Our face is hugely important because it's the external, visual part that everybody else sees. Let's not forget it's a functional entity. We have strong skull bones that protect the most important organ in our body: the brain. It's where our senses are located, our special senses -- our vision, our speech, our hearing, our smell, our taste. And this bone is peppered, as you can see, with the light shining through the skull with cavities, the sinuses, which warm and moisten the air we breathe. But also imagine if they were filled with solid bone -- our head would be dead weight, we wouldn't be able to hold it erect, we wouldn't be able to look at the world around us. This woman is slowly dying because the benign tumors in her facial bones have completely obliterated her mouth and her nose so she can't breathe and eat.
Khuôn mặt của chúng ta đặc biệt quan trọng vì đó là vẻ ngoài của chúng ta mà ai cũng có thể nhìn thấy được. Nhưng chúng ta cũng đừng nên quên một điều rằng nó có chức năng khác. Chúng ta có một bộ sọ cứng bảo vệ cơ quan quan trọng nhất trong mỗi cơ thể chúng ta: não. Đó là nơi mà các giác quan của chúng ta tụ tập, những giác quan đặc biệt của chúng ta -- nhìn, nói nghe, ngửi và nếm. Và phần xương này giống muối tiêu, như chúng ta có thể thấy, ánh sáng chiếu xuyên qua hộp sọ với các hốc và các xoang, làm ấm và ẩm không khí chúng ta hít vào. Nhưng cũng tưởng tượng, nếu không khí được luồn vào khối xương đặc, thì đầu của chúng ta sẽ trở nên chết đặc chúng ta sẽ không thể nào ngước lên trời chúng ta cũng không thể nào nhìn thấy được thế giới xung quanh. Người phụ nữ này đang chết dần vì khối u trên xương mặt của cô ấy đang ăn dần miệng và mũi của khuôn mặt cô ấy, nên cô ta không thể thở và ăn được.
Attached to the facial bones that define our face's structure are the muscles that deliver our facial expression, our universal language of expression, our social-signaling system. And overlying this is the skin drape, which is a hugely complex three-dimensional structure -- taking right-angled bends here and there, having thin areas like the eyelids, thick areas like the cheek, different colors. And then we have the sensual factor of the face. Where do we like to kiss people? On the lips. Nibble the ears maybe. It's the face where we're attracted to with that.
Những phần liên kết với các xương mặt mà tạo ra được kết cấu mặt của chúng ta là những phần cơ truyền đạt cảm xúc trên khuôn mặt, truyền tải ngôn ngữ, và cả hệ thống tín hiệu xã hội của chúng ta. Và phủ lên các phần này là lớp da, và lớp da rất phức tạp ba lớp tế bào phải gập cong đúng góc độ chổ này và chổ nọ, và một lớp da mỏng tại khu vực mắt, và da dày hơn tại những vùng như gò má, và khác màu. Nên tạo ra những giác quan trên vùng mặt. Chúng ta muốn hôn ở đâu trên khuôn mặt? Môi. Hoặc có thể là những đốt ngấn ở tai. Là khuôn mặt mà chúng ta bị hấp dẫn.
But let's not forget the hair. You're looking at the image on your left-hand side -- that's my son with his eyebrows present. Look how odd he looks with the eyebrows missing. There's a definite difference. And imagine if he had hair sprouting from the middle of his nose, he'd look even odder still.
Nhưng cũng đừng quên lông. Các bạn hãy nhìn vào hình bên tay trái đó là hình con trai tôi với hàng lông mày. Nhìn xem thằng bé trông kỳ dị thế nào nếu không có hàng lông mày. Đó hiển nhiên là điều khác biệt. Và thử tưởng tượng ra lông mọc giữa mũi của thằng bé, nhìn còn dị hợm hơn.
Dysmorphophobia is an extreme version of the fact that we don't see ourselves as others see us. It's a shocking truth that we only see mirror images of ourselves, and we only see ourselves in freeze-frame photographic images that capture a mere fraction of the time that we live. Dysmorphophobia is a perversion of this where people who may be very good looking regard themselves as hideously ugly and are constantly seeking surgery to correct their facial appearance. They don't need this. They need psychiatric help. Max has kindly donated his photograph to me. He doesn't have dysmorphophobia, but I'm using his photograph to illustrate the fact that he looks exactly like a dysmorphophobic. In other words, he looks entirely normal.
