"Jó napot, pacák" Which, as somebody here must surely know, means "What's up, guys?" in Magyar, that peculiar non-Indo-European language spoken by Hungarians for which, given the fact that cognitive diversity is at least as threatened as biodiversity on this planet, few would have imagined much of a future even a century or two ago. But there it is: "Jó napot, pacák" I said somebody here must surely know, because despite the fact that there aren't that many Hungarians to begin with, and the further fact that, so far as I know, there's not a drop of Hungarian blood in my veins, at every critical juncture of my life there has been a Hungarian friend or mentor there beside me. I even have dreams that take place in landscapes I recognize as the landscapes of Hungarian films, especially the early movies of Miklos Jancso.
Chắc phải có một vài người ở đây biết, "Yo napot, pacak!" có nghĩa là "Có chuyện gì vậy, các bạn?" theo tiếng Magyar, một thứ tiếng hơi kì lạ không thuộc hệ thống ngôn ngữ Ấn-Âu mà người Hungary sử dụng-- cho thấy rằng sự đa dạng về nhận thức ít nhất cũng bị đe doạ như sự đa dạng sinh học trên trái đất này, điều mà ít ai sống ở một hay hai thế kỉ gần đây nghĩ là sẽ trở thành hiện thực. Nhưng nó là như vậy: "Yo napot, pacak!" Tôi nói chắc phải có vài người ở đây biết, bởi vì mặc dù trước hết ở đây không có nhiều người Hungary, và một điều sâu xa hơn, tới một chừng mực mà tôi biết, dù không có một giọt máu Hungary nào trong huyết quản của tôi, nhưng tại mỗi thời điểm trọng đại trong cuộc đời, luôn có một người bạn hay người thầy Hungary ở đây bên cạnh tôi. Tôi thậm chí đã có những giấc mơ được bước vào những khung cảnh mà tôi biết đó là khung cảnh trong những bộ phim Hungary, đặc biệt là những bộ phim đầu tiên của Miklos Jancso.
So, how do I explain this mysterious affinity? Maybe it's because my native state of South Carolina, which is not much smaller than present-day Hungary, once imagined a future for itself as an independent country. And as a consequence of that presumption, my hometown was burned to the ground by an invading army, an experience that has befallen many a Hungarian town and village throughout its long and troubled history. Or maybe it's because when I was a teenager back in the '50s, my uncle Henry -- having denounced the Ku Klux Klan and been bombed for his trouble and had crosses burned in his yard, living under death threat -- took his wife and children to Massachusetts for safety and went back to South Carolina to face down the Klan alone. That was a very Hungarian thing to do, as anyone will attest who remembers 1956. And of course, from time to time Hungarians have invented their own equivalent of the Klan.
Vậy làm thế nào để tôi có thể giải thích được mối liên hệ bí ẩn này? Có thể bở vì bang South Carolina quê hương tôi, một nơi không nhỏ hơn nhiều so với nước Hungary ngày nay, tự tưởng tượng rằng trong tương lai nó sẽ là một quốc gia độc lập. Và như một hệ quả của sự giả định đó, quê hương của tôi đã bị thiêu trụi bởi quân đội xâm lược, một trải nghiệm đã xảy ra với rất nhiều làng mạc và thị trấn Hungary trong suốt chiều dài lịch sử đầy biến động của đất nước này. Hoặc có thể bởi vì vào những năm 50, khi tôi còn là một thiếu niên bác Henry của tôi, đã đứng lên chống lại Đảng 3K (Ku Klux Klan) -- và đã bị đánh bom vì điều đó với những cây thánh giá bị đốt cháy trong sân nhà của mình -- sống dưới sự đe doạ của cái chết, bác đã đưa vợ và các con đến Massachusetts để trú ẩn và một mình quay lại South Carolina để đối mặt với Đảng 3K. Đó là một hành động rất Hungary, và những người nhớ về năm 1956 sẽ chứng thực điều đó. Và tất nhiên, theo thời gian, người Hungary cũng đã tạo ra được sự bình đẳng của họ đối với Đảng 3K.
Well, it seems to me that this Hungarian presence in my life is difficult to account for, but ultimately I ascribe it to an admiration for people with a complex moral awareness, with a heritage of guilt and defeat matched by defiance and bravado. It's not a typical mindset for most Americans, but it is perforce typical of virtually all Hungarians. So, "Jó napot, pacák!"
Với tôi, sự hiện diện của những người Hungary trong đời tôi dường như rất khó để giải thích, rồi cuối cùng tôi cho đó là điều lí thú đối với những người có nhận thức đạo đức phức tạp-- với sự kế thừa của tội lỗi và sự thất bại tương xứng bởi sự thách thức và lòng can đảm giả tạo. Đó không phải là quan điểm điển hình đối với hầu hết người Mỹ. Nhưng đó là điều tất yếu đối với hầu hết người Hungary. Vậy, "Yo napot, pacak!"
