Imagine that you invented a device that can record my memories, my dreams, my ideas, and transmit them to your brain. That would be a game-changing technology, right? But in fact, we already possess this device, and it's called human communication system and effective storytelling. To understand how this device works, we have to look into our brains. And we have to formulate the question in a slightly different manner.
Hãy tưởng tượng bạn tạo ra 1 thiết bị có thể ghi lại ký ức giấc mơ và suy nghĩ của tôi rồi chuyển chúng từ não tôi sang bạn. Chắc hẳn đó là công nghệ thay đổi ngoạn mục đúng không? Nhưng thực tế, chúng ta đã sở hữu thiết bị này, và nó được gọi là hệ thống giao tiếp của con người và lối truyền đạt hiệu quả. Để hiểu cách thức hoạt động của công cụ này, chúng ta phải nhìn vào bên trong bộ não mình. Và chúng ta phải đặt câu hỏi cách khác.
Now we have to ask how these neuron patterns in my brain that are associated with my memories and ideas are transmitted into your brains. And we think there are two factors that enable us to communicate. First, your brain is now physically coupled to the sound wave that I'm transmitting to your brain. And second, we developed a common neural protocol that enabled us to communicate.
Ta cần hỏi làm cách nào mạng nơ ron trong não tôi liên kết với những kỷ niệm của tôi, làm thế nào những ý tưởng được truyền đến não của bạn. Tôi nghĩ có 2 yếu tố cho phép ta giao tiếp. Đầu tiên, não của bạn có cấu tạo vật lý thích hợp để nhận sóng âm mà tôi đang truyền đến. Tiếp đến, chúng ta có cùng giao thức thần kinh cho phép chúng ta giao tiếp.
So how do we know that? In my lab in Princeton, we bring people to the fMRI scanner and we scan their brains while they are either telling or listening to real-life stories. And to give you a sense of the stimulus we are using, let me play 20 seconds from a story that we used, told by a very talented storyteller, Jim O'Grady.
Làm sao ta biết điều đó? Ở phòng thí nghiệm của tôi tại Princeton, chúng tôi cho chụp MRI chức năng não của một số người trong khi họ đang nói hoặc nghe những câu chuyện thường ngày. Và để cho bạn một ý nghĩa của câu nói của bạn, hãy cho tôi 20 giây để kể câu chuyện mà chúng tôi dùng trong thí nghiệm, được kể bởi nhà kể chuyện tài năng Jim O'Grady.
(Audio) Jim O'Grady: So I'm banging out my story and I know it's good, and then I start to make it better --
(Âm thanh) Jim O'Grady: Khi tôi đang nghĩ ra câu chuyện, tôi biết nó hay, rồi tôi bắt đầu thêu dệt cho nó --
(Laughter)
(Cười)
by adding an element of embellishment. Reporters call this "making shit up."
bằng cách thêm vào một yếu tố mỹ miều. Các nhà báo gọi đó là "quá trình chế biến"
(Laughter)
(Cười)
And they recommend against crossing that line. But I had just seen the line crossed between a high-powered dean and assault with a pastry. And I kinda liked it."
Và họ khuyên không nên vượt qua làn ranh này. Nhưng tôi vừa thấy một sự việc vượt rào: một trưởng khoa quyền lực bị ném bánh vào mặt. Và tôi khá thích thú."
Uri Hasson: OK, so now let's look into your brain and see what's happening when you listen to these kinds of stories. And let's start simple -- let's start with one listener and one brain area: the auditory cortex that processes the sounds that come from the ear. And as you can see, in this particular brain area, the responses are going up and down as the story is unfolding. Now we can take these responses and compare them to the responses in other listeners in the same brain area. And we can ask: How similar are the responses across all listeners?
Uri Hason: Bây giờ ta hãy nhìn vào bên trong não và xem thử điều gì xảy ra khi bạn nghe những câu chuyện như thế. Hãy bắt đầu với một người nghe và vùng trong não của người đó: vùng vỏ não thính giác liên quan đến âm thanh từ tai đến. Như bạn thấy, trong vùng não đặc biệt này, những phản ứng xuất hiện khi câu chuyện bắt đầu. Bây giờ chúng ta xem những phản ứng này và so sánh chúng với những phản ứng của người nghe khác trong cùng vùng não. Và chúng ta hỏi: Những phản ứng ở những người nghe giống nhau đến mức nào?
So here you can see five listeners. And we start to scan their brains before the story starts, when they're simply lying in the dark and waiting for the story to begin. As you can see, the brain area is going up and down in each one of them, but the responses are very different, and not in sync. However, immediately as the story is starting, something amazing is happening.
