển. Điều gì đã xảy ra hồi đó? Họ cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi... "Con người sẽ ra sao khi họ không còn cố gắng để sinh tồn nữa?" Khi mà loài người xuất hiện ở thời tiền sử hỗn loạn,... ... lúc họ đối mặt với một tạo hóa ngẫu nhiên nhưng đầy khắc nghiệt... ... con người chợt dừng lại và suy nghĩ, và bỗng nhiên nảy nhiều điều đáng để chú ý tới. Tự nhiên, sự xuất hiện của loài người cần có một lời giải thích. Cuộc sống chúng ta cần một lý do. Bản thân thực tế cần một nhà tạo hóa. Cái được cho không còn nữa. Thay vào đó là những mục đích khác nhau. Chúng được tạo ra... ... bởi những đấng sáng lập khác nhau. Chúng ta vẫn tranh cãi về xuất hiện của những đấng tạo hóa.
Today we don't confront the chaos of nature. Today it is the chaos of humanity's impact on the Earth itself that we confront. This young discipline called design, I think, is in fact the emerging ethos formulating and then answering a very new question: What shall we do now in the face of the chaos that we have created? What shall we do? How shall we inscribe intent on all the objects we create, on all the circumstances we create, on all the places we change? The consequences of a planet with 7 billion people and counting. That's the tune we're all covering today, all of us. And we can't just imitate the past. No. That won't do. That won't do at all.
Thời nay chúng ta không phải đối mặt với sự hỗn loạn của thiên nhiên. Mà là sự hỗn loạn trong nhân cách con người, cái tác động lên Trái Đất mà chúng ta đang phải đối mặt. Cái gọi là thiết kế... ... chính là một giải pháp... ... tạo ra và trả lời một câu hỏi mới: "Chúng ta sẽ làm gì..." "... khi đối mặt với sự hỗn loạn mà chúng ta đã tạo ra?" "Làm cái gì đây?" Làm sao chúng ta gắn mục đích... ... vào trong những vật chúng ta tạo ra... ... vào trong những điều chúng ta làm... ... vào những nơi chúng ta đang thay đổi? Kết quả là một hành tinh với hơn 7 tỷ người. Đó là một điều chúng ta cần phải suy nghĩ tới, tất cả mọi người. Nhưng chúng ta không thể bắt chước lại quá khứ. Không, không có tác dụng. Chẳng mang lại gì.
Here's my favorite design moment: In the city of Kinshasa in Zaire in the 1990s, I was working for ABC News, and I was reporting on the fall of Mobutu Sese Seko, the dictator, the brutal dictator in Zaire, who raped and pillaged that country. There was rioting in the middle of Kinshasa. The place was falling apart; it was a horrible, horrible place, and I needed to go and explore the center of Kinshasa to report on the rioting and the looting. People were carrying off vehicles, carrying off pieces of buildings. Soldiers were in the streets shooting at looters and herding some in mass arrests. In the middle of this chaos, I'm rolling around in a wheelchair, and I was completely invisible. Completely. I was in a wheelchair; I didn't look like a looter. I was in a wheelchair; I didn't look like a journalist, particularly, at least from their perspective. And I didn't look like a soldier, that's for sure. I was part of this sort of background noise of the misery of Zaire, completely invisible. And all of a sudden, from around a corner, comes this young man, paralyzed, just like me, in this metal and wood and leather pedal, three-wheel tricycle-wheelchair device, and he pedals up to me as fast as he can.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe một trải nghiệm thú vị liên quan tới thiết kế. Vào những năm 90 ở thành phố Kinshasa, Zaire... Tôi lúc đó đang làm việc cho hàng tin tức ABC. Việc của tôi là tường thuật lại sự sụp đổ của Mobutu Sese Seko, một kẻ độc tài khét tiếng... ... chuyên đi cưỡng dâm và cướp bóc ở Zaire. Lúc đó ở Kinshasa bạo động xảy ra ngay trong lòng thành phố. Tất cả mọi thứ trở nên tang hoang. Cảnh tượng vô cùng đau thương, khủng khiếp. Nhưng tôi cần phải đi tường thuật lại cuộc bạo động và nạn cướp bóc... ... đang xảy ra ngay trung tâm thành phố Kinshasa. Mọi người chất xe cộ, các mảng tường đổ lên thành đống. Quân đội chĩa súng thẳng vào các tay cướp, ra tay đàn áp trong các cuộc bắt giữ diện rộng. Trong cảnh loạn lạc như thế, tôi lăn chiếc xe của mình đi xung quanh. Cảm giác hoàn toàn vô hình. Tôi ngồi trên xe lăn nên chẳng giống điệu bộ của một kẻ cướp tí náo. Lại chẳng hề giống một anh nhà báo, ít nhất là họ nghĩ như vậy. Và chắc chắn không giống cảnh sát. Trong khung cảnh loạn lạc và đổ nát ấy, tôi hoàn toàn không bị để ý tới. Tự nhiên, ngay ngã rẽ, một anh chàng bị tật giống tôi đi lại gần. Anh ta có một chiếc xe ba bánh... với bàn đạp bằng kim loại, gỗ, và da. Anh ta đạp hết sức tới chỗ tôi, cất tiếng gọi.