I went back to South Carolina after some 15 years amid the alien corn at the tail end of the 1960s, with the reckless condescension of that era thinking I would save my people. Never mind the fact that they were slow to acknowledge they needed saving. I labored in that vineyard for a quarter century before making my way to a little kingdom of the just in upstate South Carolina, a Methodist-affiliated institution of higher learning called Wofford College. I knew nothing about Wofford and even less about Methodism, but I was reassured on the first day that I taught at Wofford College to find, among the auditors in my classroom, a 90-year-old Hungarian, surrounded by a bevy of middle-aged European women who seemed to function as an entourage of Rhinemaidens.
Tôi trở lại South Carolina sau khoảng 15 năm sống giữa những người xa lạ nhạt nhẽo, vào cuối những năm 1960, với cái sự kiêu ngạo liều lĩnh của thời đó, nghĩ rằng tôi có thể cứu vớt đồng bào của tôi. Bỏ qua sự thật là họ rất chần chừ để chấp nhận rằng họ cần được cứu vớt. Tôi lao động trong vườn nho đó trong ¼ thế kỷ trước khi di chuyển đến một vương quốc nhỏ bé ở phía bắc South Carolina, một ngôi trường thuộc Giáo hội Giám Lý có tên là Cao đẳng Woffford. Trước đó tôi không biết tí gì về Wofford, và thậm chí là biết rất ít về Giáo hội Giám Lý, nhưng tôi đã cảm thấy yên tâm hơn khi vào ngày đầu tiên tôi dạy ở trường Wofford tôi thấy trong số những người thỉnh giảng trong lớp của tôi, có một người Hungary 90 tuổi, xung quanh là một nhóm những phụ nữ trung niên châu Âu những người trông như tuỳ tùng của những cô gái đồng trinh sông Ranh.
His name was Sandor Teszler. He was a puckish widower whose wife and children were dead and whose grandchildren lived far away. In appearance, he resembled Mahatma Gandhi, minus the loincloth, plus orthopedic boots. He had been born in 1903 in the provinces of the old Austro-Hungarian Empire, in what later would become Yugoslavia. He was ostracized as a child, not because he was a Jew -- his parents weren't very religious anyhow -- but because he had been born with two club feet, a condition which, in those days, required institutionalization and a succession of painful operations between the ages of one and 11. He went to the commercial business high school as a young man in Budapest, and there he was as smart as he was modest and he enjoyed a considerable success. And after graduation when he went into textile engineering, the success continued. He built one plant after another. He married and had two sons. He had friends in high places who assured him that he was of great value to the economy.
Tên ông là Sandor Teszler. Ông là một người tinh quái với vợ và các con đều đã chết còn cháu chắt thì sống ở xa. Ông có vẻ bề ngoài rất giống với Mahatma Gandhi -- ngoại trừ cái khố và đôi giày ống chỉnh hình. Ông sinh năm 1903 tại một thị trấn của đế chế Austro-Hungary cũ, nơi mà sau này trở thành Nam Tư. Ông bị khai trừ khi còn là một đứa trẻ, không phải bởi vì ông là người Do Thái -- đại khái cha mẹ ông không phải là những người mộ đạo -- nhưng bởi vì ông sinh ra với 2 bàn chân bị vẹo, một điều kiện, mà trong bối cảnh đó, khiến ông bị đưa vào nhà cứu tế và phải chịu các cuộc phẫu thuật đau đớn liên tiếp từ năm 1 tuổi đến 11 tuổi. Ông đến trường thương nghiệp khi còn là một thanh niên ở Budapest. Và ở đó ông là người thông minh và cũng rất khiêm tốn, và ông đã đạt được những thành công đáng kể, rồi sau khi tốt nghiệp, khi ông làm việc trong ngành công nghệ dệt, ông vẫn tiếp tục đạt được thành công. Ông liên tiếp xây những nhà máy. Ông kết hôn và có 2 con trai. Ông có những người bạn ở địa vị cao những người đảm bảo cho ông trở thành một nguồn lực quan trọng đối với nền kinh tế.
Once, as he had left instructions to have done, he was summoned in the middle of the night by the night watchman at one of his plants. The night watchman had caught an employee who was stealing socks -- it was a hosiery mill, and he simply backed a truck up to the loading dock and was shoveling in mountains of socks. Mr. Teszler went down to the plant and confronted the thief and said, "But why do you steal from me? If you need money you have only to ask." The night watchman, seeing how things were going and waxing indignant, said, "Well, we're going to call the police, aren't we?" But Mr. Teszler answered, "No, that will not be necessary. He will not steal from us again."
Một lần, sau khi đã để lại các chỉ thị về các công việc cần hoàn thành, ông bị mời đến lúc nửa đêm bởi bảo vệ ở một trong số các nhà máy của ông. Người gác ca đêm đã phát hiện ra một nhân viên đang trộm tất -- đó là một nhà máy dệt kim, và anh ta chỉ cần lùi xe tải vào thang bốc dỡ rồi xúc cả núi tất. Ông Teszler đi xuống nhà máy để đối diện với tên trộm và nói: "Nhưng tại sao cậu lại lấy trộm của tôi? Nếu cần tiền, cậu chỉ cần đề nghị thôi mà." Người gác đêm, tỏ ra thịnh nộ khi chứng kiến sự việc, nói, "Vậy, chúng ta sẽ gọi cảnh sát chứ?" Nhưng ông Teszler trả lời, "Không, điều đó không cần thiết. Anh ta sẽ không ăn trộm của chúng ta một lần nào nữa."
