One of the problems of writing, and working, and looking at the Internet is that it's very hard to separate fashion from deep change. And so, to start helping that, I want to take us back to 1835. In 1835, James Gordon Bennett founded the first mass-circulation newspaper in New York City. And it cost about 500 dollars to start it, which was about the equivalent of 10,000 dollars of today. By 15 years later, by 1850, doing the same thing -- starting what was experienced as a mass--circulation daily paper -- would come to cost two and a half million dollars. 10,000, two and a half million, 15 years. That's the critical change that is being inverted by the Net. And that's what I want to talk about today, and how that relates to the emergence of social production.
Một trong những vấn đề khi viết, làm việc hay tra cứu Internet, chính là khó khăn trong phân biệt giữa xu hướng và thay đổi sâu sắc. Để làm rõ vấn đề này, ta hãy quay lại năm 1835. Năm 1835, James Gordon Bennett thành lập trang báo phát hành rộng rãi đầu tiên tại New York. Và việc đó cần 500 USD để thực hiện, tương đương khoảng 10,000 USD hiện nay. 15 năm sau, năm 1850, vẫn là công việc đó tạo nên một trang nhật báo được phát hành rộng rãi có thể mất tới 2.5 triệu USD. 10,000, 2.5 triệu, 15 năm. Đây là sự thay đổi lớn lao mà Internet mang lại. Đó là điều tôi muốn nói ngày hôm nay, và cách nó ảnh hưởng tới sản xuất xã hội.
Starting with newspapers, what we saw was high cost as an initial requirement for making information, knowledge and culture, which led to a stark bifurcation between producers -- who had to be able to raise financial capital, just like any other industrial organization -- and passive consumers that could choose from a certain set of things that this industrial model could produce. Now, the term "information society," "information economy," for a very long time has been used as the thing that comes after the industrial revolution. But in fact, for purposes of understanding what's happening today, that's wrong. Because for 150 years, we've had an information economy. It's just been industrial, which means those who were producing had to have a way of raising money to pay those two and a half million dollars, and later, more for the telegraph, and the radio transmitter, and the television, and eventually the mainframe. And that meant they were market based, or they were government owned, depending on what kind of system they were in. And this characterized and anchored the way information and knowledge were produced for the next 150 years.
Lấy nhật báo làm 1 ví dụ, ta có thể thấy chi phí cao là một yêu cầu ban đầu để thu thập thông tin, tri thức và văn hóa những yếu tố dẫn tới sự phân nhánh rõ rệt giữa những người sản xuất có khả năng huy động vốn tài chính giống như bất cứ tổ chức công nghiệp nào và những khách hàng thụ động lựa chọn từ một số mẫu mã nhất định do những mô hình công nghiệp sản xuất. Thuật ngữ "xã hội thông tin", "nền kinh tế thông tin" đã được sử dụng trong một thời gian dài như một hệ quả của cách mạng công nghiệp. Thực chất, mục đích của việc hiểu chuyện gì đang diễn ra hiện nay là hoàn toàn sai. Bởi trong 150 năm qua, chúng ta đã có một nền kinh tế thông tin. Nó chỉ mang tính chất công nghiệp, nghĩa là những người sản xuất sẽ luôn có cách để kiếm được tiền để trả 2.5 triệu USD, và sau đó là hơn thế cho điện báo và máy phát vô tuyến điện, truyền hình, và cuối cùng các máy tính lớn. Vậy các công ty đều dựa trên thị trường hoặc do chính phủ sở hữu tùy vào loại hệ thống bao chứa chúng. Điều này tạo nên đặc trưng và đặt nền móng cho cách ta tạo ra thông tin và tri thức trong 150 năm tới.
