I'm going to go right into the slides. And all I'm going to try and prove to you with these slides is that I do just very straight stuff. And my ideas are -- in my head, anyway -- they're very logical and relate to what's going on and problem solving for clients. I either convince clients at the end that I solve their problems, or I really do solve their problems, because usually they seem to like it.
Trước hết tôi sẽ trình chiếu slide. Và tôi sẽ cố gắng chứng minh với bạn qua những những slide này rằng tôi làm việc rất thắng thắn. Và ý tưởng của tôi -- luôn trong đầu --chúng rất logic và liên quan tới những gì đang diễn ra, giải pháp cho khách hàng. Tôi cũng thuyết phục được khách hàng rằng tôi giải quyết vấn đề của họ, hoặc giải quyết vấn đề luôn, vì họ thường có vẻ thích thế.
Let me go right into the slides. Can you turn off the light? Down. I like to be in the dark. I don't want you to see what I'm doing up here.
Vậy xin đi thẳng vào các slide. Anh có thể tắt đèn được không ạ? Tôi thích ở trong bóng tối. tôi không muốn bạn thấy tôi đang làm gì ở trên này.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Anyway, I did this house in Santa Monica, and it got a lot of notoriety. In fact, it appeared in a porno comic book, which is the slide on the right.
Ah, tôi đã thiết kế ngôi nhà này ở Santa Monica và nó được rất nhiều người biết đến. Thực ra, nó xuất hiện trong 1 cuốn sách cười khiêu dâm, cái slide bên phải đấy
(Laughter)
(Tiếng cười)
This is in Venice. I just show it because I want you to know I'm concerned about context. On the left-hand side, I had the context of those little houses, and I tried to build a building that fit into that context. When people take pictures of these buildings out of that context they look really weird, and my premise is that they make a lot more sense when they're photographed or seen in that space. And then, once I deal with the context, I then try to make a place that's comfortable and private and fairly serene, as I hope you'll find that slide on the right.
Đây là Venice. Tôi chiếu slide này là vì tôi muốn các bạn biết tôi quan tâm tới bối cảnh. Bên tay trái, Tôi có bối cảnh các ngôi nhà nhỏ này, và tôi đã cố gắng xây dựng 1 tòa nhà hài hòa với khung cảnh chung. Khi mọi người chụp những tòa nhà này mà không lấy cảnh xung quanh chúng trông rất kỳ quái. và tôi cho rằng những bức ảnh đó sẽ có ý nghĩa hơn khi được chụp hoặc nhìn thấy trong không gian đó. Và sau đó, tôi xử lý bối cảnh Tôi cố gắng tạo ra 1 nơi thoải mái, riêng tư và thanh khiết, như tôi hy vọng bạn sẽ thấy slide đó ở bên phải.
And then I did a law school for Loyola in downtown L.A. I was concerned about making a place for the study of law. And we continue to work with this client. The building on the right at the top is now under construction. The garage on the right -- the gray structure -- will be torn down, finally, and several small classrooms will be placed along this avenue that we've created, this campus. And it all related to the clients and the students from the very first meeting saying they felt denied a place. They wanted a sense of place. And so the whole idea here was to create that kind of space in downtown, in a neighborhood that was difficult to fit into. And it was my theory, or my point of view, that one didn't upstage the neighborhood -- one made accommodations. I tried to be inclusive, to include the buildings in the neighborhood, whether they were buildings I liked or not.
Và sau đó tôi thiết kế 1 trường luật cho Loyola ở thành phố L.A. Tôi chú tâm tới việc xây dựng 1 nơi để nghiên cứu luật. Và chúng tôi tiếp tục làm việc với khách hàng này. Tòa nhà trên góc phải hiện đang được thi công. Gara ở bên phải -- cái kết cấu màu xám đó-- sẽ bị dỡ bỏ, và cuối cùng 1 vài phòng học nhỏ sẽ được xây dọc con đường chúng tôi xây đã xây dựng này,khuôn viên trường. Và tất cả chúng liên quan tới các khách hàng và sinh viên từ buổi họp đầu tiên, nói rằng họ cảm thấy không thích nơi này. Họ muốn có cái cảm nhận về nơi đó. Và thế là toàn bộ ý tưởng là thiết kế 1 không gian trong thành phố, trong vùng lân cận nơi rất khó hòa nhập. Và đó là lý thuyết hay là quan điểm của tôi, 1 cái thì không làm lu mờ vùng lân cận -- 1 cái tạo nơi ở. Tôi cố gắng tính đến cả những tòa nhà lân cận, liệu tôi có thích chúng hay không.
In the '60s I started working with paper furniture and made a bunch of stuff that was very successful in Bloomingdale's. We even made flooring, walls and everything, out of cardboard. And the success of it threw me for a loop. I couldn't deal with the success of furniture -- I wasn't secure enough as an architect -- and so I closed it all up and made furniture that nobody would like.
Vào những năm 60 tôi bắt đầu làm việc với đồ nội thất giấy, và tạo ra nhiều loại rất thành công ở Bloomingdale. Chúng tôi thậm chí làm sàn nhà, tường, tất tật mọi thứ từ bìa các-tông. Rồi sự thành công đó ném tôi vào vòng luẩn quẩn. Tôi không thể đối phó với sự thành công từ đồ nội thất . Tôi thấy không an toàn lắm khi là 1 nhà thiết kế -- thế là tôi chấm dứt tất cả lại và làm đồ nội thất chẳng ai thích cả.
(Laughter)
(Tiếng cười)
So, nobody would like this. And it was in this, preliminary to these pieces of furniture, that Ricky and I worked on furniture by the slice. And after we failed, I just kept failing.
Không ai thích cái này cả. Nó nằm trong đây, dẫn dắt tới các đồ nội thất này, Ricky và tôi đã làm đồ nội thất bằng dao. Và sau khi chúng tôi thất bại, tôi liên tục thất bại.
(Laughter)
(Tiếng cười)
The piece on the left -- and that ultimately led to the piece on the right -- happened when the kid that was working on this took one of those long strings of stuff and folded it up to put it in the wastebasket. And I put a piece of tape around it, as you see there, and realized you could sit on it, and it had a lot of resilience and strength and so on. So, it was an accidental discovery.
Cái bên trái -- hoàn toàn dẫn tới cái bên trái-- diễn ra khi đứa bé đang làm việc trên đó lấy 1 trong các sợi dài này và gập nó lại để đặt vào trong giỏ đựng rác. Tôi cuốn 1 đoạn dây quanh nó, như bạn thấy, bạn có thể ngồi lên nó và nó rất đàn hồi và dẻo dai. Đó là 1 khám phá rất tình cờ.
I got into fish.
Tôi đã tìm hiểu sâu về bản ghép.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I mean, the story I tell is that I got mad at postmodernism -- at po-mo -- and said that fish were 500 million years earlier than man, and if you're going to go back, we might as well go back to the beginning. And so I started making these funny things. And they started to have a life of their own and got bigger -- as the one glass at the Walker. And then, I sliced off the head and the tail and everything and tried to translate what I was learning about the form of the fish and the movement. And a lot of my architectural ideas that came from it -- accidental, again -- it was an intuitive kind of thing, and I just kept going with it, and made this proposal for a building, which was only a proposal.
Ý tôi là, câu chuyện tôi kể là tôi rất cú với chủ nghĩa hậu hiện đại đã nói rằng loài cá xuất hiện sớm hơn con người 500 triệu năm, và nếu bạn định quay lại, chúng ta sẽ quay lại lúc ban đầu. Thế là tôi đã bắt tay vào làm những thứ vui vui này. Chúng bắt đầu cuộc sống riêng và ngày 1 to hơn-- như tấm kính ở Walker. sau đó tôi cắt phần đầu và đuôi, tất cả chỗ còn lại, cố gắng diễn giải những gì tôi học được về các dạng cá và sự chuyển động. Rất nhiều ý tưởng kiến trúc của tôi đều đến từ nó -- và lại là tình cờ -- đó là 1 thứ đầy trực quan, tôi tiếp tục làm việc với nó, và lập ra bản kế hoạch đề xuất cho 1 tòa nhà, chỉ là 1 bản đề xuất.
I did this building in Japan. I was taken out to dinner after the contract for this little restaurant was signed. And I love sake and Kobe and all that stuff. And after I got -- I was really drunk -- I was asked to do some sketches on napkins.