Well, maybe he was too trusting, because he stayed where he was long after the Nazi Anschluss in Austria and even after the arrests and deportations began in Budapest. He took the simple precaution of having cyanide capsules placed in lockets that could be worn about the necks of himself and his family. And then one day, it happened: he and his family were arrested and they were taken to a death house on the Danube. In those early days of the Final Solution, it was handcrafted brutality; people were beaten to death and their bodies tossed into the river. But none who entered that death house had ever come out alive. And in a twist you would not believe in a Steven Spielberg film -- the Gauleiter who was overseeing this brutal beating was the very same thief who had stolen socks from Mr. Teszler's hosiery mill. It was a brutal beating. And midway through that brutality, one of Mr. Teszler's sons, Andrew, looked up and said, "Is it time to take the capsule now, Papa?" And the Gauleiter, who afterwards vanishes from this story, leaned down and whispered into Mr. Teszler's ear, "No, do not take the capsule. Help is on the way." And then resumed the beating.
Vâng, có thể ông đã quá tin tưởng, bởi vì ông đã ở nơi mà ông đã ở rất lâu sau khi Đức quốc xã chiếm nước Áo năm 1938, và thậm chí là còn sau khi những cuộc bắt bớ và trục xuất bắt đầu ở Budapest. Ông đã tạo ra một biện pháp "giải thoát" đơn giản bằng cách đặt những viên nang chứa chất độc xyanua vào trong những cái mề đay có thể được đeo trên cổ của ông và các thành viên trong gia đình. Và rồi, vào một ngày, chuyện đó cũng đã xảy ra: ông và gia đình bị bắt, và họ bị đưa đến một ngôi nhà chết trên sông Danube. Trong những ngày đầu tiên của chiến dịch Giải Pháp Cuối Cùng, bàn tay con người đã gây ra những sự tàn bạo -- mọi người bị đánh đập cho đến chết và xác của họ bị quăng xuống sông -- chưa một ai đã từng bước vào ngôi nhà chết đó mà còn sống để bước ra. Và một nút thắt mà có thể bạn không tin giống như ở trong phim Steven Spelberg tên tỉnh trưởng giám sát cuộc đánh đập dã man này rất giống với tên trộm đã lấy trộm những đôi tất từ nhà máy dệt kim của ông Teszler. Đó là một cuộc tra tấn rất dã man. Và vào giữa trận đánh, một trong số những người con trai của Teszler, Andrew, nhìn lên và nói, "Đã đến lúc để uống những viên nang này chưa bố?" Và tên tỉnh trưởng, kẻ sau này biến mất khỏi câu chuyện, cúi xuống và thì thầm vào tai ông Teszler, "Không, đừng uống những viên thuốc đó. Sắp được cứu rồi." Và tiếp tục đánh đập.
But help was on the way, and shortly afterwards a car arrived from the Swiss Embassy. They were spirited to safety. They were reclassified as Yugoslav citizens and they managed to stay one step ahead of their pursuers for the duration of the War, surviving burnings and bombings and, at the end of the War, arrest by the Soviets. Probably, Mr. Teszler had gotten some money into Swiss bank accounts because he managed to take his family first to Great Britain, then to Long Island and then to the center of the textile industry in the American South. Which, as chance would have it, was Spartanburg, South Carolina, the location of Wofford College. And there, Mr. Teszler began all over again and once again achieved immense success, especially after he invented the process for manufacturing a new fabric called double-knit.
Nhưng sự giúp đỡ thực sự đang đến -- Và ngay sau đó có một chiếc xe đến từ đại sứ quán Thuỵ Sĩ. Họ lập tức được đưa đến nơi an toàn. Sau đó được phân loại thành công dân Nam Tư và họ luôn đi trước một bước những kẻ săn đuổi mình trong suốt thời gian chiến tranh, sống sót sau những trận hoả hoạn và đánh bom, và, vào cuối cuộc chiến, bị bắt giữ bởi quân Liên Xô. Có thể ông Teszler đã có một ít tiền trong tài khoản ở ngân hàng Thuỵ Sĩ, bởi vì ông đã xoay sở để đưa gia đình đến Anh, sau đó đến Long Island, và rồi đến trung tâm công nghiệp dệt may ở phía Nam Hoa Kì. Như một vận may đã được sắp đặt trước, nơi đó là Spartanburg, South Carolina: vị trí của trường Wofford College. Và tại đây ông Teszler đã bắt đầu lại tất cả, và một lần nữa lại đạt được thành công to lớn, đặc biệt là sau khi ông phát minh ra dây chuyền sản xuất một loại vải mới có tên gọi là double-knit.