Now, let me tell you a different story. Around June 2002, the world of supercomputers had a bombshell. The Japanese had, for the first time, created the fastest supercomputer -- the NEC Earth Simulator -- taking the primary from the U.S., and about two years later -- this, by the way, is measuring the trillion floating-point operations per second that the computer's capable of running -- sigh of relief: IBM [Blue Gene] has just edged ahead of the NEC Earth Simulator. All of this completely ignores the fact that throughout this period, there's another supercomputer running in the world -- SETI@home. Four and a half million users around the world, contributing their leftover computer cycles, whenever their computer isn't working, by running a screen saver, and together sharing their resources to create a massive supercomputer that NASA harnesses to analyze the data coming from radio telescopes.
Hãy để tôi kể cho bạn một câu chuyện khác. Khoảng tháng Sáu năm 2002, thế giới của các siêu máy tính đã có một cuộc bùng nổ. Người Nhật Bản đã lần đầu tạo nên siêu máy tính có tốc độ nhanh nhất NEC Earth Simulator có nguồn gốc chính từ Mỹ, khoảng 2 năm sau đó, nó có thể tính được hàng tỉ chữ số sau dấu phẩy chỉ trong 1 giây, khiến đó như sự thở phào về khả năng hoạt động của máy tính: IBM [Blue Gene] đã tiến xa hơn một bước so với NEC Earth Simulator. Tất cả điều này hoàn toàn bỏ qua thực tế rằng trong suốt giai đoạn này, còn có một siêu máy tính khác đang được vận hành là SETI@home. 4.5 triệu người trên thế giới đã cống hiến những gì còn sót lại trong máy tính của họ khi chúng không còn hoạt động bằng cách chạy một trình bảo vệ màn hình, cùng nhau chia sẻ nguồn lực để tạo ra một siêu máy tính đồ sộ mà NASA khai thác để phân tích các dữ liệu từ các kính thiên văn vô tuyến.
What this picture suggests to us is that we've got a radical change in the way information production and exchange is capitalized. Not that it's become less capital intensive -- that there's less money that's required -- but that the ownership of this capital, the way the capitalization happens, is radically distributed. Each of us, in these advanced economies, has one of these, or something rather like it -- a computer. They're not radically different from routers inside the middle of the network. And computation, storage and communications capacity are in the hands of practically every connected person -- and these are the basic physical capital means necessary for producing information, knowledge and culture, in the hands of something like 600 million to a billion people around the planet.
Bức tranh này đã cho thấy chúng ta đã có sự thay đổi triệt để trong cách vốn hóa sự sản xuất và trao đổi thông tin. Không những nó huy động ít vốn hơn nghĩa là lượng tiền vốn nhỏ hơn mà quyền sở hữu vốn, cách trị vốn hóa còn được phân phối hoàn toàn. Mỗi người trong số chúng ta, trong nền kinh tế phát triển này đều sở hữu một trong số chúng, hoặc những thứ tương tự như máy tính. Chúng không hoàn toàn khác so với những bộ định tuyến trong một mạng lưới. Khả năng tính toán, lưu trữ và truyền thông đều nằm trong tay của mỗi người được kết nối - và đây chính là những phương tiện tài sản vật chất cơ bản trong quá trình sản xuất thông tin, kiến thức và văn hóa, trong tầm tay của 600 triệu hay thậm chí 1 tỉ người trên thế giới này.
What this means is that for the first time since the industrial revolution, the most important means, the most important components of the core economic activities -- remember, we are in an information economy -- of the most advanced economies, and there more than anywhere else, are in the hands of the population at large. This is completely different than what we've seen since the industrial revolution. So we've got communications and computation capacity in the hands of the entire population, and we've got human creativity, human wisdom, human experience -- the other major experience, the other major input -- which unlike simple labor -- stand here turning this lever all day long -- is not something that's the same or fungible among people. Any one of you who has taken someone else's job, or tried to give yours to someone else, no matter how detailed the manual, you cannot transmit what you know, what you will intuit under a certain set of circumstances. In that we're unique, and each of us holds this critical input into production as we hold this machine.