Chứng tự ti bề ngoài là một dạng của thực tế là chúng ta không nhìn thấy mình như những người khác. Đó là sự thật rất khó chịu khi mà chúng ta chỉ nhìn thấy mình trong gương, và chúng ta chỉ nhìn thấy chính mình trong những khung hình ghi lại một thời điểm của một khoảnh khoắc mà chúng ta sống. Chứng tự ti về hình thức là một chứng mà những người có thể được xem là dễ nhìn thì coi bản thân mình như một người xấu xí dị hợm và phải luôn dựa vào phẫu thuật thẩm mỹ. để chỉnh sửa lại hình dạng của khuôn mặt mình. Thực ra họ không cần điều này, họ cần được trợ giúp về tinh thần. Max rất tử tế khi đưa bức hình này cho tôi. Anh ta không có chứng tự ti, nhưng tôi vẫn dùng bức hình của anh ấy để chứng minh rằng anh ấy nhìn giống như một người tự ti. Cách khác là anh ấy hoàn toàn bình thường.
Age is another thing when our attitude toward our appearance changes. So children judge themselves, learn to judge themselves, by the behavior of adults around them. Here's a classic example: Rebecca has a benign blood vessel tumor that's growing out through her skull, has obliterated her nose, and she's having difficulty seeing. As you can see, it's blocking her vision. She's also in danger, when she damages this, of bleeding profusely. Our research has shown that the parents and close loved ones of these children adore them. They've grown used to their face; they think they're special. Actually, sometimes the parents argue about whether these children should have the lesion removed. And occasionally they suffer intense grief reactions because the child they've grown to love has changed so dramatically and they don't recognize them. But other adults say incredibly painful things. They say, "How dare you take this child out of the house and terrify other people. Shouldn't you be doing something about this? Why haven't you had it removed?" And other children in curiosity come up and poke the lesion, because -- a natural curiosity. And that obviously alerts the child to their unusual nature. After surgery, everything normalizes. The adults behave more naturally, and the children play more readily with other children.
Tuổi tác là một chuyện khi thái độ của chúng ta đối với những thay đổi bề ngoài của mình. Nên trẻ em tự nhận xét mình, học cách nhận xét mình bằng thái độ của những người lớn xung quanh chúng. Đây là một ví dụ điển hành: Rebbecca bị chứng u ác tính về máu chứng bệnh này phát triển trong họp sọ, làm mất chức năng cơ quan mũi, và cô ấy gặp khó khăn về thị giác. Như chúng ta thấy đó, nó che khả năng nhìn của cô. Cô ấy sẽ gặp nguy hiểm, trong trường hợp cô ấy làm hư cái gì, thì máu sẽ chảy ào ạt ra. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bố mẹ hoặc những người họ hàng thân của trẻ tỏ ra thương yêu chúng. Trẻ lớn lên và quen dần với khuôn mặt của mình; chúng nghĩ chúng rất đặc biệt. Thật ra, thỉnh thoảng bố mẹ cãi nhau về việc là những em bé này có nên lấy phần da chết ra hay không. Và thường thì họ phản ứng hơi dữ dội vì đứa trẻ mà họ yêu mến thay đổi một cách hoàn toàn mà họ không còn nhận ra. Nhưng những người lớn khác thì nói những lời rất đau đớn. Họ nghĩ rằng "sao mà dám đem thằng bé ra khỏi nhà và làm những người khác sợ. Tại sao anh không làm chuyện gì đó? Sao anh không lột bỏ nó đi?" Và những đứa trẻ khác vì tò mò mà đến và chọc vào lớp da hư đó, bởi vì - tò mò một cách tự nhiên. Và điều đó rõ ràng làm dấy lên một điều ở đứa trẻ đối với phần tự nhiên không bình thường của chúng. Sau phẩu thuật, mọi thứ trở nên bình thường. Người lớn cư xử tự nhiên hơn., và những đứa trẻ này chơi với những em bé khác hòa đồng hơn.
As teenagers -- just think back to your teenage years -- we're going through a dramatic and often disproportionate change in our facial appearance. We're trying to struggle to find our identity. We crave the approval of our peers. So our facial appearance is vital to us as we're trying to project ourselves to the world. Just remember that single acne spot that crippled you for several days. How long did you spend looking in the mirror every day, practicing your sardonic look, practicing your serious look, trying to look like Sean Connery, as I did, trying to raise one eyebrow? It's a crippling time.