And then in the late 1950s, in the aftermath of Brown v. Board of Education, when the Klan was resurgent all over the South, Mr. Teszler said, "I have heard this talk before." And he called his top assistant to him and asked, "Where would you say, in this region, racism is most virulent?" "Well, I don't rightly know, Mr. Teszler. I reckon that would be Kings Mountain." "Good. Buy us some land in Kings Mountain and announce we are going to build a major plant there." The man did as he was told, and shortly afterwards, Mr. Teszler received a visit from the white mayor of Kings Mountain. Now, you should know that at that time, the textile industry in the South was notoriously segregated. The white mayor visited Mr. Teszler and said, "Mr. Teszler, I trust you’re going to be hiring a lot of white workers." Mr. Teszler told him, "You bring me the best workers that you can find, and if they are good enough, I will hire them." He also received a visit from the leader of the black community, a minister, who said, "Mr. Teszler, I sure hope you're going to hire some black workers for this new plant of yours." He got the same answer: "You bring the best workers that you can find, and if they are good enough, I will hire them." As it happens, the black minister did his job better than the white mayor, but that's neither here or there. Mr. Teszler hired 16 men: eight white, eight black.
Và sau đó-- vào cuối những năm 1950, do hậu quả của Brown chống lại hệ thống giáo dục khi Đảng 3K đã hồi sinh trên toàn miền Nam, Ông Teszler nói, "Tôi đã biết trước điều này." Và ông gọi trợ lý hàng đầu của mình tới và hỏi, "Theo cậu thì trong vùng này, nạn phân biệt chủng tộc ở đâu là tàn bạo nhất?" "Tôi không chắc lắm thưa ngài. Tôi nghĩ là vùng Kings Moutain." "Tốt. Hãy mua một vài miếng đất ở Kings Mountain, và sau đó tuyên bố rằng chúng ta sẽ xây dựng một nhà máy quan trọng lớn ở đó." Người trợ lý làm đúng như những gì được yêu cầu, và ngay sau đó Ông Teszler nhận được một cuộc viếng thăm từ người thị trưởng da trắng của Kings Moutain. Bạn nên biết rằng vào thời điểm đó công nghiệp dệt may ở miền Nam đã nổi tiếng là bị phân biệt đối xử Ngài thị trưởng đến thăm ông Teszler và nói, "Ông Teszler, tôi tin tưởng rằng ông sẽ thuê rất nhiều nhân công da trắng." Ông Tezler trả lời, "Ngài hãy mang đến cho tôi những nhân công lành nghề nhất mà ngài biết, và nếu họ đáp ứng yêu cầu, tôi sẽ thuê họ." Ông cũng nhận được một chuyến viếng thăm của người lãnh đạo cộng đồng người da đen, một vị mục sư, ông ta nói rằng, "Ông Teszler, tôi rất hy vọng rằng ông sẽ thuê một vài nhân công da đen cho nhà máy mới của ông." Ông ta nhận được cùng một câu trả lời: "Ngài hãy mang đến những nhân công tốt nhất mà ngài biết, và nếu họ đáp ứng yêu cầu, tôi sẽ thuê họ." Và khi điều đó xảy ra, vị mục sư da đen đã làm tốt hơn vị thị trưởng da trắng, nhưng dù ít dù nhiều, Ông Teszler đã thuê 16 người, 8 người da trắng, 8 người da đen.
They were to be his seed group, his future foremen. He had installed the heavy equipment for his new process in an abandoned store in the vicinity of Kings Mountain, and for two months these 16 men would live and work together, mastering the new process. He gathered them together after an initial tour of that facility and he asked if there were any questions. There was hemming and hawing and shuffling of feet, and then one of the white workers stepped forward and said, "Well, yeah. We’ve looked at this place and there's only one place to sleep, there's only one place to eat, there's only one bathroom, there's only one water fountain. Is this plant going to be integrated or what?" Mr. Teszler said, "You are being paid twice the wages of any other textile workers in this region and this is how we do business. Do you have any other questions?" "No, I reckon I don't." And two months later when the main plant opened and hundreds of new workers, white and black, poured in to see the facility for the first time, they were met by the 16 foremen, white and black, standing shoulder to shoulder. They toured the facility and were asked if there were any questions, and inevitably the same question arose: "Is this plant integrated or what?" And one of the white foremen stepped forward and said, "You are being paid twice the wages of any other workers in this industry in this region and this is how we do business. Do you have any other questions?"
