A few years ago, with my colleague, Emmanuelle Charpentier, I invented a new technology for editing genomes. It's called CRISPR-Cas9. The CRISPR technology allows scientists to make changes to the DNA in cells that could allow us to cure genetic disease.
Một vài năm trước, cùng với một đồng nghiệp, Emmanuelle Charpentier, tôi đã phát minh ra một loại công nghệ mới để chỉnh sửa gene. Nó được gọi là CRISPR-Cas9. Công nghệ CRISPR cho phép các nhà khoa học tạo ra những thay đổi trong DNA của tế bào từ đó cho phép chúng ta chữa được các bệnh về gene.
You might be interested to know that the CRISPR technology came about through a basic research project that was aimed at discovering how bacteria fight viral infections. Bacteria have to deal with viruses in their environment, and we can think about a viral infection like a ticking time bomb -- a bacterium has only a few minutes to defuse the bomb before it gets destroyed. So, many bacteria have in their cells an adaptive immune system called CRISPR, that allows them to detect viral DNA and destroy it.
Các bạn cũng có thể muốn biết rằng công nghệ CRISPS ra đời từ một chương trình nghiên cứu cơ bản với mục đích tìm ra cách thức vi khuẩn tấn công sự lây nhiễm của virus. Vi khuẩn phải đối phó với virus trong môi trường của chúng, và chúng ta có thể hình dung sự lây nhiễm virus như một quả bom hẹn giờ -- một con vi khuẩn chỉ có vài phút để tháo kíp quả bom trước khi nó bị tiêu diệt. Thế nên, tế bào của nhiều vi khuẩn có hệ thống thích nghi miễn nhiễm gọi là CRISPR, cho phép chúng phát hiện DNA của virus và tiêu diệt chúng.
Part of the CRISPR system is a protein called Cas9, that's able to seek out, cut and eventually degrade viral DNA in a specific way. And it was through our research to understand the activity of this protein, Cas9, that we realized that we could harness its function as a genetic engineering technology -- a way for scientists to delete or insert specific bits of DNA into cells with incredible precision -- that would offer opportunities to do things that really haven't been possible in the past.
Một phần của hệ thống CRISPR là một loại protein được gọi là Cas9, có khả năng tìm kiếm, cắt bỏ và cuối cùng làm rã DNA của virus theo một cách đặc biệt. Và qua quá trình nghiên cứu để hiểu được hoạt động của loại protein Cas9 này, chúng tôi nhận ra rằng có thể khai thác chức năng của nó như là một công nghệ kỹ thuật gen -- một cách để các nhà khoa học bỏ hay chèn những 'bit' đặc biệt của DNA vào tế bào với một độ chính xác khó tin -- điều đó có thể đem đến cơ hội để thực hiện những điều hoàn toàn không thể trong quá khứ.
The CRISPR technology has already been used to change the DNA in the cells of mice and monkeys, other organisms as well. Chinese scientists showed recently that they could even use the CRISPR technology to change genes in human embryos. And scientists in Philadelphia showed they could use CRISPR to remove the DNA of an integrated HIV virus from infected human cells.
Công nghệ CRISPR đã được dùng để thay đổi DNA trong tế bào của chuột, khỉ, và những sinh vật khác nữa. Các nhà khoa học Trung Quốc gần đây chỉ ra rằng họ thậm chí có thể dùng CRISPR để thay đổi gen trong phôi người. Các nhà khoa học ở Philadenphia chỉ ra họ có thể dùng CRISPR để loại bỏ DNA của virus HIV tích hợp từ tế bào bị nhiễm của con người.
The opportunity to do this kind of genome editing also raises various ethical issues that we have to consider, because this technology can be employed not only in adult cells, but also in the embryos of organisms, including our own species. And so, together with my colleagues, I've called for a global conversation about the technology that I co-invented, so that we can consider all of the ethical and societal implications of a technology like this.