Điều này có nghĩa là lần đầu tiên kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, phương tiện và thành phần quan trọng nhất của các hoạt động kinh tế cốt lõi hãy nhớ, chúng ta đang ở trong một nền kinh tế thông tin của những nền kinh tế tiên tiến nhất, và có nhiều hơn bất cứ nơi nào khác, đều nằm trong tay của cả xã hội. Điều này hoàn toàn khác với những gì chúng ta đã từng thấy trong cách mạng công nghiệp. Giờ khả năng liên lạc và tính toán đã nằm trong tay của cả xã hội, và chúng ta có sức sáng tạo, trí tuệ và kinh nghiệm những kinh nghiệm cần thiết và những yếu tố đầu vào cần thiết tạo nên khác biệt với lao động giản đơn, sử dụng đòn bẩy này cả ngày đã không còn giống hay có thể thay thế đối với nhân loại. Ai cũng đều từng lấy đi công việc của người khác, hay giao cho ai đó việc của mình, chỉ dẫn tỉ mỉ tới đâu chăng nữa, bạn cũng không thể truyền tải điều mình biết, hay cảm nhận trong một vài trường hợp. Trong việc cảm nhận chúng ta có những yếu tố đầu vào riêng biệt trong sản xuất giống như ta nắm giữ bộ máy này.
What's the effect of this? So, the story that most people know is the story of free or open source software. This is market share of Apache Web server -- one of the critical applications in Web-based communications. In 1995, two groups of people said, "Wow, this is really important, the Web! We need a much better Web server!" One was a motley collection of volunteers who just decided, you know, we really need this, we should write one, and what are we going to do with what -- well, we're gonna share it! And other people will be able to develop it. The other was Microsoft.
Những tác động của việc này là gì? Điều mà hầu hết mọi người đều biết đến chính là các nguồn phần mềm miễn phí. Đây là thị phần của máy chủ Apache Web một trong những ứng dụng quan trọng trong giao tiếp trực tuyến. Năm 1995, có 2 nhóm người nói, "Wow, Web thật là quan trọng! Chúng ta cần phải có máy chủ!" Một bên là những tình nguyện viên hỗn tạp vừa đưa ra quyết định rằng chúng ta cần và nên viết một phần mềm, và ta cần làm gì với những gì hiện có. Hãy chia sẻ và sẽ có người phát triển nó. Nhóm còn lại là Microsoft.
Now, if I told you that 10 years later, the motley crew of people, who didn't control anything that they produced, acquired 20 percent of the market and was the red line, it would be amazing! Right? Think of it in minivans. A group of automobile engineers on their weekends are competing with Toyota. Right? But, in fact, of course, the story is it's the 70 percent, including the major e-commerce site -- 70 percent of a critical application on which Web-based communications and applications work is produced in this form, in direct competition with Microsoft. Not in a side issue -- in a central strategic decision to try to capture a component of the Net. Software has done this in a way that's been very visible, because it's measurable. But the thing to see is that this actually happens throughout the Web.
Giờ nếu tôi nói là 10 năm tới, những người trong nhóm hỗn tạp không thể kiểm soát những gì họ làm nên, đã chiếm 20% thị phần và trở nên thật sự nổi bật, điều đó thật tuyệt, phải không? Còn trường hợp các ô tô bán tải. Một nhóm các kĩ sư về xe đang cạnh tranh với Toyota, phải không? Nhưng, trên thực tế, dĩ nhiên rồi, 70% bao gồm hầu hết các trang quảng cáo - 70% những ứng dụng quan trọng mà từ đó liên lạc và ứng dụng công việc trực tuyến được sản xuất ra, đều cạnh tranh trực tiếp với Microsoft. Không phải là một vấn đề ngoài lề mà điều này có vai trò quyết định trong chiến lược để nắm bắt một phần Internet. Phần mềm tạo lập bằng cách này mang tính hiện hữu cao, bởi ta có thể đo lường chúng Nhưng điều cần phải nhìn nhận là điều này hiện hữu trên toàn thế giới mạng.
So, NASA, at some point, did an experiment where they took images of Mars that they were mapping, and they said, instead of having three or four fully trained Ph.D.s doing this all the time, let's break it up into small components, put it up on the Web, and see if people, using a very simple interface, will actually spend five minutes here, 10 minutes there, clicking. After six months, 85,000 people used this to generate mapping at a faster rate than the images were coming in, which was, quote, "practically indistinguishable from the markings of a fully-trained Ph.D.," once you showed it to a number of people and computed the average.