Tôi thiết kế tòa nhà này ở Nhật. Tôi bị kéo đi ăn tối sau khi hợp đồng cho nhà hàng nhỏ này được ký kết. Tôi rất thích rượu sake và bò kobe, thích tất cả. Và sau khi say mọi người bảo tôi vẽ vài đường trên khăn giấy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And I made some sketches on napkins -- little boxes and Morandi-like things that I used to do. And the client said, "Why no fish?" And so I made a drawing with a fish, and I left Japan. Three weeks later, I received a complete set of drawings saying we'd won the competition.
Và tôi vẽ vài đường phác thảo lên đó-- các hộp nhỏ và những thứ trông giống Morandi tôi thường vẽ. Người khách nói," Tại sao không có cá thế hả?" Thế là tôi vẽ 1 bản thiết kế có 1 con cá và rời Nhật. 3 tuần sau tôi nhận được 1 tập bản vẽ hoàn chỉnh cho biết chúng tôi đã thắng trong cuộc cạnh tranh.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Now, it's hard to do. It's hard to translate a fish form, because they're so beautiful -- perfect -- into a building or object like this. And Oldenburg, who I work with a little once in a while, told me I couldn't do it, and so that made it even more exciting. But he was right -- I couldn't do the tail. I started to get the head OK, but the tail I couldn't do. It was pretty hard. The thing on the right is a snake form, a ziggurat. And I put them together, and you walk between them. It was a dialog with the context again. Now, if you saw a picture of this as it was published in Architectural Record -- they didn't show the context, so you would think, "God, what a pushy guy this is." But a friend of mine spent four hours wandering around here looking for this restaurant. Couldn't find it. So ...
Thật khó để diễn giải 1 hình dạng cá vì chúng thật đẹp, hoàn hảo bên trong 1 tòa nhà hay 1 đối tượng như thế này. Và Oldenburg, người tôi từng làm việc cùng nói rằng tôi không thể làm được, chính điều đó khiến tôi hào hứng hơn. Nhưng anh ấy đã đúng -- tôi không thể làm làm phần đuôi. Tôi bắt đầu hoàn thành phần đầu nhưng phần đuôi tôi chẳng thể làm gì. Nó khá là khó khăn. Cái bên phải uốn lượn hình con rắn, 1 đền thờ kim tự tháp cổ. Tôi đặt chúng cùng nhau, và bạn đi giữa chúng. Nó lại là 1 sự hòa hợp tương tác với khung cảnh. Nào, nếu bạn thấy 1 bức tranh của cái này vì được xuất bản ở Architectural Record, họ không cho thấy khung cảnh, nên bạn sẽ nghĩ " Giời ạ, cha này tinh vi quá đấy." Nhưng 1 người bạn của tôi đã bỏ ra 4 tiếng đi lang thang quanh đây tìm cái nhà hàng này. Nhưng không tìm thấy. Nên --
(Laughter)
(Tiếng cười)
As for craft and technology and all those things that you've all been talking about, I was thrown for a complete loop. This was built in six months. The way we sent drawings to Japan: we used the magic computer in Michigan that does carved models, and we used to make foam models, which that thing scanned. We made the drawings of the fish and the scales. And when I got there, everything was perfect -- except the tail. So, I decided to cut off the head and the tail.
đối với các kỹ xảo và công nghệ... bạn đã nói đến, tôi bị ném vào 1 cái vòng luẩn quẩn. Cái này được xây dựng trong 6 tháng. Chúng tôi gửi bản vẽ tới khách hàng bằng máy tính ma thuật ở Michigan làm các mô hình chạm khắc, và chúng tôi trước đây hay dùng các mô hình tạo bọt được cái đó quét. Chúng tôi vẽ các bản vẽ của bản ghép và tỉ lệ. Và khi tôi làm đến đó, mọi thứ đều hoàn hảo ngoại trừ phần đuôi. Thế nên tôi quyết định cắt bỏ phần đầu và đuôi.
And I made the object on the left for my show at the Walker. And it's one of the nicest pieces I've ever made, I think. And then Jay Chiat, a friend and client, asked me to do his headquarters building in L.A. For reasons we don't want to talk about, it got delayed. Toxic waste, I guess, is the key clue to that one. And so we built a temporary building -- I'm getting good at temporary -- and we put a conference room in that's a fish.
Và tôi thiết kế vật thể bên tay trái để trưng bày tại Walker. Theo tôi đó là 1 trong các sản phẩm đẹp nhất tôi từng thiết kế. Sau đó, Jay Chiat, 1 người bạn cũng là khách hàng yêu cầu tôi thiết kế trụ sở của anh ấy ở L.A. Vì 1 số lý do chúng tôi không muốn nói, nó bị trì hoãn. Chất thải độc hại là vấn đề chính cho nó, tôi đoán vậy. Thế là chúng tôi xây 1 tòa nhà tạm thời -- tôi ngày càng thành thạo với những thiết kế tạm thời -- và dùng 1 con cá cho 1 phòng hội nghị.
And, finally, Jay dragged me to my hometown, Toronto, Canada. And there is a story -- it's a real story -- about my grandmother buying a carp on Thursday, bringing it home, putting it in the bathtub when I was a kid. I played with it in the evening. When I went to sleep, the next day it wasn't there. And the next night, we had gefilte fish.
Cuối cùng, Jay đưa tôi về quê tôi, Toronto, Canada. Và đây là 1 câu chuyện có thật về bà tôi mua 1 con cá chép vào hôm thứ 5, mang về nhà, thả vào bồn tắm khi tôi còn nhỏ. Tôi chơi với nó vào buổi tối. Sau khi đi ngủ, ngày hôm sau nó không còn ở đó. Và tối hôm sau, chúng tôi ăn món chả cá.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so I set up this interior for Jay's offices and I made a pedestal for a sculpture. And he didn't buy a sculpture, so I made one. I went around Toronto and found a bathtub like my grandmother's, and I put the fish in. It was a joke.
Nên tôi dựng đồ nội thất này cho văn phòng của Jay tôi làm cái bệ đỡ cho 1 cái tượng điêu khắc. Và cậu ấy không mua 1 cái tượng nên tôi thiết kế luôn 1 cái. Tôi đi khắp Toronto và tìm thấy 1 cái bồn tắm giống hệt cái ở nhà bà tôi. Tôi thả cá vào trong đó. Đùa thôi.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I play with funny people like [Claes] Oldenburg. We've been friends for a long time. And we've started to work on things. A few years ago, we did a performance piece in Venice, Italy, called "Il Corso del Coltello" -- the Swiss Army knife. And most of the imagery is --
Tôi chơi với những người vui tính như Oldenburg. Chúng tôi là bạn đã nhiều năm. Chúng tôi bắt đầu thiết kế các thứ. Cách đây vài năm, chúng tôi thiết kế 1 tác phẩm trưng bày ở Venice, Ý, có tên " Il Corso del Coltello" -- cái dao quân đội Thụy Sĩ. Và cái chính của hình ảnh này là --
(Laughter)
(Tiếng cười)
Claes', but those two little boys are my sons, and they were Claes' assistants in the play. He was the Swiss Army knife. He was a souvenir salesman who always wanted to be a painter, and I was Frankie P. Toronto. P for Palladio. Dressed up like the AT&T building by Claes --
của Claes's, nhưng 2 cậu bé đó là con trai tôi, 2 đứa là phụ tá của Claes trong vở kịch. Anh ta là con dao quân đội Thụy Sĩ. Anh là 1 người bán đồ lưu niệm luôn muốn thành 1 họa sĩ, và tôi là Frankie P. Toronto. P viết tắt cho Palladio. Claes ăn mặc giống tòa nhà AT&T
(Laughter)
(Tiếng cười)
with a fish hat. The highlight of the performance was at the end. This beautiful object, the Swiss Army knife, which I get credit for participating in. And I can tell you -- it's totally an Oldenburg. I had nothing to do with it. The only thing I did was, I made it possible for them to turn those blades so you could sail this thing in the canal, because I love sailing.
với 1 cái mũ con cá. Điểm nổi bật của buổi biểu diễn xuất hiện cuối cùng. Vật xinh đẹp này, con dao quân đội Thụy Sĩ, nhờ đó tôi được ghi nhận đã tham gia vào. Và tôi có thể nói với bạn -- nó hoàn toàn là 1 Oldenburg. Tôi không biết làm gì với nó. Điều duy nhất tôi làm là, tôi làm họ có thể quay những lưỡi đó ra để bạn có thể lái nó trên kênh rạch, vì tôi thích chèo thuyền lắm.