Cơ hội để thực hiện kiểu chỉnh sửa gene này cũng dấy lên nhiều vấn đề về đạo đức mà chúng ta cần phải xem xét, bởi vì công nghệ này có thể được ứng dụng không chỉ trên tế bào người trưởng thành, mà còn trên các phôi thai sinh vật, trong đó có chúng ta. Thế nên, cùng với các đồng nghiệp, tôi kêu gọi một cuộc đối thoại toàn cầu về công nghệ mà tôi đã đồng phát minh, nhờ đó chúng ta có thể cân nhắc tất cả những tác động về đạo đức và xã hội của một công nghệ như thế này.
What I want to do now is tell you what the CRISPR technology is, what it can do, where we are today and why I think we need to take a prudent path forward in the way that we employ this technology.
Điều tôi muốn làm ở đây là trình bày cho các bạn biết công nghệ CRISPR là gì, điều nó có thể làm, vị trí của chúng ta ngày nay, và tại sao tôi nghĩ chúng ta cần bước đi thận trọng trong việc ứng dụng công nghệ này.
When viruses infect a cell, they inject their DNA. And in a bacterium, the CRISPR system allows that DNA to be plucked out of the virus, and inserted in little bits into the chromosome -- the DNA of the bacterium. And these integrated bits of viral DNA get inserted at a site called CRISPR. CRISPR stands for clustered regularly interspaced short palindromic repeats. (Laughter)
Khi virus lây nhiễm tế bào, chúng tiêm DNA của chúng vào. Và trong một con vi khuẩn, hệ thống CRISPR làm DNA đó bị loại ra khỏi virus và chèn một số bit vào nhiễm sắc thế -- DNA của vi khuẩn. Và những bit tích hợp DNA của virus được chèn vào vị trí gọi là CRISPR. CRISPR viết tắt từ "Cluster Regularly Interspaced Short Palindromic Repeats" ( Nhóm thường xuyên bị rời ra bởi sự lặp lại xuôi-ngược ngắn)(Cười)
A big mouthful -- you can see why we use the acronym CRISPR. It's a mechanism that allows cells to record, over time, the viruses they have been exposed to. And importantly, those bits of DNA are passed on to the cells' progeny, so cells are protected from viruses not only in one generation, but over many generations of cells. This allows the cells to keep a record of infection, and as my colleague, Blake Wiedenheft, likes to say, the CRISPR locus is effectively a genetic vaccination card in cells. Once those bits of DNA have been inserted into the bacterial chromosome, the cell then makes a little copy of a molecule called RNA, which is orange in this picture, that is an exact replicate of the viral DNA. RNA is a chemical cousin of DNA, and it allows interaction with DNA molecules that have a matching sequence.
Thật líu lưỡi -- đó là tại sao chúng tôi sử dụng từ viết tắt CRISPR. Nó là một cơ chế cho phép các tế bào ghi chép, qua thời gian các virus nó đã gặp phải. Và quan trọng là, những bit DNA được truyền cho các tế bào con cháu, thế nên các tế bào được bảo vệ khỏi virus không chỉ trong một thế hệ, mà còn trong nhiều thế hệ tế bào. Điều này cho phép các tế bào giữ các bản ghi chép về việc lây nhiễm, và như đồng nghiệp của tôi, Blake Wiedenheft, thích nói kiểu, điểm CRISPR là một tấm thẻ gene vắc-xin hiệu quả trong các tế bào. Ngay khi những bit DNA đó được chèn vào nhiễm sắc thể vi khuẩn, tế bào liền tạo ra một bản sao chép nhỏ của một phân tử gọi là RNA, là phần màu cam trong hình, đó là một bản sao chép chính xác DNA của virus. RNA là anh em họ hàng của DNA, và nó cho phép sự tương tác với các phân tử DNA có một trình tự phù hợp.
So those little bits of RNA from the CRISPR locus associate -- they bind -- to protein called Cas9, which is white in the picture, and form a complex that functions like a sentinel in the cell. It searches through all of the DNA in the cell, to find sites that match the sequences in the bound RNAs. And when those sites are found -- as you can see here, the blue molecule is DNA -- this complex associates with that DNA and allows the Cas9 cleaver to cut up the viral DNA. It makes a very precise break. So we can think of the Cas9 RNA sentinel complex like a pair of scissors that can cut DNA -- it makes a double-stranded break in the DNA helix. And importantly, this complex is programmable, so it can be programmed to recognize particular DNA sequences, and make a break in the DNA at that site.