Đối với những thanh thiếu niên -- chỉ cần nghĩ về những năm thanh thiếu niên của mình -- chúng ta phải trải qua những lúc thay đổi bi hài và quá lố trên khuôn mặt của chúng ta. Chúng ta cố gắng để tìm kiếm chính mình. Chúng ta mong chờ sự đồng tình từ bạn của mình. Nên khuôn mặt của chúng ta rất quan trọng đối với chúng ta khi chúng ta cố gắng giới thiệu mình với thế giới. Nên nhớ rằng chỉ có một hạt mụn nhỏ có thể làm chúng ta điêu đứng vài ngày. mỗi ngày chúng ta đứng trước gương bao lâu để ngắm nhìn mình trong gương luyện tập cái nhìn kiêu ngạo, cái nhìn nghiêm chỉnh cố làm cho giống với Sean Connery, như tôi từng làm, cố vướng một bên chân mày. Đó chắc là một khoảng thời gian kinh khủng.
I've chosen to show this profile view of Sue because what it shows is her lower jaw jutting forward and her lower lip jutting forward. I'd like you all in the audience now to push your lower jaw forward. Turn to the person next to you, push your lower jaws forward. Turn to the person next to you and look at them -- they look miserable. That's exactly what people used to say to Sue. She wasn't miserable at all. But people used to say to her, "Why are you so miserable?" People were making misjudgments all the time on her mood. Teachers and peers were underestimating her; she was teased at school. So she chose to have facial surgery. After the facial surgery, she said, "My face now reflects my personality. People know now that I'm enthusiastic, that I'm a happy person." And that's the change that can be achieved for teenagers.
Tôi chọn hình của Sue để đưa ra vì hình này cho thấy hàm dưới của cô hơi trồi ra ngoài và môi dưới hơi trồi ra theo. Tôi xin đề nghị là tất cả chúng ta thử đẩy hàm dưới của mình về phía trước, và quay về phía người kế mình, đẩy hàm dưới về phía trước, quay người về hướng người kế bên và nhìn họ -- họ trông rất là khó chịu. Đó chính xác là điều mà người khác hay nói với Sue. Cô ấy chưa bao giờ nhìn khó chịu. Nhưng mọi người hay nói với cô ấy "sao trông cô khó chịu thế" Mọi người cứ đưa ra ý kiến sai về thần thái của cô ấy. Giáo viên và bạn bè luôn đánh giá thấp cô ấy, cô luôn bị trêu ghẹo ở tưoờng. Nên cô quyết định phẫu thuật thẩm mỹ khuôn mặt mình. Sau cuộc phẫu thuật, cô ấy nói "khuôn mặt tôi phản ánh tính cách tôi. Bây giờ mọi người hiểu rằng tôi là người lạc quan, rằng tôi là một người vui vẻ." Và điều thay đổi này có thể đạt được đối với những thanh thiếu niên.
Is this change, though, a real change, or is it a figment of the imagination of the patient themselves? Well we studied teenagers' attitudes to photographs of patients having this corrective facial surgery. And what we found was -- we jumbled up the photographs so they couldn't recognize the before and after -- what we found was that the patients were regarded as being more attractive after the surgery. Well that's not surprising, but we also asked them to judge them on honesty, intelligence, friendliness, violence. They were all perceived as being less than normal in all those characteristics -- more violent, etc. -- before the surgery. After the surgery, they were perceived as being more intelligent, more friendly, more honest, less violent -- and yet we hadn't operated on their intellect or their character.
Có phải đây là một sự thay đổi thật sự, hay nó chỉ là một ảo giác của chính bản thân mình. Thật ra chúng tôi nghiên cứu về thái độ hành vi của thanh thiếu niên để nhận dạng được các bệnh nhân có một cuộc phẫu thuật khuôn mặt theo cách đúng nhất. Và điều mà chúng tôi nhận thấy là -- chúng tôi trộn các tấm hình lại với nhau để họ không thể nhận ra trước và sau -- mà điều chúng tôi nhận ra là các bệnh nhân cho rằng mình đẹp hơn sau khi phẫu thuật. Điều này thì không đáng ngạc nhiên, nhưng chúng tôi cũng hỏi họ nhận xét về mình một cách chân thành, thông minh, hòa đồng, và thẳng thắn. Họ đều được nhận thấy là ít bình thường hơn ở mọi góc độ -- dữ dội hơn, v..v - trước phẫu thuật. Sau phẫu thuật, họ được nhìn nhận là thông minh hơn, thân thiện hơn, chân thành hơn, và ít dữ dội -- và chúng ta chưa tiến hành phẫu thuật tố chất hay tính cách của họ.