NASA, vào một thời điểm nào đó, làm thí nghiệm với hình ảnh chụp từ sao Hỏa và lập bản đồ sao Hỏa, và họ nói rằng, thay vì sử dụng 3 hay 4 tiến sĩ được đào tạo để làm việc này, thì hãy chia nó ra thành những phần nhỏ, đưa nó lên mạng, và xem khi mọi người sử dụng một giao diện đơn giản, dành năm phút cho chỗ này, 10 phút cho chỗ kia, click chỗ này chỗ kia Sau 6 tháng, 85,000 người đã dùng cách này để dựng bản đồ với tốc độ còn nhanh hơn tốc độ hình ảnh truyền về, điều này được cho là "Gần như y hệt những gì mà 1 vị tiến sĩ được đào tạo kĩ lưỡng có thể làm" khi bạn đưa cho một lượng lớn người xem và tính con số trung bình
Now, if you have a little girl, and she goes and writes to -- well, not so little, medium little -- tries to do research on Barbie. And she'll come to Encarta, one of the main online encyclopedias. This is what you'll find out about Barbie. This is it, there's nothing more to the definition, including, "manufacturers" -- plural -- "now more commonly produce ethnically diverse dolls, like this black Barbie." Which is vastly better than what you'll find in the encyclopedia.com, which is Barbie, Klaus. (Laughter) On the other hand, if they go to Wikipedia, they'll find a genuine article -- and I won't talk a lot about Wikipedia, because Jimmy Wales is here -- but roughly equivalent to what you would find in the Britannica, differently written, including the controversies over body image and commercialization, the claims about the way in which she's a good role model, etc.
Bây giờ, giả sử bạn có một bé gái, viết một bài văn à không, cố gắng nghiên cứu về búp bê Barbie Cô bé truy cập vô Encarta, một trong những trang bách khoa toàn thư online uy tín. Và đây là những gì bạn thấy về Barbie. Nó đây, chẳng có gì ngoài cái định nghĩa bao gồm cả "những nhà sản xuất hiện nay đang sản xuất nhiều hơn búp bê đa chủng tộc, như cô Barbie da màu này". Mà cái này vẫn còn tốt chán so với những gì mà bạn sẽ tìm được trên trang encyclopedia.com, đó là Barbie Klaus (một tên phát xít Đức) Mặt khác, nếu như vào trang Wikipedia, ta sẽ tìm được một bài báo chính thống. và tôi sẽ không nói nhiều về Wikipedia vì Jimmy Wales đang ở đây nhưng sẽ khá giống điều bạn thấy trên Britannica, nhưng được viết theo cách khác bao gồm cả những tranh cãi về hình thể và sự thương mại hóa những tuyên bố cho rằng cô búp bê này là một tấm gương tốt, vân vân...
Another portion is not only how content is produced, but how relevance is produced. The claim to fame of Yahoo! was, we hire people to look -- originally, not anymore -- we hire people to look at websites and tell you -- if they're in the index, they're good. This, on the other hand, is what 60,000 passionate volunteers produce in the Open Directory Project, each one willing to spend an hour or two on something they really care about, to say, this is good. So, this is the Open Directory Project, with 60,000 volunteers, each one spending a little bit of time, as opposed to a few hundred fully paid employees. No one owns it, no one owns the output, it's free for anyone to use and it's the output of people acting out of social and psychological motivations to do something interesting.