(Laughter)
(Tiếng cười)
We made it into a sailing craft.
Chúng tôi thiết kế nó thành 1 cái thuyền nhỏ.
I've been known to mess with things like chain link fencing. I do it because it's a curious thing in the culture, when things are made in such great quantities, absorbed in such great quantities, and there's so much denial about them. People hate it. And I'm fascinated with that, which, like the paper furniture -- it's one of those materials. And I'm always drawn to that. And so I did a lot of dirty things with chain link, which nobody will forgive me for. But Claes made homage to it in the Loyola Law School. And that chain link is really expensive. It's in perspective and everything.
Tôi được biết đến với khả năng can thiệp vào những thứ như hàng rào dây xích. Tôi làm vì thấy tò mò với nền văn hóa nơi các thứ được làm theo số lượng lớn, miệt mài trong những số lượng lớn như thế, và có nhiều người từ chối chúng, Người ta ghét nó. Và tôi thích thú với đồ đạc bằng giấy -- đó là 1 trong các vật liệu này. Và tôi luôn say mê nó. Thế nên tôi làm nhiều thứ bẩn bẩn với dây xích mà chẳng ai tha thứ cho tôi vì điều đó. nhưng Claes cho phép điều đó trong trường luật Loyola. Và cái dây xích đó thực sự đắt đỏ. Nó theo luật phối cảnh gần xa.
And then we did a camp together for children with cancer. And you can see, we started making a building together. Of course, the milk can is his. But we were trying to collide our ideas, to put objects next to each other. Like a Morandi -- like the little bottles -- composing them like a still life. And it seemed to work as a way to put he and I together.
Sau đó chúng tôi thiết kế 1 cái trại cho trẻ em với ung thư. Chúng tôi bắt tay thiết kế 1 tòa nhà cùng nhau. Tất nhiên, lon sữa là của anh ta. Nhưng chúng tôi cố gắng khiến ý tưởng xung đột, để đặt các vật thể cạnh nhau. Giống những chai nhỏ giống Morandi, sắp đặt chúng như 1 cuộc đời phẳng lặng. Và nó hiệu quả như cách đặt anh ấy và tôi với nhau.
Then Jay Chiat asked me to do this building on this funny lot in Venice, and I started with this three-piece thing, and you entered in the middle. And Jay asked me what I was going to do with the piece in the middle. And he pushed that. And one day I had a -- oh, well, the other way. I had the binoculars from Claes, and I put them there, and I could never get rid of them after that. Oldenburg made the binoculars incredible when he sent me the first model of the real proposal. It made my building look sick. And it was this interaction between that kind of, up-the-ante stuff that became pretty interesting. It led to the building on the left. And I still think the Time magazine picture will be of the binoculars, you know, leaving out the -- what the hell.
Sau đó Jay Chiat yêu cầu tôi thiết kế tòa nhà này trên mành đất ngộ ngộ này ở Venice, tôi bắt đầu với thứ 3 mảnh này, và bạn đi vào giữa. Jay hỏi tôi sẽ làm gì với cái miếng ở giữa. Và anh ấy đẩy nó. Và 1 ngày , tôi có 1 -- chà, cách khác. Tôi có ống nhòm từ Claes, và đặt chúng ở đó, tôi không bao giờ có thể từ bỏ chúng sau này. Oldenburg làm cho những chiếc ống nhòm này thật tuyệt vời khi anh ta gửi cho tôi mô hình của bản đề xuất đầu tiên. Nó làm tòa nhà của tôi trông gớm chết được. Và đó là sự tương tác giữa đại loại là thứ dẫn dắt, trở nên vô cùng thú vị. Nó dẫn tới tòa nhà bên trái. Và tôi vẫn nghĩ bức hình tạp chí Time sẽ là những ống nhòm, rời khỏi -- cái quái gì.
I use a lot of metal in my work, and I have a hard time connecting with the craft. The whole thing about my house, the whole use of rough carpentry and everything, was the frustration with the crafts available. I said, "If I can't get the craft that I want, I'll use the craft I can get." There were plenty of models for that, in Rauschenberg and Jasper Johns, and many artists who were making beautiful art and sculpture with junk materials. I went into the metal because it was a way of building a building that was a sculpture. And it was all of one material, and the metal could go on the roof as well as the walls. The metalworkers, for the most part, do ducts behind the ceilings and stuff. I was given an opportunity to design an exhibit for the metalworkers' unions of America and Canada in Washington, and I did it on the condition that they become my partners in the future and help me with all future metal buildings, etc. etc. And it's working very well to have these people, these craftsmen, interested in it. I just tell the stories. It's a way of connecting, at least, with some of those people that are so important to the realization of architecture.
Tôi sử dụng nhiều kim loại cho công trình Tôi phải rất khó khăn khi kết hợp với đồ mỹ nghệ. Toàn bộ ngôi nhà của tôi, sử dụng đồ mộc thô, và các chi tiết thủ công mỹ nghệ vốn có thật nản. Tôi nói, "Nếu tôi không thể có kiểu mỹ nghệ mong muốn, Tôi sẽ sử dụng kiểu mỹ nghệ tôi có thể có," Và mẫu mã rất đa dạng, Rauschenberg , Jasper Johns và nhiều nghệ sĩ khác đang tạo ra các tác phẩm nghệ thuật và điêu khắc đẹp bằng phế liệu. Tôi đi sâu vào kim loại vì đó là 1 phương thức xây dựng công trình thành 1 tác phẩm điêu khắc. Và nó là vua của các loại vật liệu kim loại có thể dùng làm mái cũng như tường. Các công nhân luyện kim, chủ yếu làm ống dẫn đằng sau trần nhà và các đồ điện. Tôi đã có cơ hội thiết kế 1 cuộc triển lãm cho hiệp hội công nhân luyện kim Mỹ và Canada ở Washington, với điều kiện họ sẽ hợp tác với tôi trong tương lai, giúp tôi xây dựng các tòa nhà kim loại trong tương lai,.. Và mọi chuyện đều suôn sẻ khi thu hút những nghệ nhân này vào công việc. Tôi kể chuyện để kết nối, ít nhất là với 1 số người trong số họ những câu chuyện rất quan trọng để nhận ra kiến trúc.
The metal continued into a building -- Herman Miller, in Sacramento. And it's just a complex of factory buildings. And Herman Miller has this philosophy of having a place -- a people place. I mean, it's kind of a trite thing to say, but it is real that they wanted to have a central place where the cafeteria would be, where the people would come and where the people working would interact. So it's out in the middle of nowhere, and you approach it. It's copper and galvanize. I used the galvanize and copper in a very light gauge, so it would buckle. I spent a lot of time undoing Richard Meier's aesthetic. Everybody's trying to get the panels perfect, and I always try to get them sloppy and fuzzy. And they end up looking like stone. This is the central area. There's a ramp.
Kim loại tiếp tục được sử dụng trong 1 tòa nhà --Herman Miller ở Sacramento. Đó là 1 tổ hợp các khu xưởng cao tầng. Và Herman Miller có triết lý về việc có 1 nơi -- 1 nơi cho mọi người. Ý tôi là, điều này nghe có vẻ sáo mòn, nhưng đúng là họ muốn 1 địa điểm trung tâm có quán cà phê cho mọi người đến và là nơi các công nhân trò chuyện với nhau. Nó nằm ở đâu cũng được và bạn có thể tìm đến. Làm bằng đồng và mạ kẽm. Tôi sử dụng đồng và kẽm mạ ở hàm lượng ít thôi để nó cong xuống. Tôi dành nhiều thời gian phá bỏ tính thẩm mỹ của Richard Meier. Mọi người cố gắng làm các ván ô hoàn hảo, và tôi luôn cố làm cho chúng trông cẩu thả và mờ nhạt. Cuối cùng trông chúng giống hòn đá. Đây là khu vực trung tâm. Có 1 bờ dốc thoai thoải.