Họ trở thành nhóm "hạt giống" của ông, những người quản đốc tương lai. Ông đã cho lắp đặt các thiết bị máy móc cho dây chuyền mới của mình tại một nhà kho bỏ hoang ở vùng lân cận của Kings Mountain, và trong vòng hai tháng, 16 người đó sẽ sống và làm việc cùng nhau, làm chủ dây chuyền mới. Ông tập hợp họ lại cùng nhau sau chuyến tham quan công trình đầu tiên và hỏi họ có bất kỳ câu hỏi nào không. Đã có những bước chân ngập ngừng và lúng túng, rồi sau đó một trong số những nhân công da trắng bước lên phía trước và nói, "Vâng. Chúng tôi đã xem xét chỗ này -- và chỉ có một chỗ để ngủ, một chỗ để ăn, chỉ có một phòng tắm, và chỉ có một đài phun nước. Có phải là nhà máy sẽ được tích hợp hay là như thế nào? Ông Teszler nói, "Các bạn được trả lương gấp đôi so với bất kỳ một công nhân dệt may nào trong vùng này, và đây là cách làm việc của chúng tôi. Các bạn có câu hỏi nào khác không?" "Không, tôi nghĩ là không." Và hai tháng sau, khi nhà máy chính đi vào hoạt động với hàng trăm nhân công mới, cả da trắng và da đen, ùa vào để xem nhà máy lần đầu tiên, họ được tiếp đón bởi 16 người quản đốc, cả da trắng và da đen, đứng sát cánh bên nhau. Họ được đưa đi tham quan nhà máy và được yêu cầu nói ra bất kỳ thắc mắc nào. Và chắc chắn rồi, cùng một câu hỏi được nói ra: "Có phải nhà máy này được tích hợp hay như thế nào?" Một trong số những quản đốc da trắng bước lên phía trước và nói, "Các bạn được trả lương gấp đôi so với bất kỳ một công nhân nào khác trong vùng công nghiệp này và đó là cách làm việc của chúng tôi. Các bạn có câu hỏi nào khác không?"
And there were none. In one fell swoop, Mr. Teszler had integrated the textile industry in that part of the South. It was an achievement worthy of Mahatma Gandhi, conducted with the shrewdness of a lawyer and the idealism of a saint. In his eighties, Mr. Teszler, having retired from the textile industry, adopted Wofford College, auditing courses every semester, and because he had a tendency to kiss anything that moved, becoming affectionately known as "Opi" -- which is Magyar for grandfather -- by all and sundry. Before I got there, the library of the college had been named for Mr. Teszler, and after I arrived in 1993, the faculty decided to honor itself by naming Mr. Teszler Professor of the College -- partly because at that point he had already taken all of the courses in the catalog, but mainly because he was so conspicuously wiser than any one of us. To me, it was immensely reassuring that the presiding spirit of this little Methodist college in upstate South Carolina was a Holocaust survivor from Central Europe. Wise he was, indeed, but he also had a wonderful sense of humor. And once for an interdisciplinary class, I was screening the opening segment of Ingmar Bergman's "The Seventh Seal." As the medieval knight Antonius Block returns from the wild goose chase of the Crusades and arrives on the rocky shore of Sweden, only to find the specter of death waiting for him, Mr. Teszler sat in the dark with his fellow students. And as death opened his cloak to embrace the knight in a ghastly embrace, I heard Mr. Teszler's tremulous voice: "Uh oh," he said, "This doesn't look so good." (Laughter)
Và đã không có một câu hỏi nào khác. Chỉ với một hành động như thế, Ông Teszler đã chống lại nạn phân biệt chủng tộc trong ngành công nghiệp dệt ở miền Nam. Đó là một thành công sánh ngang với Mahatma Gandhi, được thực hiện với sự khôn khéo của một luật sư và chủ nghĩa lí tưởng của một vị thánh. Năm 80 tuổi, ông Teszler, sau khi rời khỏi ngành công nghiệp dệt may, đã tài trợ cho trường Wofford College -- kiểm tra các khoá học mỗi học kỳ. Và, vì ông có xu hướng hôn tất cả những gì có thể cử động, nên được gọi với cái tên trìu mến là Opi -- theo tiếng Magyar là ông nội -- bởi tất cả mọi người. Vào thời điểm tôi đến, thư viện của trường đã được đặt theo tên ông Teszler, và sau khi tôi chuyển hẳn đến năm 1993, ban quản lý trường đã phong ông Teszler làm giáo sư danh dự của trường. Một phần bởi vì tại thời điểm đó ông đã tham dự tất cả các khoá học trong danh mục, nhưng chủ yếu là vì ông ấy thực sự khôn ngoan hơn bất kỳ ai trong số chúng tôi. Với tôi, một điều hoàn toàn yên tâm là tinh thần chủ đạo của một trường giáo hội Giám Lý nhỏ bé ở phía bắc South Carolina là một người sống xót sau vụ thảm sát ở Trung Âu. Quả thực, ngoài sự khôn ngoan, ông còn có một khiếu hài hước tuyệt vời. Một lần, trong một lớp về các ngành học thuật, tôi đang trình chiếu đoạn mở đầu "The Seventh Seal" do Ignmar Bergman đạo diễn. Đến đoạn hiệp sĩ thời trung cổ Antonius Blok trở về từ những trận chiến vô nghĩa trong cuộc Thập Tự Chinh và đến trên bờ đá của Thuỵ Điển, chỉ để thấy bóng ma của cái chết đang chờ đợi anh ta, ông Teszler ngồi trong bóng tối với các sinh viên khác. Và khi thần chết mở chiếc áo choàng để bắt lấy hiệp sĩ một cách hung tợn, tôi nghe thấy giọng nói run run của Teszler: "Oh, oh," ông nói, "Điều này có vẻ không tốt chút nào."