Thế nên một số ít bit của RNA từ điểm CRISPR liên kết -- chúng nối -- với protein tên là Cas9, là phần màu trắng trong hình, và hình thành một phức hợp có chức năng như một lính canh trong tế bào. Nó dò tìm toàn bộ DNA trong tế bào, để tìm ra vị trí trùng hợp với chuỗi RNA mà nó liên kết. Và khi tìm thấy những vị trí đó -- như các bạn thấy ở đây, phân tử màu xanh là DNA -- phức hợp kia liên kết với DNA đó và cho phép Cas9 cắt đứt DNA virus. Nó bẻ rất chính xác. Thế nên chúng ta có thể hình dung phức hợp canh gác Cas9 RNA như một cây kéo có thể cắt đứt DNA -- nó tạo ra một đoạn gãy hai đầu trong chuỗi xoắn DNA. Và quan trọng là, phức hợp này có khả năng lập trình, nên nó có thể được lập trình để phát hiện ra những chuỗi DNA đặc biệt, và bẻ gãy DNA tại điểm đó.
As I'm going to tell you now, we recognized that that activity could be harnessed for genome engineering, to allow cells to make a very precise change to the DNA at the site where this break was introduced. That's sort of analogous to the way that we use a word-processing program to fix a typo in a document.
Như tôi sẽ nói lúc này, chúng ta nhận ra rằng hoạt động này có thể được khai thác cho ngành kỹ thuật gene, cho phép tế bào tạo nên một thay đổi chuẩn xác trên DNA tại vị trí bẻ gãy đã được xác định. Tương tự như cách chúng ta sử dụng chương trình soạn thảo văn bản để sửa lỗi đánh máy trên văn bản.
The reason we envisioned using the CRISPR system for genome engineering is because cells have the ability to detect broken DNA and repair it. So when a plant or an animal cell detects a double-stranded break in its DNA, it can fix that break, either by pasting together the ends of the broken DNA with a little, tiny change in the sequence of that position, or it can repair the break by integrating a new piece of DNA at the site of the cut. So if we have a way to introduce double-stranded breaks into DNA at precise places, we can trigger cells to repair those breaks, by either the disruption or incorporation of new genetic information. So if we were able to program the CRISPR technology to make a break in DNA at the position at or near a mutation causing cystic fibrosis, for example, we could trigger cells to repair that mutation.
Lý do chúng tôi nghĩ đến việc sử dụng hệ thống CRISPR cho ngành kỹ thuật gene là vì các tế bào có khả năng phát hiện DNA bị vỡ và sửa chữa chúng. Nên khi một tế bào lá cây hay động vật phát hiện ra đoạn gãy hai đầu trong DNA, chúng có thể sửa lại đoạn gãy đó, bằng cách dán hai đầu DNA đó lại với nhau bằng một vài thay đổi nhỏ trong chuỗi tại vị trí đó, hoặc nó có thể sửa đoạn gãy bằng cách tích hợp một đoạn DNA mới tại vị trí bị cắt. Thế nên nếu chúng ta có cách để chỉ ra những đoạn gãy hai đầu cho DNA tại những vị trí chính xác, chúng ta có thể kích hoạt tế bào sửa chữa các đoạn gãy đó, bằng sự phá vỡ hoặc hợp nhất thông tin di truyền mới. Do đó nếu chúng ta có khả năng lập trình công nghệ CRISPR để tạo ra một đoạn gãy trong DNA tại vị trí đúng hay gần đoạn đột biến, ví dụ gây nên bệnh xơ nang, chúng ta có thể kích hoạt các tế bào sửa lại phần đột biến đó.
Genome engineering is actually not new, it's been in development since the 1970s. We've had technologies for sequencing DNA, for copying DNA, and even for manipulating DNA. And these technologies were very promising, but the problem was that they were either inefficient, or they were difficult enough to use that most scientists had not adopted them for use in their own laboratories, or certainly for many clinical applications. So, the opportunity to take a technology like CRISPR and utilize it has appeal, because of its relative simplicity. We can think of older genome engineering technologies as similar to having to rewire your computer each time you want to run a new piece of software, whereas the CRISPR technology is like software for the genome, we can program it easily, using these little bits of RNA.