When people get older, they don't necessarily choose to follow this kind of surgery. Their presence in the consultation suite is a result of the slings and arrows of outrageous fortune. What happens to them is that they may have suffered cancer or trauma. So this is a photograph of Henry, two weeks after he had a malignant cancer removed from the left side of his face -- his cheekbone, his upper jaw, his eye-socket. He looks pretty good at this stage. But over the course of the next 15 years he had 14 more operations, as the disease ravaged his face and destroyed my reconstruction regularly. I learned a huge amount from Henry. Henry taught me that you can carry on working. He worked as an advocate. He continued to play cricket. He enjoyed life to the full, and this was probably because he had a successful, fulfilling job and a caring family and was able to participate socially. He maintained a calm insouciance. I don't say he overcame this; he didn't overcome it. This was something more than that. He ignored it. He ignored the disfigurement that was happening in his life and carried on oblivious to it. And that's what these people can do.
Khi con người già hơn, họ không chọn các phẫu thuật này. Sự hiện diện của họ trong phòng tư vấn là kết quả của dây và cây đỡ của vận đen. Điều xảy ra với họ là họ phải chịu đựng căn bệnh ung thư hoặc bệnh trầm cảm. Và đây là bức hình của Henry sau vài tuần cậu ấy phẫu thuật loại bỏ khối u ung thư từ phần trái của khuôn mặt - xương má, đến hàm trên, đuôi mặt. Anh ấy trông khá ổn vào thời điểm này. Nhưng trong vòng hơn 15 năm sau đó, anh phải có thêm 14 cuộc phẫu thuật, như một chứng bệnh phá hủy khuôn mặt của anh ấy và phá hủy cả những dự tính của tôi. Tôi học rất nhiều từ Henry. Henry dạy tôi rằng chúng ta có thể tiếp tục làm việc. Anh ấy làm việc như một người chủ nhiệm. Anh tiếp tục chơi cricket Anh ấy tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn. Và có thế là vì anh ta có một công việc thàng công và ổn định và một gia đình đầy tình thương và anh có khả năng hòa nhập vào xã hội. Anh ấy giữ được thái độ ôn hòa. Tôi không có ý là anh ấy đã vượt qua được điều này; anh ấy không vượt qua điều gì cả. Có một điều còn hơn cả thế. Anh ấy phớt lờ nó. Anh ấy phớt lờ về những lộn xộn xảy ra trong cuộc đời của anh và không nhận thức về nó. Đó là điều mà những người này có thể làm.
Henriapi illustrates this phenomenon as well. This is a man in his 20s whose first visit out of Nigeria was with this malignant cancer that he came to the United Kingdom to have operated on. It was my longest operation. It took 23 hours. I did it with my neurosurgeon. We removed all the bones at the right side of his face -- his eye, his nose, the skull bones, the facial skin -- and reconstructed him with tissue from the back. He continued to work as a psychiatric nurse. He got married. He had a son called Jeremiah. And again, he said, "This painting of me with my son Jeremiah shows me as the successful man that I feel that I am." His facial disfigurement did not affect him because he had the support of a family; he had a successful, fulfilling job.
Henriapi cũng là một ví dụ cho hiện tường này. Đây là một cậu thanh niên ở độ tuổi 20 mà chuyến đi đầu tiên khỏi Nigeria của cậu là cùng với khối u ung thư mà cậu phải đến Anh để phẫu thuật. Đó là cuộc phẫu thuật dài nhất của tôi. Phải mất tới 23 tiếng. Tôi tiến hành phẫu thuật cùng với bác sỹ giải phẫu thần kinh. Chúng tôi phải lấy hết xương từ phần bên phải của khuôn mặt -- mắt, mũi, xương sọ, da mặt -- và cấy lại từ các tuyến từ phía sau. Cậu ta tiếp tục làm việc với vị trí là y tá khoa thần kinh. Cậu lập gia đình. Có một con trai tên là Jeremiah. Và cậu ấy lại nói, "bức hình của tôi với con tôi Jeramial cho tôi thấy rằng tôi là một người đàn ông thành công như tôi cảm nhận" Khiếm khuyến trên khuôn mặt cậu ta không hề ảnh hưởng đến cầu ta, vì cậu ta có được sự hổ trợ từ gia đình, và cậu ấy có một công việc đang hoàng và thành công.