Một điều nữa là không chỉ nội dung mà những thứ liên quan được sản xuất ra sao. Yêu cầu nổi tiếng của Yahoo! là,chúng tôi thuê người để xem, nhưng bây giờ thì không chúng tôi thuê người vào xem những trang web của bạn và cho bạn biết liệu chúng có nằm trong chỉ mục, có tốt không. Đây là những gì mà 60,000 tình nguyện viên đầy nhiệt huyết làm được trong Dự án Định hướng mở, mỗi người tự nguyện dành một, hai tiếng cho một chủ đề họ thực sự quan tâm, để nói rằng, cái này tốt đấy. Đây là Dự án Định hướng mở, với 60,000 tình nguyện viên mỗi người dành chút ít thời gian, trái ngược với vài trăm nhân viên được trả lương. Không ai sở hữu dự án cũng như đầu ra của nó, nó miễn phí cho mọi người, là sản phẩm của những người muốn thúc đẩy của xã hội và của ý thức để làm một điều gì đó thực sự thú vị.
This is not only outside of businesses. When you think of what is the critical innovation of Google, the critical innovation is outsourcing the one most important thing -- the decision about what's relevant -- to the community of the Web as a whole, doing whatever they want to do: so, page rank. The critical innovation here is instead of our engineers, or our people saying which is the most relevant, we're going to go out and count what you, people out there on the Web, for whatever reason -- vanity, pleasure -- produced links, and tied to each other. We're going to count those, and count them up. And again, here, you see Barbie.com, but also, very quickly, Adiosbarbie.com, the body image for every size. A contested cultural object, which you won't find anywhere soon on Overture, which is the classic market-based mechanism: whoever pays the most is highest on the list.
Nó không chỉ nằm ngoài việc kinh doanh. Khi mà bạn nghĩ về sự tiến bộ quan trọng của Google, thì tiến bộ quan trọng là tìm ở bên ngoài một trong những yếu tố quyết định về những thứ liên quan đến cộng đồng mạng, như một chủ thể làm bất cứ điều gì họ muốn vì thế ta xếp hạng các trang web Sự tiến bộ quan trọng là thay vì sử dụng thứ thích hợp nhất, các kĩ sư, hay gọi là người của chúng tôi, sẽ ra ngoài và đếm thứ mà các bạn, những người ở trên mạng, vì bất cứ lý do nào: hư danh, giải trí,... sản xuất các đường link và gộp chúng lại. Chúng tôi sẽ đếm những cái đó Và 1 lần nữa, ở đây, ta thấy trang Barbie.com, và cũng nhanh chóng thấy Adiosbarbie.com, hình thể cho mọi kích cỡ. Một vấn đề văn hóa gây tranh cãi, cái mà bạn sẽ không tìm thấy ở Overture, đó là một cơ chế phụ thuộc vào thị trường kinh điển: ai trả nhiều nhất thì sẽ xếp cao nhất
So, all of that is in the creation of content, of relevance, basic human expression. But remember, the computers were also physical. Just physical materials -- our PCs -- we share them together. We also see this in wireless. It used to be wireless was one person owned the license, they transmitted in an area, and it had to be decided whether they would be licensed or based on property. What we're seeing now is that computers and radios are becoming so sophisticated that we're developing algorithms to let people own machines, like Wi-Fi devices, and overlay them with a sharing protocol that would allow a community like this to build its own wireless broadband network simply from the simple principle: When I'm listening, when I'm not using, I can help you transfer your messages; and when you're not using, you'll help me transfer yours. And this is not an idealized version. These are working models that at least in some places in the United States are being implemented, at least for public security.