And that little dome in there is a building by Stanley Tigerman. Stanley was instrumental in my getting this job. And when I was awarded the contract I, at the very beginning, asked the client if they would let Stanley do a cameo piece with me. Because these were ideas that we were talking about, building things next to each other, making -- it's all about [a] metaphor for a city, maybe. And so Stanley did the little dome thing. And we did it over the phone and by fax. He would send me a fax and show me something. He'd made a building with a dome and he had a little tower. I told him, "No, no, that's too ongepotchket. I don't want the tower." So he came back with a simpler building, but he put some funny details on it, and he moved it closer to my building. And so I decided to put him in a depression. I put him in a hole and made a kind of a hole that he sits in. And so then he put two bridges -- this all happened on the fax, going back and forth over a couple of weeks' period. And he put these two bridges with pink guardrails on it. And so then I put this big billboard behind it. And I call it, "David and Goliath." And that's my cafeteria.
1 cái mái vòm nhỏ trong tòa nhà do Stanley Tigerman thiết kế. Stanley là phương tiện giúp tôi có được công việc này. Khi giành được hợp đồng, ngay từ đầu tôi đã hỏi khách hàng liệu họ có để stanley làm 1 phòng có mái vòm với tôi không. Vì đó là những ý tưởng chúng tôi đang nói đến, xây dựng các tòa nhà cạnh nhau, đó có lẽ là hình ảnh ẩn dụ về 1 thành phố. Thế là Stanley đã thiết kế cái mái vòm nhỏ này. Chúng tôi bàn nhau qua điện thoại và fax. Anh ấy gửi fax , cho tôi xem cái đó. Anh ấy sẽ làm 1 tòa nhà mái vòm với 1 cái tháp nhỏ. Tôi bảo anh, " Hở? Thế thì hoành tráng quá. Tôi không muốn 1 cái tháp đâu." Thế là anh quay lại với 1 tòa nhà đơn giản hơn, kèm theo các chi tiết hài hước và di chuyển nó gần hơn tới tòa nhà của tôi. Và tôi quyết định đặt anh ấy vào chỗ lõm. Tôi đặt anh vào 1 cái hố cho anh ngồi vào trong đó. Do vậy anh ấy đặt 2 cái cầu -- anh đã gửi qua fax, 2 bên gửi đi gửi lại hơn 2 tuần. Và anh đặt 2 cái cầu với thành lan can màu hồng. Sau đó tôi đặt cái bảng thông báo lớn này đằng sau nó. Tôi gọi nó là, "David và Goliath." Đó là quán cà phê của tôi.
In Boston, we had that old building on the left. It was a very prominent building off the freeway, and we added a floor and cleaned it up and fixed it up and used the kind of -- I thought -- the language of the neighborhood, which had these cornices, projecting cornices. Mine got a little exuberant, but I used lead copper, which is a beautiful material, and it turns green in 100 years. Instead of, like, copper in 10 or 15. We redid the side of the building and re-proportioned the windows so it sort of fit into the space. And it surprised both Boston and myself that we got it approved, because they have very strict kind of design guideline, and they wouldn't normally think I would fit them. The detailing was very careful with the lead copper and making panels and fitting it tightly into the fabric of the existing building.
Ở Boston chúng tôi có tòa nhà cũ đó bên trái. Đó là 1 tòa nhà nổi bật trên xa lộ, chúng tôi thêm 1 sàn, dọn dẹp và sửa sang lại sử dụng-- tôi nghĩ --ngôn ngữ của vùng lân cận, có các mái đua nhô ra. Tôi biết khá nhiều kim loại nhưng tôi sử dụng đồng pha chì, 1 vật liệu rất đẹp, sau 100 năm nó chuyển sang màu xanh. Thay vào đó, đồng sẽ chuyển màu sau 10 đến 15 năm. Chúng tôi làm lại các phía của tòa nhà và điều chỉnh kích cỡ các cửa sổ để nó phù hợp với không gian. Cả tôi và Boston đều ngạc nhiên khi thiết kế được chấp thuận, vì họ rất nghiêm khắc về quy cách thiết kế, thường thì họ chả bao giờ nghĩ tôi phù hợp với họ. Vật liệu đồng pha chì phải rất cẩn thận đến từng chi tiết kể cả làm các ván ô, kết hợp chặt chẽ với kết cấu của tòa nhà.
In Barcelona, on Las Ramblas for some film festival, I did the Hollywood sign going and coming, made a building out of it, and they built it. I flew in one night and took this picture. But they made it a third smaller than my model without telling me.
Ở Barcelona, Las Ramblas Tôi làm biển hiệu Hollywood đến và đi, thiết kế 1 tòa nhà của nó và họ xây dựng nó. Tôi bay đến đó trong đêm và chụp bức ảnh này. Nhưng họ đã xây nó nhỏ hơn 1/3 lần so với mô hình của tôi mà chẳng nói gì với tôi hết.
And then more metal and some chain link in Santa Monica -- a little shopping center.
Và sau đó thêm nhiều kim loại và dây xích ở Santa Monica -- 1 trung tâm mua sắm nhỏ.
And this is a laser laboratory at the University of Iowa, in which the fish comes back as an abstraction in the back. It's the support labs, which, by some coincidence, required no windows. And the shape fit perfectly. I just joined the points. In the curved part there's all the mechanical equipment. That solid wall behind it is a pipe chase -- a pipe canyon -- and so it was an opportunity that I seized, because I didn't have to have any protruding ducts or vents or things in this form. It gave me an opportunity to make a sculpture out of it.
Và đây là phòng thí nghiệm tia laze tại trường Đại học Iowa, nơi cá trở lại với ý nghĩa trừu tượng. Đó là phòng thí nghiệm hỗ trợ, thật trùng hợp, yêu cầu không có cửa sổ. Và hình dạng hoàn toàn phù hợp. Và tôi nối các điểm với nhau. Ở phần cong có tất cả các thiết bị cơ khí. Và đằng sau cái tường chắc chắn là 1 đường rãnh đặt ống nước -- như 1 khe hẻm và đây chính là cơ hội cần nắm bắt, vì tôi không phải có các đường ống thò ra dưới dạng này. Nó tạo cơ hội làm 1 công trình điêu khắc từ đó.
This is a small house somewhere. They've been building it so long I don't remember where it is. It's in the West Valley. And we started with the stream and built the house along the stream -- dammed it up to make a lake. These are the models. The reality, with the lake -- the workmanship is pretty bad. And it reminded me why I play defensively in things like my house. When you have to do something really cheaply, it's hard to get perfect corners and stuff. That big metal thing is a passage, and in it is -- you go downstairs into the living room and then down into the bedroom, which is on the right. It's kind of like a whole built town.
Đây là 1 ngôi nhà nhỏ. Họ xây dựng nó lâu đến nỗi tôi không nhớ nổi nó ở đâu nữa. Nó ở Thung lũng phía Tây. Chúng tôi bắt đầu với dòng suối này xây dựng ngôi nhà ven suối -- làm đập để tạo 1 cái hồ. Đây là các mô hình. Thực tế, với cái hồ -- tay nghề công nhân khá thấp. Và nó làm tôi nhớ lại tại sao tôi chơi phòng thủ với những thứ như nhà mình. Khi bạn phải làm thứ gì đó rẻ tiền, thật khó mà làm 1 căn nhà hoàn hảo được. Cái thứ kim loại lớn này là 1 hành lang, bạn đi xuống tầng vào phòng khách sau đó xuống phòng ngủ, bên phải. Nó giống cả 1 thị trấn được xây dựng.
I was asked to do a hospital for schizophrenic adolescents at Yale. I thought it was fitting for me to be doing that.
Tôi được yêu cầu thiết kế 1 bệnh viện cho thiếu niên tâm thần phân liệt tại Yale. Và tôi nghĩ công trình này rất phù hợp với tôi.
This is a house next to a Philip Johnson house in Minnesota. The owners had a dilemma -- they asked Philip to do it. He was too busy. He didn't recommend me, by the way.
Đay là ngôi nhà bên cạnh nhà Philip Jonhson ở Minnesota. Chủ nhà gặp vướng mắc và yêu cầu Philip giải quyết. Nhưng anh ấy quá bận. Tuy vậy anh ấy không giới thiệu tôi.