So we've seen that we can change people's faces. But when we change people's faces, are we changing their identity -- for better or for worse? For instance, there are two different types of facial surgery. We can categorize it like that. We can say there are patients who choose to have facial surgery -- like Sue. When they have facial surgery, they feel their lives have changed because other people perceive them as better people. They don't feel different. They feel that they've actually gained what they never had, that their face now reflects their personality. And actually that's probably the difference between cosmetic surgery and this kind of surgery. Because you might say, "Well, this type of surgery might be regarded as cosmetic." If you do cosmetic surgery, patients are often less happy. They're trying to achieve difference in their lives. Sue wasn't trying to achieve difference in her life. She was just trying to achieve the face that matched her personality.
Chúng ta cũng thấy được rằng chúng ta có thể thay đổi khuôn mặt mọi người. Nhưng khi chúng ta thay đổi khuôn mặt, liệu chúng ta có thay đổi được chính chúng ta, để trở nên tốt hơn hoặc xấu hơn? Ví dụ, có hai dạng phẫu thuật mặt. Chúng ta có thể phân loại như sau. Có thể nói là chúng ta có các bệnh nhân những người chọn để phẫu thuật khuôn mặt -- như Sue. Khi họ phẫu thuật khuôn mặt, họ cảm thấy là cuộc đời của họ thay đổi, vì theo cách mà những người khác nhìn nhận họ như những người tốt hơn. Họ không cảm thấy khác biệt. Họ cảm thấy là họ đạt được gì đó những điều mà họ chưa bao giờ có được rằng khuôn mặt họ phản ảnh tình khi họ. và thức dự thì sự khác biệt giữa phẫu thuật thẩm mỹ và kiểu phẫu thuật này. Vì chính chúng ta có thể nói, "Kiểu phẫu thuật này có thể được xem như là thẩm mỹ." Nếu chúng ta tiến hành phẫu thuật thẩm mỹ, bệnh nhân thường không vui. Họ cố để đạt được sự khác biệt trong cuộc đời họ. Cô ấy không cố đạt được sự khác biệt nào trong cuộc đời của cô ấy, cô ấy chỉ muốn có được một khuôn mặt phù hợp với tính cách của cô.
But then we have other people who don't choose to have facial surgery. They're people who have their face shot off. I'll move it off, and we'll have a blank slide for those who are squeamish amongst you. They have it forced upon them. And again, as I told you, if they have a caring family and good work life, then they can lead normal and fulfilled lives. Their identity doesn't change.
Nhưng sau đó chúng ta có những người khác những người không chọn phẫu thuật khuôn mặt. Họ là những người muốn bỏ bớt phần mặt của mình. Tôi sẽ bỏ nó đi, và chúng ta sẽ chỉ có một lớp phẳng cho những người ủy mỵ trong chính chúng ta, Họ tự ép mình. Và một lần nữa, tôi xin nhắc lại, nếu chúng ta có một gia đình biết quan tâm và một công việc tốt, thì chúng ta có thể có được một cuộc sống bình thường và vẹn toàn. Bản chất của mình sẽ không thay đổi.
Is this business about appearance and preoccupation with it a Western phenomenon? Muzetta's family give the lie to this. This is a little Bangladeshi girl from the east end of London who's got a huge malignant tumor on the right side of her face, which has already made her blind and which is rapidly growing and is going to kill her shortly. After she had surgery to remove the tumor, her parents dressed her in this beautiful green velvet dress, a pink ribbon in her hair, and they wanted the painting to be shown around the world, despite the fact that they were orthodox Muslims and the mother wore a full burqa. So it's not simply a Western phenomenon.