Vậy, tất cả đều thuộc sản xuất nội dung, những thứ liên quan, biểu cảm cơ bản. Nhưng, nhớ là máy tính cũng là vật chất. Chỉ là tư liệu vật chất máy tính, chúng ta chia sẻ chúng với nhau. Ta cũng thấy điều này ở mạng không dây. Đã từng là thế này, một người sở hữu quyền truy cập, họ truyền nó trong một vùng và nó phải được quyết định xem họ sẽ được cấp phép hay dựa vào quyền sở hữu Thứ mà chúng ta đang thấy bây là máy tính và radio đang trở nên vô cùng phức tạp ta đang phát triển thuật toán, cho phép mọi người và máy, như thiết bị Wi-Fi và phủ lên chúng bằng một giao thức chia sẻ cho phép một cộng đồng như thế này xây dựng mạng không dây của chính nó đơn giản từ những nguyên tắc đơn giản Khi tôi nghe, không sử dụng, tôi có thể giúp bạn chuyển các tin nhắn của bạn, và khi bạn không sử dụng thì tôi sẽ chuyển giúp bạn và đó không phải phiên bản lý tưởng hóa. Đây là những mô hình, ít nhất là tại vài nơi trên nước Mỹ, đang được thực hiện, ít nhất là dành cho việc an ninh
If in 1999 I told you, let's build a data storage and retrieval system. It's got to store terabytes. It's got to be available 24 hours a day, seven days a week. It's got to be available from anywhere in the world. It has to support over 100 million users at any given moment. It's got to be robust to attack, including closing the main index, injecting malicious files, armed seizure of some major nodes. You'd say that would take years. It would take millions. But of course, what I'm describing is P2P file sharing. Right? We always think of it as stealing music, but fundamentally, it's a distributed data storage and retrieval system, where people, for very obvious reasons, are willing to share their bandwidth and their storage to create something.
Nếu năm 1991 tôi mời bạn cùng xây dựng một hệ thống lưu trữ và phục hồi dữ liệu Nó phải chứa được hàng terabyte, truy cập được 24 giờ một ngày 7 ngày một tuần. Phải truy cập được từ bất cứ đâu trên thế giới Phải hỗ trợ hơn một trăm triệu người dùng vào bất cứ lúc nào. Phải chống được mọi sự tấn công như đóng các chỉ số chính, đưa vào các tệp độc hại chiếm giữ một số nút mạng lớn. Bạn sẽ nói rằng nó sẽ tốn hàng năm trời Sẽ tốn hàng triệu đô. Dĩ nhiên, những gì tôi miêu tả là cách chia sẻ dữ liệu P2P Phải không? Ta luôn nghĩ nó là ăn cắp nhạc, nhưng về bản chất, nó là một hệ thống phân phối, lưu trữ và phục hồi dữ liệu, nơi mà mọi người vì những lý do hiển nhiên, sẵn sàng chia sẻ băng thông và kho dữ liệu của mình để tạo ra thứ gì đó.
So, essentially what we're seeing is the emergence of a fourth transactional framework. It used to be that there were two primary dimensions along which you could divide things. They could be market based, or non-market based; they could be decentralized, or centralized. The price system was a market-based and decentralized system. If things worked better because you actually had somebody organizing them, you had firms, if you wanted to be in the market -- or you had governments or sometimes larger non-profits in the non-market. It was too expensive to have decentralized social production, to have decentralized action in society. That was not about society itself. That was, in fact, economic.
Vì thế, những gì bạn đang thấy là sự xuất hiện của một khung giao dịch thứ tư Đã từng có hai chiều cơ bản cái mà giúp bạn chia mọi thứ. Chúng có thể dựa trên thị trường chúng có thể phân tán hoặc tập trung Hệ thống giá cả là một hệ thống dựa trên thị trường và phân tán Nếu mọi thứ vận hành tốt hơn khi bạn có người sắp xếp chúng, bạn có công ty, hay muốn có mặt trên thị trường hoặc chính phủ hay những tổ chức phi lợi nhuận không phải trong thị trường Nó quá đắt đỏ để sản xuất xã hội phân cấp, để thực hiện phân cấp xã hội. Mà điều đó không phải thuộc về xã hội. Nó, thực chất, là thuộc về kinh tế.
But what we're seeing now is the emergence of this fourth system of social sharing and exchange. Not that it's the first time that we do nice things to each other, or for each other, as social beings. We do it all the time. It's that it's the first time that it's having major economic impact. What characterizes them is decentralized authority. You don't have to ask permission, as you do in a property-based system. May I do this? It's open for anyone to create and innovate and share, if they want to, by themselves or with others, because property is one mechanism of coordination. But it's not the only one.