But it was music that was his greatest passion, especially opera. And on the first occasion that I visited his house, he gave me honor of deciding what piece of music we would listen to. And I delighted him by rejecting "Cavalleria Rusticana" in favor of Bela Bartok's "Bluebeard's Castle." I love Bartok's music, as did Mr. Teszler, and he had virtually every recording of Bartok's music ever issued. And it was at his house that I heard for the first time Bartok's Third Piano Concerto and learned from Mr. Teszler that it had been composed in nearby Asheville, North Carolina in the last year of the composer's life. He was dying of leukemia and he knew it, and he dedicated this concerto to his wife, Dita, who was herself a concert pianist. And into the slow, second movement, marked "adagio religioso," he incorporated the sounds of birdsong that he heard outside his window in what he knew would be his last spring; he was imagining a future for her in which he would play no part. And clearly this composition is his final statement to her -- it was first performed after his death -- and through her to the world. And just as clearly, it is saying, "It's okay. It was all so beautiful. Whenever you hear this, I will be there."
Nhưng phải nói rằng âm nhạc là đam mê lớn nhất của ông, đặc biệt là opera, và vào đúng dịp đầu tiên tôi ghé thăm căn nhà của ông, ông đã cho tôi vinh dự được quyết định đoạn nhạc nào mà chúng tôi sẽ nghe. Và tôi đã làm ông hài lòng bằng việc từ chối vở "Cavalerria Rusticana" và chọn "Bluebeard's Castle" của Bela Bartok. Tôi yêu âm nhạc của Bartok, giống như ông Teszler, và ông có hầu hết tất cả các bản thu của Bartok đã từng được công chiếu. Và cũng tại nhà ông, lần đầu tiên tôi được nghe bản Concerto Piano Thứ Ba của Bartok, và đã tìm hiểu được từ ông Teszler rằng nó được soạn ở lân cận vùng Asheville, phía Bắc Carolina, trong năm cuối đời của nhà soạn nhạc. Nhà soạn nhạc sắp qua đời vì bệnh bạch cầu và ông biết điều đó, và ông quyết dành tặng bản concerto cho vợ của mình, Dita, một nghệ sĩ piano. Và ở phần thứ hai chậm rãi của bản nhạc, có tên là "adagio religioso," ông kết hợp những âm thanh của tiếng chim mà ông nghe được bên ngoài cửa sổ với những gì mà ông đã cảm nhận được trong mùa xuân cuối cùng của mình. Ông đã tưởng tượng ra một tương lai không có ông của người vợ. Và rõ ràng, bản giao hưởng này là lời tâm sự cuối cùng của ông dành cho vợ -- bản giao hưởng được chơi lần đầu tiên sau cái chết của ông -- thông qua người vợ để đến với thế giới. Và cũng thật rõ ràng, nó nói lên rằng, "Sẽ ổn cả thôi. Tất cả sẽ tốt đẹp. Bất cứ khi nào em nghe thấy bài này, anh sẽ ở đó."
It was only after Mr. Teszler's death that I learned that the marker on the grave of Bela Bartok in Hartsdale, New York was paid for by Sandor Teszler. "Jó napot, Bela!" Not long before Mr. Teszler’s own death at the age of 97, he heard me hold forth on human iniquity. I delivered a lecture in which I described history as, on the whole, a tidal wave of human suffering and brutality, and Mr. Teszler came up to me afterwards with gentle reproach and said, "You know, Doctor, human beings are fundamentally good." And I made a vow to myself, then and there, that if this man who had such cause to think otherwise had reached that conclusion, I would not presume to differ until he released me from my vow. And now he's dead, so I'm stuck with my vow. "Jó napot, Sandor!"
Chỉ đến sau khi ông Teszler qua đời tôi mới biết rằng tấm bia trên ngôi mộ của Bela Bartok ở Hartsdale, New York được chi trả bởi Sandor Teszler. "Yo napot, Bela!" Không lâu trước chính cái chết của ông ở tuổi 97, ông đã nghe tôi trình bày về sự bất công của loài người. Tôi đưa ra bài giảng mà trong đó tôi mô tả lịch sử, trên tổng thể, như một đợt sóng triều tàn bạo và đau khổ của loài người, và ông Teszler đến gặp tôi ngay sau đó với lời khiển trách nhẹ nhàng và kết luận, "Anh biết đấy, tiến sĩ, loài người về cơ bản là tốt." Và tôi đã tự hứa với bản thân mình rằng nếu người đàn ông này có những lí do để đạt được kết luận đó, thì tôi sẽ không nói khác cho đến khi ông giải thoát tôi khỏi lời hứa của mình. Và bây giờ ông ấy đã qua đời, nên tôi bị mắc kẹt với lời nguyền của mình. "Yo napot, Sandor!"
I thought my skein of Hungarian mentors had come to an end, but almost immediately I met Francis Robicsek, a Hungarian doctor -- actually a heart surgeon in Charlotte, North Carolina, then in his late seventies -- who had been a pioneer in open-heart surgery, and, tinkering away in his garage behind his house, had invented many of the devices that are standard parts of those procedures. He's also a prodigious art collector, beginning as an intern in Budapest by collecting 16th- and 17th-century Dutch art and Hungarian painting, and when he came to this country moving on to Spanish colonial art, Russian icons and finally Mayan ceramics. He's the author of seven books, six of them on Mayan ceramics. It was he who broke the Mayan codex, enabling scholars to relate the pictographs on Mayan ceramics to the hieroglyphs of the Mayan script.