Kỹ thuật gene thật ra không phải là mới, nó đã được phát triển từ những năm 1970s. Chúng ta đã có các công nghệ giải mã DNA, sao chép DNA, hay thậm chí thao tác trên DNA. Và những kỹ thuật này rất hứa hẹn, thế nhưng vấn đề ở đây là chúng hoặc là không hiệu quả, hoặc là quá khó để sử dụng nên đa số các nhà khoa học không ứng dụng chúng trong phòng thí nghiệm của riêng họ, hay dĩ nhiên là cho nhiều ứng dụng y khoa. Thế nên, cơ hội để đưa một loại công nghệ như CRISPR vào sử dụng là rất hấp dẫn, bởi vì nó khá đơn giản. Chúng ta có thể nghĩ đến những công nghệ kỹ thuật gene cũ hơn giống như việc phải nối dây máy tính của bạn lại mỗi khi bạn muốn chạy một phần mới của phần mềm, trong khi CRISPR giống như một phần mềm cho gene, chúng ta có thể lập trình nó dễ dàng, bằng cách dùng một vài bit của RNA.
So once a double-stranded break is made in DNA, we can induce repair, and thereby potentially achieve astounding things, like being able to correct mutations that cause sickle cell anemia or cause Huntington's Disease. I actually think that the first applications of the CRISPR technology are going to happen in the blood, where it's relatively easier to deliver this tool into cells, compared to solid tissues.
Thế nên một khi đoạn gãy hai đầu được tạo ra trong DNA, chúng ta có thể kích hoạt sửa chữa, và bằng cách đó có tiềm năng thực hiện được những thứ đáng kinh ngạc, như việc hiệu chỉnh các đột biến gây nên bệnh thiếu hồng cầu hình liềm hay bệnh Huntington. Tôi thật sự nghĩ rằng những ứng dụng đầu tiên của công nghệ CRISPR sẽ áp dụng cho máu, nơi việc đưa công cụ này vào tế bào khá dễ dàng, so với các mô cứng.
Right now, a lot of the work that's going on applies to animal models of human disease, such as mice. The technology is being used to make very precise changes that allow us to study the way that these changes in the cell's DNA affect either a tissue or, in this case, an entire organism.
Ngay lúc này, có rất nhiều dự án đang tiến hành ứng dụng trên các mẫu động vật mang bệnh của người, như chuột. Công nghệ này đang được sử dụng để tạo ra những thay đổi chính xác cho phép chúng ta nghiên cứu cách thức mà những thay đổi này trong DNA của tế bào tác động lên mô, hoặc trong trường hợp này, lên toàn bộ cơ quan.
Now in this example, the CRISPR technology was used to disrupt a gene by making a tiny change in the DNA in a gene that is responsible for the black coat color of these mice. Imagine that these white mice differ from their pigmented litter-mates by just a tiny change at one gene in the entire genome, and they're otherwise completely normal. And when we sequence the DNA from these animals, we find that the change in the DNA has occurred at exactly the place where we induced it, using the CRISPR technology.
Bây giờ, trong ví dụ này, công nghệ CRISPR đã được dùng để phá vỡ một gene bằng cách gây ra một sự thay đổi nhỏ trong DNA, trong gene chi phối màu lông đen của những chú chuột. Tưởng tượng rằng những chú chuột trắng khác với đám bạn mới đẻ khác màu của chúng chỉ một chút thay đổi ở một gene trong toàn bộ hệ gene, và ngoài ra thì chúng y như bình thường. Và khi chúng tôi giải mã DNA từ những con vật này, chúng tôi phát hiện ra sự thay đổi trong DNA diễn ra ngay chính xác tại vị trí mà chúng tôi đã tạo ra, bằng cách sử dụng công nghệ CRISPR.
Additional experiments are going on in other animals that are useful for creating models for human disease, such as monkeys. And here we find that we can use these systems to test the application of this technology in particular tissues, for example, figuring out how to deliver the CRISPR tool into cells. We also want to understand better how to control the way that DNA is repaired after it's cut, and also to figure out how to control and limit any kind of off-target, or unintended effects of using the technology.