Đó có phải thật sự là về bề ngoài và những lo lắng về nó một hiện tượng rất Tây? Gia đình Muzetta phản biện lại điều này. Đây là cô bé nhỏ người Bangladesh đến từ đỉnh hương Tây của London đang mang trong mình khối u bên mặt phải của mình, mà chính khối u này làm cho cô bé mù, khối u đang lớn dần và sẽ sớm giết cô bé. Sau khi cô bé phẫu thuật để loại bỏ khối u, bố mẹ cô bé mặc cho cô bé áo đầm màu tím xanh rất đẹp, với một nơ cài tóc, và họ muốn có được một bức hình để khoe với cả thế giới, mặc dù họ là những người Muslim gốc và người mẹ mặc đồ truyền thống. Nên nó không đơn giản là hiện tượng bên Tây.
We make judgments on people's faces all the time. It's been going on since we can think of Lombroso and the way he would define criminal faces. He said you could see criminal faces, judging them just on the photographs that were showed. Good-looking people are always judged as being more friendly. We look at O.J. -- he's a good-looking guy. We'd like to spend time with him. He looks friendly. Now we know that he's a convicted wife-batterer, and actually he's not the good guy. And beauty doesn't equate to goodness, and certainly doesn't equate to contentment.
Chúng ta nhận xét trên khuôn mặt của người khác lúc nào cũng vậy. Việc này tiếp tục xảy ra từ khi chúng ta có thể nghĩ về Lombrosso và cách mà ông ta ứng dụng để định dạng những khuôn mặt tội phạm. Ông ấy từng nói chúng ta có thể thấy những khuôn mặt tội phạm, nhận xét về họ dựa trên những bức hình được đưa ra. Những người đẹp thường được nhận xét rằng họ có vẻ thân thiện hơn. Chúng ta thử nhìn O.J -- một người đẹp trai. Chúng ta thích đi chơi cùng anh ta. Anh ta nhìn rất thân thiện. Hiện nay chúng ta đều biết anh ta bị buộc tội đánh vợ, và thực sự không phải là một anh chàng tốt. Mà đẹp thường không đi đôi với tốt, và tất nhiên là không đi đôi với hạnh phúc.
So we've talked about the static face and judging the static face, but actually, we're more comfortable with judging the moving face. We think we can judge people on their expressions. U.K. jurors in the U.K. justice system like to see a live witness to see whether they can pick up the telltale signs of mendacity -- the blink, the hesitation. And so they want to see live witnesses. Todorov tells us that, in a tenth of a second, we can make a judgment on somebody's face. Are we uncomfortable with this image? Yes, we are. Would we be happy if our doctor's face, our lawyer's face, our financial adviser's face was covered? We'd be pretty uncomfortable. But are we good at making the judgments on facial appearance and movement? The truth is that there's a five-minute rule, not the tenth-of-a-second rule like Todorov, but a five-minute rule. If you spend five minutes with somebody, you start looking beyond their facial appearance, and the people who you're initially attracted to may seem boring and you lose interest in them, and the people who you didn't immediately seek out, because you didn't find them particularly attractive, become attractive people because of their personality.
Nên chúng ta nói về khuôn mặt nguyên trạng và đưa ra ý kiến về khuôn mặt không di động, nhưng thực ra, chúng ta thấy thỏa mái hơn khi bình luận về những khuôn mặt di động. Chúng ta cho rằng chúng ta có thể bình luận lên các biểu hiện của khuôn mặt người khác. Những thành viên trong bồi thẩm đoàn của Anh trong hệ thống pháp lý Anh thích nhìn nhân chứng trực tiếp để xem là họ có thể nhận biết được dấu hiệu nói dối nào không -- một nháy mắt, một sự ngại ngùng. Nên họ muốn được nhìn trực tiếp nhân chứng. Todorov đã nói cho chúng tôi rằng, trong một phần mười của một giây, chúng ta có thể đưa ra nhận xét trên khuôn mặt của một người nào đó. Liệu chúng ta có thỏa mái với hình ảnh này không? Có. Liệu chúng ta có vui không nếu khuôn mặt của bác sỹ mình, luật sư, và khuôn mặt của người hổ trợ tài chính bị bao bọc? Chắc chắn là chúng ta không thấy thỏa mái. Nhưng chúng ta rất giỏi khi đưa ra nhận xét trên các chuyển động và bề ngoài của khuôn mặt? Sự thật là có qui định là một luật năm phút -- không phải là lần thứ mười của một giây như Todorov, nhưng là một luật năm giây. Nếu bạn tiếp xúc với một ai đó trong vòng năm phút, Bạn bắt đầu nhìn sâu hơn bề mặt khuôn mặt của họ, và người mà ngay từ đầu bạn bị cuốn hút có thể trở nên rất chán và bạn không còn hứng thú với người ta, và những người mà bạn không tìm kiếm tức thì, vì bạn không thấy người ta hấp dẫn, trở nên hấp dần hơn vì vẻ đẹp tính cách của họ.