He goes, "Hey, mister! Mister!"
"Này anh ơi! Anh gì ơi!"
And I looked at him -- he didn't know any other English than that, but we didn't need English, no, no, no, no, no. We sat there and compared wheels and tires and spokes and tubes. And I looked at his whacky pedal mechanism; he was full of pride over his design. I wish I could show you that contraption. His smile, our glow as we talked a universal language of design, invisible to the chaos around us. His machine: homemade, bolted, rusty, comical. My machine: American-made, confident, sleek. He was particularly proud of the comfortable seat, really comfortable seat he had made in his chariot and its beautiful fabric fringe around the edge. Oh, I wish I'd had those sparkly wheels back then to have shown him, man! He would have loved those! Oh yeah. He would have understood those; a chariot of pure intent -- think about it -- in a city out of control. Design blew it all away for a moment. We spoke for a few minutes and then each of us vanished back into the chaos. He went back to the streets of Kinshasa; I went to my hotel. And I think of him now, now ...
Tôi quay lại nhìn anh ta. Người đó không biết nói tiếng Anh, nhưng vậy chẳng làm hai chúng tôi xa cách. Bọn tôi ngồi ngay góc đường, so sánh bánh lăn, tay lái, xăm xe rồi cả sườn xe. Tôi đưa mắt nhìn cái chiếc xe kì cục ấy... ... nhưng anh ta lại vô cùng tự hào với sản phẩm của mình. Tôi ước gì mình có thể cho các bạn xem khoảnh khắc đó. Anh ấy cười rạng rỡ, và hai chúng trò chuyện vô cùng vui vẻ... ... bằng một thứ tiếng chung... ... của sự sáng tạo... Khung cảnh tan hoang lúc đó dường như vô hình với chúng tôi. Chiếc xe của anh là tự lắp ráp, thô sơ, cũ kĩ, lại kì dị. Của tôi thì sản xuất tại Mỹ, chắc chắn, bóng bẩy. Nhưng anh lại rất tự hào khi ngồi trên một chiếc ghế vô cùng êm ái. Anh đã tự tạo một cỗ xe ... với nhiều tua vải đẹp được gắn ở bên sườn Giá mà lúc đó tôi có thể cho anh xem mấy cái bánh xe phát sáng này. Hẳn anh ấy sẽ rất thích. Tôi tin là vậy. Anh ta có lẽ đã nhận ra được... ... ý nghĩa của một cách mạng đầy mục đích. Trong một thành phố mất kiểm soát... ... một thiết kế tuyệt vời trở nên thật nổi bật. Chúng tôi trao đổi vài câu rồi sau đó mỗi người lại biến mất sau cảnh hoang tàn. Anh ta quay lại với những nẻo đường ở Kinshasa. Còn tôi thì về lại khách sạn. Khi nghĩ lại về cuộc gặp gỡ ấy...
And I pose this question. An object imbued with intent -- it has power, it's treasure, we're drawn to it. An object devoid of intent -- it's random, it's imitative, it repels us. It's like a piece of junk mail to be thrown away. This is what we must demand of our lives, of our objects, of our things, of our circumstances: living with intent. And I have to say that on that score, I have a very unfair advantage over all of you.