Nhưng cái mà chúng ta đang thấy bây giờ là sự xuất hiện của hệ thống thứ tư này của sẻ chia và trao đổi Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta làm việc tốt với nhau hay cho nhau như là một phần của xã hội. Chúng ta làm thế suốt. Vấn đề là, đây là lần đầu tiên nó có ảnh hưởng kinh tế lớn. Cái khiến chúng khác biệt chính là chính quyền phân cấp Bạn không cần xin phép, như trong hệ thống dựa trên sở hữu Tôi có thể làm điều này không? Đó là mở cho bất cứ ai để tạo, đổi mới và chia sẻ, nếu họ muốn, tự mình làm hoặc với làm người khác, vì quyền sở hữu là một cơ chế phối hợp. Nhưng nó không phải là cái duy nhất.
Instead, what we see are social frameworks for all of the critical things that we use property and contract in the market: information flows to decide what are interesting problems; who's available and good for something; motivation structures -- remember, money isn't always the best motivator. If you leave a $50 check after dinner with friends, you don't increase the probability of being invited back. And if dinner isn't entirely obvious, think of sex. (Laughter)
Thay vào đó, những ta thấy là khuôn khổ xã hội cho mọi thứ quan trọng mà ta dùng tài sản và hợp đồng trên thị trường: các luồng tin quyết định những vấn đề thú vị; ai đang có mặt và tốt cho cái gì cấu trúc động lực, hãy nhớ, tiền không phải luôn là động lực tốt nhất. Nếu bạn để lại một tấm séc 50$ sau khi ăn tối với bạn bè, bạn không làm tăng xác suất được mời lại. Và nếu ví dụ bữa tối vẫn chưa rõ ràng, thì hãy nghĩ về tình dục. (Cười)
It also requires certain new organizational approaches. And in particular, what we've seen is task organization. You have to hire people who know what they're doing. You have to hire them to spend a lot of time. Now, take the same problem, chunk it into little modules, and motivations become trivial. Five minutes, instead of watching TV? Five minutes I'll spend just because it's interesting. Just because it's fun. Just because it gives me a certain sense of meaning, or, in places that are more involved, like Wikipedia, gives me a certain set of social relations.
Nó cũng đòi hỏi một số phương pháp tổ chức mới. Và đặc biệt, những gì chúng ta vừa nhìn thấy là sự tổ chức công việc. Bạn cần thuê những ai hiểu điều họ làm. Bạn phải thuê họ để dành rất nhiều thời gian cho công việc. Bây giờ, cùng một vấn đề, chia nó thành các phần nhỏ, và động cơ trở nên tầm thường. Năm phút, thay vì xem TV? Năm phút, tôi sẽ dành ra chỉ vì nó thú vị. Chỉ vì nó vui. Chỉ vì nó mang lại cho tôi ý nghĩa nào đó, hoặc, ở những nơi có liên quan nhiều hơn, như Wikipedia, mang lại cho tôi một tập hợp các quan hệ xã hội
So, a new social phenomenon is emerging. It's creating, and it's most visible when we see it as a new form of competition. Peer-to-peer networks assaulting the recording industry; free and open source software taking market share from Microsoft; Skype potentially threatening traditional telecoms; Wikipedia competing with online encyclopedias. But it's also a new source of opportunities for businesses. As you see a new set of social relations and behaviors emerging, you have new opportunities. Some of them are toolmakers. Instead of building well-behaved appliances -- things that you know what they'll do in advance -- you begin to build more open tools. There's a new set of values, a new set of things people value. You build platforms for self-expression and collaboration. Like Wikipedia, like the Open Directory Project, you're beginning to build platforms, and you see that as a model. And you see surfers, people who see this happening, and in some sense build it into a supply chain, which is a very curious one. Right?