So we've talked a lot about facial appearance. I now want to share a little bit of the surgery that we do -- where we're at and where we're going. This is an image of Ann who's had her right jaw removed and the base of her skull removed. And you can see in the images afterward, we've managed to reconstruct her successfully. But that's not good enough. This is what Ann wants. She wants to be out kayaking, she wants to be out climbing mountains. And that's what she achieved, and that's what we have to get to.
Nên khi chúng ta nói nhiều về hình thức khuôn mặt. Chúng ta muốn chia sẽ một ít thẩm mỹ mà chúng ta làm -- nơi chúng ta làm và nơi chúng ta đang làm. Đây là hình ảnh của Ann người đã bỏ hàm phải của mình và phần sọ. Chúng ta có thể thấy hình ảnh sau khi phẩu thuật, chúng tôi đã cố gắng để sửa lại cho cô ấy một cách thành công. Nhưng cũng chưa tốt được. Đây là những điều Ann muốn. Cô ấy muốn đi vượt thác, muốn leo núi. Và đó là những gì cô ấy muốn đạt được, và đó là những gì chúng tôi phải hoàn thành.
This is a horrific image, so I'm putting my hand up now. This is a photograph of Adi, a Nigerian bank manager who had his face shot off in an armed robbery. And he lost his lower jaw, his lip, his chin and his upper jaw and teeth. This is the bar that he set for us. "I want to look like this. This is how I looked before." So with modern technology, we used computers to make models. We made a model of the jaw without bone in it. We then bent a plate up to it. We put it in place so we knew it was an accurate position. We then put bone and tissue from the back. Here you can see the plate holding it, and you can see the implants being put in -- so that in one operation we achieve this and this. So the patient's life is restored. That's the good news. However, his chin skin doesn't look the same as it did before. It's skin from his back. It's thicker, it's darker, it's coarser, it doesn't have the contours. And that's where we're failing, and that's where we need the face transplant.
Bức hình này rất sợ, nên tôi đặt tay tôi lên trên. Đây là hình ảnh của Adi, một giám đốc ngân hàng người Nigerian người có khuôn mặt bị bỏ đi trong một lần bị cướp. Và anh ta mất cả phần hàm dưới, môi và cảm và hàm trên và cả răng. Và đây là hình ảnh mà anh ấy đã đưa cho chúng tôi. "Tôi muốn giống như thế này. Còn đây là khuôn mặt của tôi trước đó." Và với kỹ thuật hiện đại, chúng tôi dùng máy tính để tạo hình mẫu. Chúng tôi tạo một cái hàm mẫu không xương. Sau đó chúng tôi bẻ cong cái dĩa đặt lên nó. Chúng tôi đặt nó ở chổ mà chúng tôi nghĩ rằng đặt đúng vị trí. Sau đó chúng tôi đặt xương và khăn giấy từ đằng sau. Các bạn có thể nhìn thấy cái dĩa đang có những gì. và có thể nhìn luôn cả mô cấy trong đó -- để trong một cuộc phẫu thuật chúng ta đạt được điều này và điều này. Và cuộc sống của bệnh nhân được hồi phục. Đó là một tin tốt. Tuy nhiên, da cằm không nhìn giống như trước. Đó là phần da từ lưng của anh ta. Nó dày hơn, xẩm màu hơn, khô hơn, nó không có những đường viền. Và đó là điều mà chúng tôi đang thất bại. Và đó là phần mà chúng tôi cần cấy mặt.
The face transplant has a role probably in burns patients to replace the skin. We can replace the underlying skeletal structure, but we're still not good at replacing the facial skin. So it's very valuable to have that tool in our armamentarium. But the patients are going to have to take drugs that suppress their immune system for the rest of their lives. What does that mean? They have an increased risk of infection, an increased risk of malignancy. This is not a life-saving transplant -- like a heart, or liver, or lung transplant -- it is a quality-of-life transplant, and as a result, are the patients going to say, if they get a malignant cancer 10 or 15 years on, "I wish I'd had conventional reconstructive techniques rather than this because I'm now dying of a malignant cancer"? We don't know yet. We also don't know what they feel about recognition and identity. Bernard Devauchelle and Sylvie Testelin, who did the first operation, are studying that. Donors are going to be short on the ground, because how many people want to have their loved one's face removed at the point of death? So there are going to be problems with face transplantation.