Tôi đã nghĩ mớ bòng bong của tôi với những người thầy Hungary cuối cùng cũng đến hồi kết, thế nhưng gần như ngay lập tức tôi gặp Francis Robicsek, một bác sĩ người Hungary -- thực ra là một bác sĩ phẫu thuật tim ở Charlotte, North Carolina, rồi vào cuối những năm ở tuồi bảy mươi của mình-- ông đã là người đi tiên phong trong ngành phẫu thuật tim, và, bằng sự tự mày mò trong nhà để xe phía sau nhà của mình, đã phát minh ra rất nhiều thiết bị tiêu chuẩn cho các công đoạn phẫu thuật. Ông cũng là một nhà sưu tập nghệ thuật phi thường, bắt đầu sưu tập khi còn là bác sĩ thực tập ở Budapest bằng việc sưu tập các bức tranh từ Hà Lan và Hungary ở thế kỷ 16 và 17, và khi ông đến đây, thì chuyển sang các tác phẩm nghệ thuật của thực dân Tây Ban Nha, các biểu tượng của nước Nga và cuối cùng là đồ gốm của người Maya. Ông là tác giả của 7 cuốn sách, 6 trong số đó là về đồ gốm của người Maya. Ông là người giải mã các cuốn sách chép tay của người Maya, giúp các học giả kết nối các hình tượng trên đồ gốm với các văn tự tượng hình của người Maya.
On the occasion of my first visit, we toured his house and we saw hundreds of works of museum quality, and then we paused in front of a closed door and Dr. Robicsek said, with obvious pride, "Now for the piece De resistance." And he opened the door and we walked into a windowless 20-by-20-foot room with shelves from floor to ceiling, and crammed on every shelf his collection of Mayan ceramics. Now, I know absolutely nothing about Mayan ceramics, but I wanted to be as ingratiating as possible so I said, "But Dr. Robicsek, this is absolutely dazzling." "Yes," he said. "That is what the Louvre said. They would not leave me alone until I let them have a piece, but it was not a good one." (Laughter)
Trong dịp viếng thăm đầu tiên của tôi, chúng tôi tham quan nhà của ông và chúng tôi đã được thấy hàng trăm tác phẩm có chất lượng như ở một bảo tàng, và sau đó chúng tôi dừng lại trước một cánh cửa đóng kín, bác sĩ Robicsek nói, với sự tự hào hiện rõ, "Bây giờ là những thứ được bảo vệ cẩn thận." Rồi ông mở cánh cửa, và chúng tôi bước vào một căn phòng không cửa sổ, diện tích 20 nhân 20 foot, với những cái giá cao từ sàn nhà cho đến trần, và chất đầy trên mỗi giá là bộ sưu tập đồ gốm Maya của ông. Bấy giờ, tôi không biết chút nào về đồ gốm Maya, nhưng tôi thực sự rất muốn làm ông vui. Nên tôi nói, " Bác sĩ Robicsek, nơi này thật rực rỡ." "Đúng vậy," ông trả lời. "Đó chính là những gì mà những người từ bảo tàng Louvre đã nói. Họ sẽ không để cho tôi yên cho đến khi tôi tặng họ một thứ, nhưng đó cũng không phải là thứ tốt."
Well, it occurred to me that I should invite Dr. Robicsek to lecture at Wofford College on -- what else? -- Leonardo da Vinci. And further, I should invite him to meet my oldest trustee, who had majored in French history at Yale some 70-odd years before and, at 89, still ruled the world's largest privately owned textile empire with an iron hand. His name is Roger Milliken. And Mr. Milliken agreed, and Dr. Robicsek agreed. And Dr. Robicsek visited and delivered the lecture and it was a dazzling success. And afterwards we convened at the President's House with Dr. Robicsek on one hand, Mr. Milliken on the other. And it was only at that moment, as we were sitting down to dinner, that I recognized the enormity of the risk I had created, because to bring these two titans, these two masters of the universe together -- it was like introducing Mothra to Godzilla over the skyline of Tokyo. If they didn't like each other, we could all get trampled to death.
Và, một ý tưởng chợt xuất hiện trong tôi đó là tôi nên mời tiến sĩ Robicsek đến giảng tại Wofford về -- còn gì nhỉ? -- Leonardo da Vinci. Và xa hơn, tôi sẽ mời ông đến gặp người cao tuổi nhất trong ban quản trị trường của tôi, người đã từng chuyên về môn lịch sử Pháp tại Yale ở độ tuổi 70 có lẻ và, ở độ tuổi 89, vẫn điều hành đế chế dệt may tư nhân lớn nhất thế giới với một bàn tay bằng sắt. Tên của ông là Roger Milliken. Và ông Milliken đã đồng ý, Tiến sĩ Robicsek đã đến thăm trường và đã đưa ra một bài giảng, đó là một bài giảng thành công rực rỡ. Và sau đó chúng tôi đã gặp nhau tại khu di tích Nhà Tổng Thống ở Philadelphia với một bên là Tiến sĩ Robicsek, và một bên là Ngài Milliken. Và chỉ đến khi chúng tôi ngồi ăn tối với nhau, tôi mới nhận ra sự nguy hiểm mà chính tôi tạo ra. Bởi vì mang hai con người phi thường ấy, hai con người làm chủ vạn vật ấy, đến với nhau thật chẳng khác gì giới thiệu Mortha với Godzilla tại cuối đường chân trời ở thành phố Tokyo. Nếu họ không thích nhau, chúng ta sẽ đều bị giẫm đạp cho đến chết.