(Laughter)
(Tiếng cười)
We ended up having to make it a sculpture, because the dilemma was, how do you build a building that doesn't look like the language? Is it going to look like this beautiful estate is sub-divided? Etc. etc. You've got the idea. And so we finally ended up making it. These people are art collectors. And we finally made it so it appears very sculptural from the main house and all the windows are on the other side. And the building is very sculptural as you walk around it. It's made of metal and the brown stuff is Fin-Ply -- it's that formed lumber from Finland. We used it at Loyola on the chapel, and it didn't work. I keep trying to make it work. In this case we learned how to detail it.
Cuối cùng chúng tôi phải làm 1 tác phẩm điêu khắc, vì vấn đề là, làm thế nào để xây 1 tòa nhà trông không giống ngôn ngữ? Liệu nó có giống dinh thự đẹp đẽ bị chia nhỏ này không? etc... Thế là bạn biết rồi đấy. Chúng tôi cuối cùng cũng hoàn thành. Những người này là nhà sưu tập tác phẩm hội họa. Cuối cùng chúng tôi cũng khiến nó có vẻ rất điêu khắc từ nhà chính và tất cả cửa sổ phía bên kia. Khi bạn đi xung quanh sẽ thấy tòa nhà rất điêu khắc. Nó làm bằng kim loại và thứ màu nâu là Fin-Ply tạo ra gỗ xẻ từ Phần Lan. Chúng tôi dùng nó ở Loyola, ở 1 câu lạc bộ nhưng không ổn lắm. Tôi kiên trì khắc phục vấn đề đó. Qua trường hợp này, chúng tôi học được cách chi tiết hóa nó.
In Cleveland, there's Burnham Mall, on the left. It's never been finished. Going out to the lake, you can see all those new buildings we built. And we had the opportunity to build a building on this site. There's a railroad track. This is the city hall over here somewhere, and the courthouse. And the centerline of the mall goes out. Burnham had designed a railroad station that was never built, and so we followed. Sohio is on the axis here, and we followed the axis, and they're two kind of goalposts. And this is our building, which is a corporate headquarters for an insurance company. We collaborated with Oldenburg and put the newspaper on top, folded. The health club is fastened to the garage with a C-clamp, for Cleveland.
Ở Cleveland, có con phố buôn bán Burnham, bên trái. Nó chưa bao giờ được hoàn thành. Đi ra đến hồ, bạn có thể thấy những tòa nhà chúng tôi đã xây dựng. Và chúng tôi có cơ hội xây dựng 1 tòa nhà ở khu vực này. có 1 đường tàu hỏa. Đây là tòa thị chính thành phố, và tòa án. Và đường trung tâm của khu buôn bán ra ngoài. Burnham đã thiết kế 1 ga tàu nhưng chưa xây dựng, và thế là chúng tôi đi theo đó. Sohio nằm trên trục này, chúng tôi đi theo trục, chúng là 2 loại cột gôn. Và đây là tòa nhà của chúng tôi, là trụ sở chính của 1 công ty bảo hiểm. Chúng tôi kết hợp với Oldenburg, đặt 1 tờ báo lên đỉnh, gập lại. Câu lạc bộ sức khỏe gắn chặt với gara bằng cái kẹp chữ C, tượng trưng cho Cleveland.
(Laughter)
(Tiếng cười)
You drive down. So it's about a 10-story C-clamp. And all this stuff at the bottom is a museum, and an idea for a very fancy automobile entry. This owner has a pet peeve about bad automobile entries. And this would be a hotel. So, the centerline of this thing -- we'd preserve it, and it would start to work with the scale of the new buildings by Pelli and Kohn Pederson Fox, etc., that are underway. It's hard to do high-rise. I feel much more comfortable down here.
Bạn lái xe xuống dưới. Nó là 1 cái kẹp chữ C 10 tầng. Và ở dưới đáy là 1 bảo tàng, và 1 ý tưởng cho lối vào cho ô tô rất thích mắt. Người chủ này không thích những lối vào cho xe tồi. Và cái này sẽ là 1 khách sạn. Đường trung tâm của nó -- chúng tôi giữ lại, và nó sẽ bắt đầu làm việc với tỉ lệ của các tòa nhà mới bởi Pelli và Kohn Pederson Fox, etc.., đang được thi công. Thật khó khi thiết kế nhà cao chọc trời. Tôi thấy thoải mái hơn nhiều khi ở dưới này.
This is a piece of property in Brentwood. And a long time ago, about '82 or something, after my house -- I designed a house for myself that would be a village of several pavilions around a courtyard -- and the owner of this lot worked for me and built that actual model on the left. And she came back, I guess wealthier or something -- something happened -- and asked me to design a house for her on this site. And following that basic idea of the village, we changed it as we got into it. I locked the house into the site by cutting the back end -- here you see on the photographs of the site -- slicing into it and putting all the bathrooms and dressing rooms like a retaining wall, creating a lower level zone for the master bedroom, which I designed like a kind of a barge, looking like a boat. And that's it, built. The dome was a request from the client. She wanted a dome somewhere in the house. She didn't care where. When you sleep in this bedroom, I hope -- I mean, I haven't slept in it yet. I've offered to marry her so I could sleep there, but she said I didn't have to do that. But when you're in that room, you feel like you're on a kind of barge on some kind of lake. And it's very private. The landscape is being built around to create a private garden. And then up above there's a garden on this side of the living room, and one on the other side.
Đây là 1 phần gia sản ở Brentwood. Cách đây khá lâu, vào những năm 82 hay gì đó, sau khi nhà tôi -- Tôi đã thiết kế 1 ngôi nhà cho mình Đó là 1 ngôi làng với 1 vài gian nhà xung quanh cái sân trong -- và chủ mảnh đất này làm việc cho tôi và xây dựng mô hình thực bên trái. Và bà ấy trở lại, Tôi đoán bà ấy giàu có hơn hay gì đó -- chuyện gì đó đã xảy ra-- và yêu cầu tôi thiết kế 1 ngôi nhà cho bà ấy ở khu vực này. Và tiếp sau ý tưởng cơ bản về ngôi làng, chúng tôi thay đổi nó khi đi xâu thêm vào nó. Tôi ghìm chặt ngôi nhà vào khu vực bằng cách cắt phần sau -- đây, bạn thấy trên các bức ảnh chụp khu vực -- cắt nhỏ ra và sắp xếp phòng tắm, buồng rửa mặt giống 1 bức tường chắn, tạo ra 1 khu vực thấp hơn cho phòng ngủ, mà tôi thiết kế như 1 cái thuyền rồng, trong giống 1 cái thuyền. Và thế là xong. Mái vòm là yêu cầu từ khách hàng Cô ấy muốn có 1 mái vòm ở đâu đó trong nhà. Cô ấy chẳng quan tâm nó ở đâu. Khi bạn ngủ trong phòng ngủ này, tôi hy vọng -- Ý tôi là tôi vẫn chưa ngủ ở đó. Tôi phải cầu hôn cô ấy để có thể ngủ ở đó, nhưng cô ấy nói tôi không phải làm thế. Nhưng khi bạn ở trong căn phòng đó bạn cảm thấy bạn đang bồng bềnh trên thuyền rồng, trên cái hồ nào đó. Và nó rất riêng tư. cảnh vật được xây dựng xung quanh để tạo 1 khu vườn riêng tư. Và bên trên có 1 khu vườn bên phía này phòng khách, và 1 cái ở phía bên kia.
These aren't focused very well. I don't know how to do it from here. Focus the one on the right. It's up there. Left -- it's my right.
Những cái này không được tập trung tốt lắm. Tôi không biết làm sao để tập trung từ đây. Tập trung vào cái vườn bên phải. Nó ở trên này. Bên trái- là bên phải của tôi.
Anyway, you enter into a garden with a beautiful grove of trees. That's the living room. Servants' quarters. A guest bedroom, which has this dome with marble on it. And then you enter into the living room and then so on. This is the bedroom. You come down from this level along the stairway, and you enter the bedroom here, going into the lake. And the bed is back in this space, with windows looking out onto the lake. These Stonehenge things were designed to give foreground and to create a greater depth in this shallow lot. The material is lead copper, like in the building in Boston. And so it was an intent to make this small piece of land -- it's 100 by 250 -- into a kind of an estate by separating these areas and making the living room and dining room into this pavilion with a high space in it. And this happened by accident that I got this right on axis with the dining room table. It looks like I got a Baldessari painting for free. But the idea is, the windows are all placed so you see pieces of the house outside. Eventually this will be screened -- these trees will come up -- and it will be very private. And you feel like you're in your own kind of village.