Các thí nghiệm bổ sung đang được thử ở các loài vật khác có ích trong việc tạo ra mẫu vật cho bệnh ở người, như khỉ. Và ở đây, chúng tôi thấy rằng, chúng tôi có thể sử dụng hệ thống này để kiểm chứng việc ứng dụng công nghệ này trên những mô đặc biệt, ví dụ như, tìm ra cách thức đưa CRISPR vào tế bào. Chúng tôi cũng muốn biết rõ hơn cách làm thế nào để điều khiển việc sửa chữa DNA sau khi bị cắt, và cũng để tìm ra cách điều khiển và giới hạn bất kỳ kiểu trật mục tiêu nào, hay những tác dụng ngoài ý muốn trong việc sử dụng công nghệ này.
I think that we will see clinical application of this technology, certainly in adults, within the next 10 years. I think that it's likely that we will see clinical trials and possibly even approved therapies within that time, which is a very exciting thing to think about. And because of the excitement around this technology, there's a lot of interest in start-up companies that have been founded to commercialize the CRISPR technology, and lots of venture capitalists that have been investing in these companies.
Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ thấy được ứng dụng y khoa của công nghệ này, dĩ nhiên là ở người lớn, trong vòng 10 năm tới. Tôi nghĩ, rất có thể chúng ta sẽ có các thử nghiệm y khoa lâm sàng và thậm chí các phương pháp điều trị được phê chuẩn trong thời gian đó, đó là điều thật sự rất phấn khích khi nghĩ đến. Và bởi vì sự phấn khích xoay quanh công nghệ này, hiện có nhiều sự quan tâm từ các công ty start-up được thành lập để thương mại hóa công nghệ CRISPR, và nhiều nhà đầu tư mạo hiểm đang đầu tư vào những công ty này.
But we have to also consider that the CRISPR technology can be used for things like enhancement. Imagine that we could try to engineer humans that have enhanced properties, such as stronger bones, or less susceptibility to cardiovascular disease or even to have properties that we would consider maybe to be desirable, like a different eye color or to be taller, things like that. "Designer humans," if you will. Right now, the genetic information to understand what types of genes would give rise to these traits is mostly not known. But it's important to know that the CRISPR technology gives us a tool to make such changes, once that knowledge becomes available.
Nhưng chúng ta cũng phải xem xét đến việc CRISPR có thể được dùng vào những thứ như 'sự nâng cấp'. Tưởng tượng rằng chúng ta có thể thử thiết kế con người có những đặc tính nâng cao, như xương khỏe hơn, hay ít bị ảnh hưởng bởi các bệnh về tim mạch hay thậm chí có những đặc tính mà chúng ta có thể khát khao, như có màu mắt khác, hay cao hơn, đại loại như thế. "con-người-tái-thiết-kế", nếu bạn muốn. Hiện nay, thông tin về gene để biết được những loại gene nào có thể nắm giữ những đặc tính này hầu như chưa được biết đến. Thế nhưng điều cần biết là công nghệ CRISPR cho chúng ta một công cụ để tiến hành những thay đổi đó, một khi những kiến thức đó đã sẵn sàng.
This raises a number of ethical questions that we have to carefully consider, and this is why I and my colleagues have called for a global pause in any clinical application of the CRISPR technology in human embryos, to give us time to really consider all of the various implications of doing so. And actually, there is an important precedent for such a pause from the 1970s, when scientists got together to call for a moratorium on the use of molecular cloning, until the safety of that technology could be tested carefully and validated.
Điều này dấy lên một số nghi vấn đạo đức mà chúng ta cần thận trọng xem xét, và vì vậy tôi và các đồng nghiệp kêu gọi một sự tạm ngưng toàn cầu các ứng dụng CRISPR trong y khoa lên phôi thai con người, để chúng ta có thời gian thật sự xem xét đến tất cả những tác động tiềm ẩn của việc làm đó. Và thật ra, có một tiền lệ quan trọng cho việc tạm ngưng này, từ những năm 1970, khi các nhà khoa học tập trung lại để kêu gọi việc tạm ngừng sử dụng nhân bản phân tử, đến khi có thể cẩn thận kiểm tra và phê chuẩn độ an toàn của công nghệ này
So, genome-engineered humans are not with us yet, but this is no longer science fiction. Genome-engineered animals and plants are happening right now. And this puts in front of all of us a huge responsibility, to consider carefully both the unintended consequences as well as the intended impacts of a scientific breakthrough.