But they did, they did like each other. They got along famously until the very end of the meal, and then they got into a furious argument. And what they were arguing about was this: whether the second Harry Potter movie was as good as the first. (Laughter) Mr. Milliken said it was not. Dr. Robicsek disagreed. I was still trying to take in the notion that these titans, these masters of the universe, in their spare time watch Harry Potter movies, when Mr. Milliken thought he would win the argument by saying, "You just think it's so good because you didn't read the book." And Dr. Robicsek reeled back in his chair, but quickly gathered his wits, leaned forward and said, "Well, that is true, but I'll bet you went to the movie with a grandchild." "Well, yes, I did," conceded Mr. Milliken. "Aha!" said Dr. Robicsek. "I went to the movie all by myself." (Laughter) (Applause)
Nhưng họ đã thích nhau. Họ rất ăn ý với nhau -- cho đến cuối bữa ăn, và rồi họ có một cuộc tranh luận căng thẳng. Và điều họ tranh luận là: phần thứ hai của bộ phim Harry Potter có hay như phần thứ nhất không. Ông Milliken trả lời là không. Còn tiến sĩ Robicsek thì không đồng ý. Tôi vẫn đang cố gắng để tin cái ý nghĩ là những con người phi thường này, những con người làm chủ vũ trụ này, vẫn xem phim Harry Potter trong thời gian rảnh rỗi, Khi ông Milliken nghĩ ông đã chiến thắng cuộc tranh luận bằng cách nói, "Ông chỉ nghĩ nó hay bởi vì ông không đọc truyện." Và Tiến sĩ Robicsek thu mình lại trên chiêc ghế của ông, nhưng cũng trấn tĩnh lại rất nhanh, cúi người ra phía trước và nói: "Vâng, quả thật là như vậy, nhưng tôi cá là ông đi xem phim với những đứa cháu của mình." "Vâng, đúng là như vậy đấy," Ngài Milliken thừa nhận. "Aha!" Tiến sĩ Robicsek kêu lên. "Tôi đến xem phim có một mình thôi."
And I realized, in this moment of revelation, that what these two men were revealing was the secret of their extraordinary success, each in his own right. And it lay precisely in that insatiable curiosity, that irrepressible desire to know, no matter what the subject, no matter what the cost, even at a time when the keepers of the Doomsday Clock are willing to bet even money that the human race won't be around to imagine anything in the year 2100, a scant 93 years from now. "Live each day as if it is your last," said Mahatma Gandhi. "Learn as if you'll live forever." This is what I'm passionate about. It is precisely this. It is this inextinguishable, undaunted appetite for learning and experience, no matter how risible, no matter how esoteric, no matter how seditious it might seem. This defines the imagined futures of our fellow Hungarians -- Robicsek, Teszler and Bartok -- as it does my own. As it does, I suspect, that of everybody here.
Và tôi nhận ra, khi mà sự thật được hé lộ, rằng cái điều mà hai con người ấy đang khám phá là những bí quyết của những thành công to lớn mà họ có được, với những lí lẽ riêng của từng người. Và chính trong cái sự tò mò không bao giờ cạn ấy, chính là khát khao hiểu biết không thể kìm nén được -- bất kể vấn đề có là gì, bất kể cái giá phải trả có lớn đến đâu, ngay cả khi mà người trông coi Chiếc Đồng Hồ Ngày Tận Thế sẵn sàng cá cược, không kể thắng thua, rằng loài người sẽ thôi không còn tưởng tượng về bất cứ thứ gì vào năm 2100, tức là chỉ còn 93 năm nữa. "Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của bạn," Mahatma Ghandi đã từng nói. "Hãy học hỏi như là bạn sẽ sống mãi mãi." Đây chính là điều mà tôi thực sự say mê. Nó thực sự là như vậy. Đó là lòng khao khát bền bỉ và dũng cảm để được học và trải nghiệm, không quan trọng nó lố lăng hay phức tạp, hay trông nó nguy hiểm ra sao. Nó quyết định tương lai của những người bạn Hungary, Robicsek và Teszler và Bartok, cũng như nó làm đối với tôi. Và tôi tin rằng, nó cũng quyết định tương lai của tất cả mọi người đang ngôi ở đây.
To which I need only add, "Ez a mi munkank; es nem is keves." This is our task; we know it will be hard. "Ez a mi munkank; es nem is keves. Jó napot, pacák!" (Applause)
Tôi chỉ muốn nói thêm rằng, "Ez a mi munkank; es nem is keves." Đây là nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta đều biết là nó sẽ rất khó khăn. "EZ a mi munkank; es nem is keves. " Yo napot, pacak!