Dù sao, bạn đi vào 1 khu vườn với tán cây xinh đẹp. Đó là phòng khách. Nhà ở của người giúp việc. Một phòng ngủ cho khách, có mái vòm với đá cẩm thạch. Và tiếp theo bạn vào phòng khách và sau đó tiếp tục. Đây là phòng ngủ. Bạn đi xuống từ đây dọc theo cầu thang vào phòng ngủ ở đây, đi vào cái hồ. Giường ngủ đặt phía sau trong không gian này, với cửa sổ nhìn ra hồ. Những thứ trông giống Stonehenge được thiết kể để tạo mặt tiền và hình thành bề sâu rộng hơn trong khu đất nông này. Vật liệu là hợp kim Cu-Pb, giống tòa nhà ở Boston. Tôi dự định xây dựng miếng đất nhỏ này -- có S 100x250 -- thành đất xây dựng bằng cách chia các khu vực này và làm phòng khách và phòng ăn trong nhà này với 1 không gian cao trong đó. Tình cờ là tôi có nó đúng trên trục với bàn ăn. Trông như tôi có bức tranh Baldessari miễn phí. Nhưng ý tưởng là, các cửa sổ đều được lắp sao cho nhìn thấy các phần khác của phía ngoài ngôi nhà. Cái này sẽ được che đi -- các cây này sẽ lớn lên -- và tạo không gian riêng tư. Và bạn thấy như đang ở trong ngôi làng riêng của mình.
This is for Michael Eisner -- Disney. We're doing some work for him.
Cái này cho Micheal Eisner -- Disney. Chúng tôi làm việc cho anh ta.
And this is in Anaheim, California, and it's a freeway building. You go under this bridge at about 65 miles an hour, and there's another bridge here. And you're through this room in a split second, and the building will sort of reflect that. On the backside, it's much more humane -- entrance, dining hall, etc. And then this thing here -- I'm hoping as you drive by you'll hear the picket fence effect of the sound hitting it. Kind of a fun thing to do.
Và đây là ở Anaheim, California, và đó là 1 tòa nhà xa lộ. Bạn đi dưới cây cầu này với vận tốc khoảng 65 dặm/giờ, và có 1 cây cầu khác nữa ở đây. Và bạn đi qua căn phòng này trong phút chốc, và tòa nhà sẽ phản ánh điều đó. Ở phần sau, mang tính nhân văn nhiều hơn -- lối vào, sảnh phòng tiệc, etc.. Và tiếp đó là cái này -- Tôi hy vọng khi bạn lái xe đến bạn sẽ nghe thấy hiệu ứng hành rào cọc của âm thanh đập vào nó. Khá là vui.
I'm doing a building in Switzerland, Basel, which is an office building for a furniture company. And we struggled with the image. These are the early studies, but they have to sell furniture to normal people, so if I did the building and it was too fancy, then people might say, "Well, the furniture looks OK in his thing, but no, it ain't going to look good in my normal building." So we've made a kind of pragmatic slab in the second phase here, and we've taken the conference facilities and made a villa out of them so that the communal space is very sculptural and separate. And you're looking at it from the offices and you create a kind of interaction between these pieces.
Tôi đang thiết kế 1 tòa nhà ở Thụy Điển, Basel, là 1 tòa cao ốc văn phòng cho 1 công ty đồ gỗ. Và chúng tôi đấu tranh với hình ảnh. Họ bán đồ gỗ nội thất cho người bình thường nên nếu tôi thiết kế tòa nhà quá hoành tráng, thì mọi người sẽ nói," Ừ thì đồ đạc trông hợp với nhà của anh ta, nhưng nó sẽ chẳng ra gì trong ngôi nhà bình thường của tôi." Cho nên chúng tôi làm 1 tấm thực dụng ở pha thứ 2 ở đây, và chúng tôi lấy các cơ sở hội thảo và làm 1 villa từ đó để không gian chung mang tính điêu khắc và riêng biệt. Và bạn nhìn villa đó từ các văn phòng, hình thành sự tương tác giữa các văn phòng.
This is in Paris, along the Seine. Palais des Sports, the Gare de Lyon over here. The Minister of Finance -- the guy that moved from the Louvre -- goes in here. There's a new library across the river. And back in here, in this already treed park, we're doing a very dense building called the American Center, which has a theater, apartments, dance school, an art museum, restaurants and all kinds of -- it's a very dense program -- bookstores, etc. In a very tight, small -- this is the ground level. And the French have this extraordinary way of screwing things up by taking a beautiful site and cutting the corner off. They call it the plan coupe. And I struggled with that thing -- how to get around the corner.
Đây là ở Paris, dọc sông Seine. Palais des Sports, ga Lyon đằng kia. Bộ trưởng tài chính rời Louvre đến đây. Có 1 thư viện mới dọc sông Seine. Và trở lại đây, ở đây đã có 1 công viên cây xang rồi, chúng tôi đang làm 1 tòa nhà khép kín có tên American Center, có nhà hát, các căn hộ, trường múa, 1 bảo tàng nghệ thuật, nhà hàng và các thứ khác -- đó là 1 chương trình khép kín -- hàng sách, etc... Trong 1 không gian nhỏ -- đây là mặt nền. Và người Pháp có phương pháp này để vặn xoắn các thứ, thật phi thường bằng cách lấy 1 khu vực đẹp và cắt phần cạnh đi. Họ gọi đó là kế hoạch cắt bớt. Và điều đó gây khó khăn cho tôi -- làm sao để tránh được góc đó.
These are the models for it. I showed you the other model, the one -- this is the way I organized myself so I could make the drawing -- so I understood the problem. I was trying to get around this plan coupe -- how do you do it? Apartments, etc. And these are the kind of study models we did. And the one on the left is pretty awful. You can see why I was ready to commit suicide when this one was built. But out of it came finally this resolution, where the elevator piece worked frontally to this, parallel to this street, and also parallel to here. And then this kind of twist, with this balcony and the skirt, kind of like a ballerina lifting her skirt to let you into the foyer. The restaurants here -- the apartments and the theater, etc. So it would all be built in stone, in French limestone, except for this metal piece. And it faces into a park. And the idea was to make this express the energy of this. On the side facing the street it's much more normal, except I slipped a few mansards down, so that coming on the point, these housing units made a gesture to the corner. And this will be some kind of high-tech billboard. If any of you guys have any ideas for it, please contact me. I don't know what to do.
Đây là các mô hình cho nó. Tôi đã cho các bạn xem mô hình còn lại, mô hình -- đây là cách tôi tự tổ chức để có thể thiết kế các bản vẽ -- cho nên tôi đã hiểu được vấn đề. Tôi đang cố gắng tránh kế hoạch cắt bớt này-- bạn làm thế nào đây? Các căn hộ, etc... Và đây là loại mô hình nghiên cứu chúng tôi đã làm. Mô hình bên tay trái khá kinh khủng. Bạn có thể hiểu tại sao tôi sẵn sàng tự tử nếu mô hình này được xây dựng. Nhưng cuối cùng giải pháp này ra đời, nơi thang máy đặt ở trước cái này, song song với con phố, và song song với chỗ này. Tiếp đến là khúc quanh này, cùng với ban công và vòng bao này, giống 1 diễn viên ba lê nhấc váy lên, và tôi đi vào phòng giải lao. Các nhà hàng ở đây -- căn hộ và rạp hát, etc... Vậy, nó sẽ được xây toàn bằng đá, bằng đá vôi Pháp, ngoại trừ 1 phần nhỏ bằng kim loại này. Và nó đối diện 1 công viên. Và ý tưởng là khiến cái này thể hiện được năng lượng của nó. Ở phía đối diện với con phố, nó bình thường hơn nhiều, ngoại trừ tôi làm 1 vài mái hai mảng nghiêng xuống, và thế là các đơn vị nhà ở này tạo dáng điệu cho cái góc. Và đây sẽ là bảng xếp hạng công nghệ cao. Nếu bất cứ bạn nào có ý tưởng gì cho nó, xin hãy liên lạc với tôi. Tôi không biết phải làm gì.