... tôi đã chợt tự hỏi. Một vật thể đầy tính mục đích... ... có khả năng... ... tạo ra một lực hấp dẫn thu hút chúng ta. Còn một vật không có tính mục đính... ... thì chỉ là được làm cẩu thả và giả tạo. Giống như thư rác chỉ khiến chúng ta bực mình và quẳng đi ngay. Cái mà chúng ta cần cho cuộc sống... ... cho những đồ vật, sự kiện xảy ra xung quanh... ... chính là sống có mục đích. Và tôi cần phải thú nhận rằng... ... trên lĩnh vực này tôi có được lợi thế hơn mọi người rất nhiều.
And I want to explain it to you now because this is a very special day. Thirty-six years ago at nearly this moment, a 19-year-old boy awoke from a coma to ask a nurse a question, but the nurse was already there with an answer.
Tôi muốn giải thích cho rõ bởi vì hôm nay là một ngày vô cùng đặc biệt. Vào lúc này tại 36 năm về trước... ... một anh chàng 19 tuổi tỉnh dậy sau cơn mê... ... để hỏi cô y tá một câu hỏi. Nhưng cô y tá đã vội vàng trả lời rằng:
"You've had a terrible accident, young man. You've broken your back. You'll never walk again."
"Cậu đã gặp phải một tai nạn rất nghiêm trọng. Hậu quả là cậu bị gãy lưng." "Cậu sẽ không thể đi được nữa."
I said, "I know all that -- what day is it?" You see, I knew that the car had gone over the guardrail on the 28th of February, and I knew that 1976 was a leap year.
Tôi lại nói: "Tôi biết rồi. Nhưng mà hôm nay là ngày thứ mấy?" Tôi biết tại nạn hôm đó là ngày 28 tháng 2. Và năm 1976 là năm nhuận.
"Nurse! Is this the 28th or the 29th?"
"Này cô, hôm nay là ngày 28 hay 29?"
And she looked at me and said, "It's March 1st."
Và cô ấy nhìn tôi chăm chăm và trả lời: "Là mồng một tháng 3."
And I went, "Oh my God. I've got some catching up to do!" And from that moment, I knew the given was that accident; I had no option but to make up this new life without walking. Intent -- a life with intent -- lived by design, covering the original with something better. It's something for all of us to do or find a way to do in these times.
Thế là tôi thốt lên: "Trời đất ơi!" "Tôi có nhiều việc cần phải làm lắm đây." Từ lúc đó, tôi biết... ... tai nạn năm ấy chỉ là cái được cho. Tôi không có lựa chọn nào khác... ... ngoài việc thích nghi với việc không thể đi lại được. Mục đích - sống có mục đích. Sống có kế hoạch. Từ cái cũ... ... tạo ra một điều hoàn toàn mới. Là điều mà chúng ta cần làm, hoặc cần tìm cho mình một hướng đi.
To get back to this, to get back to design, and as my daddy suggested a long time ago,
Quay trở lại vấn đề chính. Với thiết kế... ... mà như bố tôi đã từng nói...
"Make the song your own, John. Show everybody what you intend."
"Hãy dạo khúc nhạc của riêng mình, John à" "Hãy cho mọi người thấy điều con muốn họ thấy."
Daddy, this one's for you. (Music)
Thưa bố... ... bài hát này là dành cho bố. (Tiếng nhạc)
♫ Jo Jo was a man who thought he was a loner ♫ ♫ but he was another man. ♫ ♫ Jo Jo left his home in Tucson, Arizona to attend a California bash. ♫ ♫ Get back, get back, ♫ ♫ get back to where you once belonged. ♫ ♫ Get back, get back, ♫ ♫ get back to where you once belonged. ♫ (Applause)
♫ Jo Jo từng nghĩ mình là một gã cô đơn ♫ ♫ Nhưng không phải vậy ♫ ♫ Jo Jo rời thành phố quê hương Tucson, Arizona để thử thách mình ở California♫ ♫ Quay về đi, hãy về đi ♫ ♫ Về lại nơi anh đã từng lớn lên ♫ ♫ Quay về đi, hãy về đi ♫ ♫ Về lại nơi anh đã từng lớn lên ♫ (Vỗ tay)