Vì vậy, một hiện tượng xã hội mới đang xuất hiện Nó tạo ra, và hiện hữu nhất khi ta xem nó như là một hình thức mới của cạnh tranh. Peer-to-peer tấn công công nghiệp ghi âm; Nguồn phần mềm mở và miễn phí chiếm lấy thị phần của Microsoft; Tiềm năng của Skype đe dọa viễn thông truyền thống; Wikipedia cạnh tranh với các bách khoa toàn thư online khác Nhưng nó cũng là một nguồn cơ hội mới cho các doanh nghiệp. Như bạn thấy một bộ mới các mối quan hệ và hành vi xã hội đang xuất hiện, bạn có những cơ hội mới. Một số trong đó là những nhà tạo lập công cụ. Thay vì xây dựng các thiết bị vận hành tốt, thứ mà bạn trước biết những gì chúng làm, bắt đầu xây dựng công cụ mở. Có một tập hợp các giá trị mới, Một tập hợp giá trị đại chúng mới. Bạn xây dựng nền tảng cho sự tự thể hiện và hợp tác. Giống như Wikipedia, như Dự án Định hướng mở, bạn bắt đầu xây dựng nền tảng, và coi nó như là một mô hình. Và bạn thấy người lướt mạng, những người thấy điều này xảy ra, và bằng cách nào đó xây dựng nó thành một chuỗi cung ứng, đó là một điều rất gây tò mò. Phải không?
You have a belief: stuff will flow out of connected human beings. That'll give me something I can use, and I'm going to contract with someone. I will deliver something based on what happens. It's very scary -- that's what Google does, essentially. That's what IBM does in software services, and they've done reasonably well.
Bạn có niềm tin: mọi thứ sẽ tuôn ra từ những người được kết nối Nó sẽ cho tôi thứ dùng được, tôi sẽ ký hợp đồng với ai đó. Tôi sẽ cung cấp một cái gì đó dựa trên những gì sẽ xảy ra. Nó rất đáng sợ về cơ bản, đó là những gì Google làm Đó là những gì IBM làm trong các dịch vụ phần mềm, và họ đã thực hiện khá tốt.
So, social production is a real fact, not a fad. It is the critical long-term shift caused by the Internet. Social relations and exchange become significantly more important than they ever were as an economic phenomenon. In some contexts, it's even more efficient because of the quality of the information, the ability to find the best person, the lower transaction costs. It's sustainable and growing fast.
Vì vậy, sản xuất xã hội là một thực tế, không phải là một thứ kỳ cục Nó là sự thay đổi dài hạn quan trọng gây ra bởi Internet. Các quan hệ và trao đổi xã hội trở nên rõ nét hơn lúc nào hết như một hiện tượng kinh tế. Trong một số hoàn cảnh, nó thậm chí còn hiệu quả hơn bời chất lượng của các thông tin, khả năng tìm thấy những người giỏi nhất, các chi phí giao dịch thấp hơn. Nó là bền vững và phát triển nhanh.
But -- and this is the dark lining -- it is threatened by -- in the same way that it threatens -- the incumbent industrial systems. So next time you open the paper, and you see an intellectual property decision, a telecoms decision, it's not about something small and technical. It is about the future of the freedom to be as social beings with each other, and the way information, knowledge and culture will be produced. Because it is in this context that we see a battle over how easy or hard it will be for the industrial information economy to simply go on as it goes, or for the new model of production to begin to develop alongside that industrial model, and change the way we begin to see the world and report what it is that we see. Thank you.
Nhưng, và đây là hạn chế của nó, nó bị đe dọa bởi cùng một cách mà nó đe dọa, các hệ thống công nghiệp đương nhiệm. Vì vậy, lần sau khi bạn mở giấy tờ ra, và thấy một quyết định sở hữu trí tuệ, một quyết định viễn thông, nó không phải một cái gì đó nhỏ bé và thiên về kỹ thuật. Đó là về tương lai của sự tự do để được là một phần của xã hội, và cách thức thông tin, kiến thức và văn hóa sẽ được tạo ra Bởi trong bối cảnh này, ta thấy cuộc chiến kết thúc dễ dàng hay khó khăn như thế nào cho nền kinh tế thông tin công nghiệp chỉ đơn giản là tiếp tục theo bước tiến của nó hoặc các mô hình sản xuất mới để bắt đầu phát triển cùng các mô hình công nghiệp, thay đổi cách nhìn và thuật lại thế giới Xin cám ơn.