Jay Chiat is a glutton for punishment, and he hired me to do a house for him in the Hamptons. And it's got a fish. And I keep thinking, "This is going to be the last fish." It's like a drug addict. I say, "I'm not going to do it anymore -- I don't want to do it anymore -- I'm not going to do it." And then I do it.
Jay Chiat là 1 tay thích trừng phạt, và anh ta thuê tôi xây 1 ngôi nhà cho anh ta ở Hamptons. Và nó có 1 con cá. Và tôi cứ nghĩ, " Đây sẽ là con cá cuối cùng." Nó như là nghiện thuốc phiện. Tôi nói là tôi sẽ không làm nó nữa -- Tôi không muốn làm nữa -- Tôi sẽ không làm. Và sau đó tôi đã làm.
(Laughter)
(Tiếng cười)
There it is. But it's the living room. And this piece here is -- I don't know what it is. I just added it so that we'd have enough money in the budget so we could take something out.
Nó đây này. Nhưng đó là phòng khách. Và cái này -- Tôi còn chẳng biết nó là cái gì. Tôi chỉ thêm nó vào để chúng tôi có đủ tiền trong ngân quỹ dành cho chi phí 1 số thứ.
(Applause)
(Vỗ tay)
This is Euro Disney, and I've worked with all of the guys that presented to you earlier. We've had a lot of fun working together. I think I'm from Mars for them, and they are for me, but somehow we all manage to work together, and I think, productively. So far. This is a shopping thing. You come into the Magic Kingdom and the hotel that Tony Baxter's group is doing out here. And then this is a kind of a shopping mall, with a rodeo and restaurants. And another restaurant. What I did -- because of the Paris skies being quite dull, I made a light grid that's perpendicular to the train station, to the route of the train. It looks like it's kind of been there, and then crashed all these simpler forms into it. The light grid will have a light, be lit up at night and give a kind of light ceiling. In Switzerland -- Germany, actually -- on the Rhine across from Basel, we did a furniture factory and a furniture museum.
Đây là EuroDisney, và tôi đã làm việc cùng các anh chàng đã giới thiệu với các bạn trước đó. Chúng tôi làm việc cùng nhau rất vui vẻ. Tôi nghĩ đối với họ, tôi là người sao Hỏa, và đối với tôi, họ cũng kỳ quái như người ngoài hành tinh vậy. Nhưng không hiểu sao chúng tôi đều làm việc rất ăn ý, và có thể nói là hiệu quả. Cho tới nay. Đây là nơi mua bán. Bạn vào Magic Kingdom và khách sạn mà nhóm của Tony Baxter đang làm việc ở đó -- tiếp theo, đây là 1 loại khu phố thương mại, với 1 nơi tập trung vật nuôi đê đóng dấu và các nhà hàng. Và 1 nhà hàng khác nữa. Những gì tôi đã làm -- vì bầu trời Paris khá ảm đạm, Tôi đã làm 1 tấm lưới đèn vuông góc với ga tàu, với tuyến đường sắt. Trông như là nó đã ở đó, và phá vỡ tất cả các dạng đơn giản hơn này. Tấm lưới sẽ có đèn chiếu sáng suốt đêm và tạo ra trần ánh sáng. Ở Thụy Sĩ --Đức, thật ra là ngang sông Rhine từ Basel, chúng tôi xây dựng 1 nhà máy và 1 bảo tàng đồ nội thất.
And I tried to -- there's a Nick Grimshaw building over here, there's an Oldenburg sculpture over here -- I tried to make a relationship urbanistically. And I don't gave good slides to show -- it's just been completed -- but this piece here is this building, and these pieces here and here. And as you pass by it's always part -- you see it as all of these pieces accrue and become part of an overall neighborhood. It's plaster and just zinc. And you wonder, if this is a museum, what it's going to be like inside? If it's going to be so busy and crazy that you wouldn't show anything, and just wait. I'm so cunning and clever -- I made it quiet and wonderful. But on the outside it does scream out at you a bit. It's actually basically three square rooms with a couple of skylights and stuff. And from the building in the back, you see it as an iceberg floating by in the hills. I know I'm over time. See, that skylight goes down and becomes that one. So it's pretty quiet inside.
Và tôi đã cố gắng --có 1 tòa nhà của Nick Grimshaw ở đằng này, có 1 tác phẩm điêu khắc của Oldenburg đằng này -- Tôi cố gắng tạo 1 mối quan hệ đô thị. Và tôi không có slide đẹp -- nó mới được hoàn thành -- đây là tòa nhà này, và các mảnh ở đây, ở đây nữa. Và khi bạn đi qua nó luôn là 1 phần -- bạn thấy nó là các mảnh ghép lại và trở thành 1 phần của toàn bộ khu vực lân cận. Đó là thạch cao và kẽm. Và bạn phân vân nếu đây là 1 thư viện, thì bên trong sẽ có gì? Nếu nó sẽ bận rộn và điên rồ đến nỗi bạn sẽ chẳng trưng bày cái gì, và chỉ cần đợi nào. Tôi thật khéo léo và thông minh -- Tôi đã thiết kế nó yên tĩnh và tuyệt vời. Nhưng ở bên ngoài bạn sẽ thấy nó ồn ào 1 chút. Về cơ bản nó có 3 phòng vuông với 2 cửa sổ trên mái nhà và các thứ khác. Và từ tòa nhà đằng sau, bạn thấy nó giống 1 tảng băng trôi trên đồi. Tôi biết tôi đã vượt quá thời gian. Thấy chưa, cái cửa sổ ở mái đó hạ xuống và trở thành cái đó. Nên bên trong bảo tàng khá yên tĩnh.
This is the Disney Hall -- the concert hall. It's a complicated project. It has a chamber hall. It's related to an existing Chandler Pavilion that was built with a lot of love and tears and caring. And it's not a great building, but I approached it optimistically, that we would make a compositional relationship between us that would strengthen both of us. And the plan of this -- it's a concert hall. This is the foyer, which is kind of a garden structure. There's commercial at the ground floor. These are offices, which, really, in the competition, we didn't have to design. But finally, there's a hotel there. These were the kind of relationships made to the Chandler, composing these elevations together and relating them to the buildings that existed -- to MOCA, etc.
Đây là Disney Hall -- phòng hòa nhạc. Đó là 1 dự án phức tạp. Nó có 1 phòng đại sảnh. Liên quan tới tòa nhà Chandler Pavilion vốn có được xây dựng bằng tình yêu, nước mắt và sự quan tâm. Và nó thì không phải 1 tòa nhà vĩ đại nhưng tôi đã lạc quan tiếp cận nó, rằng chúng tôi sẽ hình thành 1 mối quan hệ đa chiều giữa chúng tôi và sẽ tạo điều kiện cho 2 bên. Và kế hoạch này-- nó là 1 phòng hòa nhạc. Đây là phòng giải lao, theo cấu trúc 1 khu vườn. Tầng 1 dành cho quảng cáo. Đây là các văn phòng, nhưng do cạnh tranh, nên chúng tôi không phải thiết kế. Nhưng cuối cùng, có 1 khách sạn ở đó. Đây là các mối quan hệ được hình thành với Chandler, sắp xếp các mặt thẳng đứng này với nhau và liên hệ chúng với các tòa nhà vốn có -- với MOCA, etc...
The acoustician in the competition gave us criteria, which led to this compartmentalized scheme, which we found out after the competition would not work at all. But everybody liked these forms and liked the space, and so that's one of the problems of a competition. You have to then try and get that back in some way. And we studied many models. This was our original model. These were the three buildings that were the ideal -- the Concertgebouw, Boston and Berlin. Everybody liked the surround. Actually, this is the smallest hall in size, and it has more seats than any of these because it has double balconies. Our client doesn't want balconies, so -- and when we met our new acoustician, he told us this was the right shape or this was the right shape. And we tried many shapes, trying to get the energy of the original design within an acoustical, acceptable format. We finally settled on a shape that was the proportion of the Concertgebouw with the sloping outside walls, which the acoustician said were crucial to this and later decided they weren't, but now we have them.