Thế nên, những người-được-thiết-kế-gene vẫn chưa tồn tại giữa chúng ta, nhưng đây không còn là khoa học viễn tưởng nữa. Những loài động-thực-vật-thiết-kế-gene hiện đã được tạo ra. Và một trách nhiệm to lớn được đặt ra trước mắt chúng ta, để cân nhắc cẩn thận cả những hậu quả vô ý cũng như những ảnh hưởng chủ ý của một bước đột phá khoa học.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
(Applause ends)
(Vỗ tay chấm dứt)
Bruno Giussani: Jennifer, this is a technology with huge consequences, as you pointed out. Your attitude about asking for a pause or a moratorium or a quarantine is incredibly responsible. There are, of course, the therapeutic results of this, but then there are the un-therapeutic ones and they seem to be the ones gaining traction, particularly in the media. This is one of the latest issues of The Economist -- "Editing humanity." It's all about genetic enhancement, it's not about therapeutics. What kind of reactions did you get back in March from your colleagues in the science world, when you asked or suggested that we should actually pause this for a moment and think about it?
Bruno Giussani: Jennifer, đây là một công nghệ có tầm ảnh hưởng rất lớn, như cô đã chỉ ra. Thái độ của cô với việc kêu gọi sự tạm ngưng hay trì hoãn hay cách ly xem xét là cực kỳ có trách nhiệm. Tất nhiên, công nghệ này mang đến kết quả điều trị, nhưng cũng có những thứ 'ngoài điều trị' nữa và chúng dường như là thứ tạo nên sức kéo, nhất là với truyền thông. Một trong những vấn đề mới nhất trên tờ The Economist -- "Chỉnh sửa loài người" Tất cả là về việc nâng cấp gene, không phải về hoạt động chữa trị. Khi trở lại vào tháng 3, cô được phản hồi thế nào từ các đồng nghiệp trong giới khoa học, khi cô kêu gọi hay đề nghị rằng chúng ta nên thật sự tạm dừng việc này lại.
Jennifer Doudna: My colleagues were actually, I think, delighted to have the opportunity to discuss this openly. It's interesting that as I talk to people, my scientific colleagues as well as others, there's a wide variety of viewpoints about this. So clearly it's a topic that needs careful consideration and discussion.
Jennifer Doudna: Tôi nghĩ, đồng nghiệp của tôi thật sự vui mừng khi có cơ hội để thảo luận công khai vấn đề này. Điều thú vị là khi tôi nói chuyện với mọi người, những nhà khoa học cũng như những người khác, có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vậy nên rõ ràng đây là một chủ đề cần xem xét và thảo luận cẩn thận.
BG: There's a big meeting happening in December that you and your colleagues are calling, together with the National Academy of Sciences and others, what do you hope will come out of the meeting, practically?
BG: Có một cuộc họp lớn sẽ diễn ra vào tháng 12 mà cô và các đồng nghiệp đang thu hút, cùng với Viện Hàn Lâm Khoa Học và những người khác, cô hy vọng điều gì sẽ đạt được từ cuộc họp đó, một cách thiết thực?
JD: Well, I hope that we can air the views of many different individuals and stakeholders who want to think about how to use this technology responsibly. It may not be possible to come up with a consensus point of view, but I think we should at least understand what all the issues are as we go forward.
JD: Tôi mong chúng ta có thể phát sóng quan điểm của rất nhiều cá nhân và những bên liên quan khác nhau, những người muốn suy nghĩ về cách sử dụng công nghệ này một cách có trách nhiệm. Cũng có thể nó sẽ không đạt được một quan điểm nhất trí nào, nhưng tôi nghĩ chúng ta chí ít nên hiểu mọi vấn đề ở đây là gì khi ta đi xa hơn.