Cấy da mặt có một vai trò có lẽ đối với những bệnh nhân bị cháy để thay da. Chúng tôi có thể thay cấu trúc lớp sọ dưới, nhưng chúng tôi vẫn chưa giỏi về thay da mặt. Nên nó rất giá trị để có được công cụ trong bộ trang thiết bị của chúng tôi. Nhưng bệnh nhân phải dùng thuốc mê mà điều này sẽ hạn chế khả năng đề kháng của cơ thể trong suốt quãng đời còn lại của họ. Điều này có nghĩa là gì? Họ dễ bị rủi ro về nhiểm bệnh, tăng lên về tính ác tính. Điều này không phải là một cuộc phẫu thuật cứu vãn cuộc đời -- giống như tim, hoặc gan, hoặc phổi. mà nó là chất lượng của cuộc đời, kết quả là, là những điều mà những bệnh nhân sẽ nói nếu họ mắc bệnh ung thư ác tính trong vòng 10 hoặc 15 năm sau, "Tôi mong rằng tôi được dùng kỹ thuật chữa bệnh truyền thống hơn là cái này, vì tôi đang chết bởi ung thử ác tính?" Chúng ta chưa biết được. Chúng tôi cũng không biết được cảm giác họ như thế nào về nhận thức và nhân dạng. Bernard Devauchelle và Sylvie Testelin người có cuộc phẫu thuật đầu tiên đang nghiên cứu về vấn đề này. Những tình nguyện cũng trở nên ít dần trên mặt đất, vì sẽ có bao nhiêu người muốn khuôn mặt yêu quí của mình bị cắt đi tại thời điểm chết. Nên có rất nhiều vấn đề về phẫu thuật cấy da mặt.
So the better news is the future's almost here -- and the future is tissue engineering. Just imagine, I can make a biologically-degradable template. I can put it in place where it's meant to be. I can sprinkle a few cells, stem cells from the patient's own hip, a little bit of genetically engineered protein, and lo and behold, leave it for four months and the face is grown. This is a bit like a Julia Child recipe.
Mà tin tốt lành là tương lại hoàn toàn ở đây -- và tương lai là tái tạo lớp màn. Chỉ cần tưởng tượng, tôi có thể tạo ra lớp sinh vật. Tôi có thể bỏ nó vào đúng vị trí. Tôi có thể cho vào một vài tế bào, các nhân tế bào từ mông của bệnh nhân, một ít chất hữu có được lập trình theo gen và giữ nguyên trạng, để khoảng bốn tháng và khuôn mặt phát triển lại. Cái này giống như phương thức Julia Child.
But we've still got problems. We've got mouth cancer to solve. We're still not curing enough patients -- it's the most disfiguring cancer. We're still not reconstructing them well enough. In the U.K. we have an epidemic of facial injuries among young people. We still can't get rid of scars. We need to do research. And the best news of all is that surgeons know that we need to do research. And we've set up charities that will help us fund the clinical research to determine the best treatment practice now and better treatment into the future, so we don't just sit on our laurels and say, "Okay, we're doing okay. Let's leave it as it is."
Nhưng chúng tôi vẫn gặp vấn đề. Chúng ta có ung thư miệng để giải quyết. Chúng ta vẫn chưa chửa hết bệnh nhân - nó là loại bệnh ung thư rất khó chịu. Chúng tôi vẫn chưa làm tốt được. Ở Anh, chúng tôi có một nhóm trường hợp bị thương mặt giữa những người trẻ. Chúng tôi vẫn không thể nào loại bỏ các vết sẹo. Chúng tôi cần nghiên cứu. Và tin tốt nhất là các bác sỹ phẫu thuật biết là chúng tôi cần nghiên cứu Và chúng tôi được thành lập hội từ thiện để giúp chúng tôi gây quỹ nghiên cứu y tế để đưa ra được cách thức chữa bệnh tốt nhất và tốt hơn trong tương lại, để mà chúng tôi không chỉ ngồi trên đám cỏ và nói "OK, chúng tôi ổn. Cứ để mọi chuyện như vậy đi."
Thank you very much indeed.
Cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)