Nhà âm học trong cuộc cạnh tranh đưa các tiêu chí cho chúng tôi dẫn đến kế hoạch chia ngăn này, nhưng sau cuộc cạnh tranh, chúng tôi phát hiện ra nó chẳng tác dụng gì. Nhưng ai cũng thích các dạng và không gian đó, và đó là 1 trong các vấn đề của 1 cuộc cạnh tranh. Bạn phải cố thử và mang nó lại . Và chúng tôi nghiên cứu rất nhiều mô hình. Đây là mô hình ban đầu của chúng tôi. Đây là 3 tòa nhà lý tưởng -- tòa Concertgebouw, Boston và Berlin. Mọi người thích khu vực xung quanh. Thực ra đây là phòng có kích cỡ nhỏ nhất về kích thướt, nhưng có nhiều chỗ ngồi nhất vì có các ban công kép. Khách hàng của chúng tôi không muốn có ban công , nên -- và khi chúng tôi gặp người hòa âm mới, ông bảo chúng tôi đây là hình dạng đúng hay đây là hình dạng đúng. Và chúng tôi đã thử nhiều hình dạng, cố gắng lấy năng lượng của thiết kế ban đầu trong format âm học có thể chấp nhận. Chúng tôi cuối cùng cũng cố định 1 hình dạng theo tỉ lệ của tòa Concertgebouw với tường ngoài thoai thoải, điều mà nhà âm học nói là mấu chốt cho cái này và sau đó lại quyết định là không quan trọng, nhưng bây giờ chúng tôi đã có chúng.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And our idea is to make the seating carriage very sculptural and out of wood and like a big boat sitting in this plaster room. That's the idea. And the corners would have skylights and these columns would be structural. And the nice thing about introducing columns is they give you a kind of sense of proscenium from wherever you sit, and create intimacy. Now, this is not a final design -- these are just on the way to being -- and so I wouldn't take it literally, except the feeling of the space. We studied the acoustics with laser stuff, and they bounce them off this and see where it all works. But you get the sense of the hall in section. Most halls come straight down into a proscenium. In this case we're opening it back up and getting skylights in the four corners. And so it will be quite a different shape.
Và chúng tôi có ý tưởng điêu khắc toa khách có ghế ngồi bằng gỗ và giống 1 con thuyền lớn ngồi trong phòng thạch cao này. Ý tưởng là thế. Và các góc sẽ có cửa sổ mái và các cột này để chống đỡ kết cấu. Cái hay của cột là, chúng tạo cho bạn cảm giác mặt tiền của sân khấu từ bất cứ chỗ nào bạn ngồi. và tạo cảm giác gần gũi. Nào, đây không phải thiết kế cuối cùng -- chúng sẽ được xây dựng - và vì vậy tôi sẽ không nói đến nó, ngoại trừ cảm giác không gian. Chúng tôi nghiên cứu âm học với tia lase, và chúng bật khỏi cái này và xem nó sẽ có tác dụng tối ưu ở đâu. Nhưng bạn có cảm giác về căn phòng theo từng khu vực. Hầu hết các sảnh đều đi thẳng xuống thành 1 sân khấu. Lần này, chúng tôi sẽ mở nó ngược chiều và mở các cửa sổ mái ở 4 góc. Do đó tạo ra 1 hình dạng khá khác biệt.
(Laughter)
(Tiếng cười)
The original building, because it was frog-like, fit nicely on the site and cranked itself well. When you get into a box, it's harder to do it -- and here we are, struggling with how to put the hotel in. And this is a teapot I designed for Alessi. I just stuck it on there. But this is how I do work. I do take pieces and bits and look at it and struggle with it and cut it away. And of course it's not going to look like that, but it is the crazy way I tend to work.
Tòa nhà ban đầu, vì nó trông giống con ếch, rất hài hòa với khu vực và Thật khó để mà chui vào 1 cái hộp -- và chúng tôi thì đang trong hoàn cảnh đó, mướt mồ hôi để đặt cái khách sạn vào. Và đây là ấm trà tôi đã thiết kế cho Alessi. Tôi chỉ nhét nó lên trên này. Đây là cách làm. Tôi lấy các mảnh, xem xét và cố gắng cắt nó đi. Và tất nhiên nó sẽ trông không giống thế, nhưng đó là cách hơi khùng 1 chút mà tôi muốn làm.
And then finally, in L.A. I was asked to do a sculpture at the foot of Interstate Bank Tower, the highest building in L.A. Larry Halprin is doing the stairs. And I was asked to do a fish, and so I did a snake.
Và cuối cùng, ở L.A tôi được yêu cầu làm 1 tác phẩm điêu khắc tại chân Tháp Ngân Hàng Liên Bang, tòa nhà cao nhất ở L.A. Larry Halprin đang làm phần cầu thang. Và tôi được yêu cầu làm 1 con cá, vì chán làm cá nên tôi làm 1 con rắn.
(Laughter)
(Tiếng cười)
It's a public space, and I made it kind of a garden structure, and you can go in it. It's a kiva, and Larry's putting some water in there, and it works much better than a fish.
Đó là không gian công cộng, và tôi tạo cho nó cấu trúc 1 khu vườn, và bạn có thể vào thư giãn. Đó là 1 căn phòng có 1 phần chìm dưới đất và Larry cho 1 ít nước vào đó, như thế hay hơn 1 con cá.
In Barcelona I was asked to do a fish, and we're working on that, at the foot of a Ritz-Carlton Tower being done by Skidmore, Owings and Merrill. And the Ritz-Carlton Tower is being designed with exposed steel, non-fire proof, much like those old gas tanks. And so we took the language of this exposed steel and used it, perverted it, into the form of the fish, and created a kind of a 19th-century contraption that looks like, that will sit -- this is the beach and the harbor out in front, and this is really a shopping center with department stores. And we split these bridges. Originally, this was all solid with a hole in it. We cut them loose and made several bridges and created a kind of a foreground for this hotel. We showed this to the hotel people the other day, and they were terrified and said that nobody would come to the Ritz-Carlton anymore, because of this fish.
Ở Barcelona tôi được yêu cầu làm 1 con cá, chúng tôi đang làm dự án đó, tại chân Tháp Ritz-Carlton được làm bởi Skidmore, Owings và Merrill. Và Tháp Ritz-Carlton được thiết kế với thép không phủ, chống cháy, giống những chiếc thùng gas cũ này. Thế là chúng tôi lấy cách diễn đạt của loại thép không phủ này, sử dụng nó uốn nó thành hình dạng con cá, và tạo ra 1 chiếc máy kỳ cục của thế kỷ 19 trông giống , và sẽ ngồi trên -- đây là bãi biển và cảng ở phía trước, và đây là trung tâm mua sắm với các cửa hàng. Và chúng tôi tách những cây cầu này ra. Ban đầu, cái này rất rắn chắc với 1 cái lỗ . Chúng tôi cắt ra và làm 1 vài cây cầu, hình thành mặt tiền cho khách sạn này. Chúng tôi mới đây cho mọi người làm việc trong khách sạn xem và họ lo sợ rằng sẽ chẳng ai đến Ritz-Carlton nữa, vì con cá này.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And finally, I just threw these in -- Lou Danziger. I didn't expect Lou Danziger to be here, but this is a building I did for him in 1964, I think. A little studio -- and it's sadly for sale. Time goes on.
Và cuối cùng, tôi mới quẳng những cái này cho --Lou Danziger. Tôi không nghĩ Lou Danziger sẽ ở đây, nhưng đây là tòa nhà tôi làm cho anh ta vào năm 1964. Một studio nhỏ -- tiếc là nó bị bán mất rồi. Thời gian qua đi.
And this is my son working with me on a small fast-food thing. He designed the robot as the cashier, and the head moves, and I did the rest of it. And the food wasn't as good as the stuff, and so it failed. It should have been the other way around -- the food should have been good first. It didn't work.
Và đây là con trai tôi đang cùng tôi chế tạo 1 thứ máy nhỏ cho đồ ăn nhanh. Nó thiết kế con rô bốt làm việc thu ngân, cái đầu di chuyển, và tôi làm phần còn lại của nó. Món ăn không ngon lắm nên nó thất bại. Lẽ ra phải làm cách khác -- thức ăn lẽ ra phải đặt ưu tiên hàng đầu. Nó không hiệu quả.
Thank you very much.
Cảm ơn các bạn rất nhiều.