BG: Now, colleagues of yours, like George Church, for example, at Harvard, they say, "Yeah, ethical issues basically are just a question of safety. We test and test and test again, in animals and in labs, and then once we feel it's safe enough, we move on to humans." So that's kind of the other school of thought, that we should actually use this opportunity and really go for it. Is there a possible split happening in the science community about this? I mean, are we going to see some people holding back because they have ethical concerns, and some others just going forward because some countries under-regulate or don't regulate at all?
BG: Hiện giờ, các đồng nghiệp như George Church, ví dụ, tại Harvard, họ nói , "Ya, vấn đề về đạo đức cơ bản chỉ là nghi vấn về sự an toàn. Cứ kiểm tra liên tục ở động vật, trong phòng thí nghiệm, và khi chúng ta cảm thấy nó đủ an toàn, chúng ta sẽ tiến hành nó trên người," Vậy, đó là một trường phái tư tưởng khác, rằng chúng ta nên thật sự nắm bắt cơ hội này và tiến hành nó. Liệu có thể có một sự chia tách diễn ra trong giới khoa học về vấn đề này? Ý tôi là chúng ta sẽ thấy một số người phản đối vì họ có những băn khoăn về đạo đức, và một số khác thì cứ vậy bước tiếp bởi vì một số nước thiếu kiểm soát hay chẳng kiểm soát gì chuyện đó.
JD: Well, I think with any new technology, especially something like this, there are going to be a variety of viewpoints, and I think that's perfectly understandable. I think that in the end, this technology will be used for human genome engineering, but I think to do that without careful consideration and discussion of the risks and potential complications would not be responsible.
JD: Tôi nghĩ, bất kỳ công nghệ mới nào, đặc biệt là với thứ như thế này, sẽ có một loạt các quan điểm khác nhau, và tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn có thể hiểu được. Tôi nghĩ rằng cuối cùng, công nghệ này sẽ được sử dụng cho hoạt động kỹ thuật gene con người, nhưng tôi nghĩ hành động mà không hề có sự xem xét và thảo luận cẩn thận về những mối nguy hại và biến chứng tiềm tàng. sẽ là một việc vô trách nhiệm.
BG: There are a lot of technologies and other fields of science that are developing exponentially, pretty much like yours. I'm thinking about artificial intelligence, autonomous robots and so on. No one seems -- aside from autonomous warfare robots -- nobody seems to have launched a similar discussion in those fields, in calling for a moratorium. Do you think that your discussion may serve as a blueprint for other fields?
BG: Có rất nhiều công nghệ và nhiều lĩnh vực khoa học khác đang được phát triển theo cấp số nhân, rất giống công nghệ của cô. Tôi đang nghĩ đến trí tuệ nhân tạo, robot tự động, vân vân. Dường như chẳng ai -- ngoại trừ robot tự động chiến đấu -- dường như chẳng ai phát động đối thoại giống thế này về những lĩnh vực đó, kêu gọi về một sự tạm ngưng. Cô có nghĩ cuộc đối thoại này có thể trở nên bản kế hoạch cho các lĩnh vực khác?
JD: Well, I think it's hard for scientists to get out of the laboratory. Speaking for myself, it's a little bit uncomfortable to do that. But I do think that being involved in the genesis of this really puts me and my colleagues in a position of responsibility. And I would say that I certainly hope that other technologies will be considered in the same way, just as we would want to consider something that could have implications in other fields besides biology.
JD: Tôi nghĩ rất khó để các nhà khoa học rời khỏi phòng thí nghiệm. Nói về bản thân tôi, có một chút không thoải mái khi làm điều đó. Nhưng tôi thật sự nghĩ rằng việc tham gia vào sự hình thành điều này, thật sự đặt tôi và các đồng nghiệp vào một ví trí cần gánh vác trách nhiệm. Và tôi sẽ nói rằng tôi tất nhiên hy vọng rằng các công nghệ khác cũng sẽ được xem xét như vậy, cũng như chúng ta sẽ muốn xem xét đến thứ gì có thể có tác động tiềm ẩn trong các lĩnh vực khác ngoài sinh học.
BG: Jennifer, thanks for coming to TED.
BG: Jennifer, cảm ơn cô đã đến với TED.
JD: Thank you.
JD: Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)