Bạn có thể xem 5 người nghe này. Chúng tôi quét não của họ trước khi nghe chuyện, khi họ đang nằm trong buồng tối và chờ câu chuyện bắt đầu. Như bạn thấy, vùng não phập phồng trong đầu họ, nhưng những phản ứng thì rất khác, và không đồng bộ. Tuy nhiên, ngay sau đó khi câu chuyện bắt đầu, một vài thứ tuyệt vời xảy ra.
(Audio) JO: So I'm banging out my story and I know it's good, and then I start to make it --
(Âm thanh) JO: tôi đang viết câu chuyện của tôi và tôi biết nó hay, và rồi tôi thêu dệt nó--
UH: Suddenly, you can see that the responses in all of the subjects lock to the story, and now they are going up and down in a very similar way across all listeners. And in fact, this is exactly what is happening now in your brains when you listen to my sound speaking. We call this effect "neural entrainment." And to explain to you what is neural entrainment, let me first explain what is physical entrainment.
UH: đột nhiên bạn thấy các phản ứng trong các đối tượng theo câu chuyện, và các phản ứng lên xuống theo cách thức rất giống nhau trong não của mọi người nghe. Thật vậy, đây là điều đã xảy ra trong đầu bạn khi bạn nghe lời nói của tôi. Chúng ta gọi đó là hiệu ứng "thần kinh đồng bộ." Và để giải thích cho bạn về hiệu ứng thần kinh đồng bộ, tôi xin giải thích hiệu ứng bắt nhịp vật lý.
So, we'll look and see five metronomes. Think of these five metronomes as five brains. And similar to the listeners before the story starts, these metronomes are going to click, but they're going to click out of phase.
Tôi có 5 máy đập nhịp. Hãy xem 5 chiếc máy đập nhịp như là 5 bộ não. Chúng giống như những người nghe trước khi câu chuyện bắt đầu, những máy này đang gõ nhịp, nhưng chúng gõ lệch nhịp.
(Clicking)
(Tiếng tíc tắc)
Now see what will happen when I connect them together by placing them on these two cylinders.
Hãy nhìn điều gì xảy ra khi tôi nối chúng với nhau bằng cách đặt chúng trên hai ống hình trụ này.
(Clicking)
(Tíc tắc)
Now these two cylinders start to rotate. This rotation vibration is going through the wood and is going to couple all the metronomes together. And now listen to the click.
Bây giờ 2 ống này bắt đầu lắc lư. Sự rung truyền qua gỗ và nối tất cả các máy lại với nhau. Bây giờ hãy lắng nghe tiếng tíc tắc.
(Synchronized clicking)
( Tiếng tíc tắc đồng bộ)
This is what you call physical entrainment. Now let's go back to the brain and ask: What's driving this neural entrainment? Is it simply the sounds that the speaker is producing? Or maybe it's the words. Or maybe it's the meaning that the speaker is trying to convey.
Đây là gọi là sự đồng bộ vật lý. Chúng ta quay lại bộ não và đặt câu hỏi: Đồng bộ thần kinh dẫn đến điều gì? Nó có đơn giản như âm thanh mà người nói đang tạo ra không? Đó là âm của các từ. Hay là ý mà người nói muốn truyền đạt.
So to test it, we did the following experiment. First, we took the story and played it backwards. And that preserved many of the original auditory features, but removed the meaning. And it sounds something like that.
Vậy để kiểm tra, chúng tôi đã làm thí nghiệm sau, Trước hết, chúng tôi lấy câu chuyện và cho chạy ngược lại. Các âm thanh vẫn được giữ như bản gốc, nhưng bị đảo vị trí nên mất ý nghĩa. Và nó nghe giống thế này.
(Audio) JO: (Unintelligible)
(Âm thanh) JO: (không hiểu được)
And we flashed colors in the two brains to indicate brain areas that respond very similarly across people. And as you can see, this incoming sound induced entrainment or alignment in all of the brains in auditory cortices that process the sounds, but it didn't spread deeper into the brain.
Chúng tôi tô màu hai não để chỉ ra vùng nào trong não của mọi người phản ứng giống nhau. Như bạn thấy, âm thanh tạo sự đồng bộ hay đồng tuyến trong mọi bộ não ở vùng vỏ não âm thanh, nhưng không truyền sâu hơn vào bên trong não.
Now we can take these sounds and build words out of it. So if we take Jim O'Grady and scramble the words, we'll get a list of words.
Chúng ta lấy những âm thanh này và xây dựng lại các từ. Vậy nếu chúng ta lấy câu nói của Jim O'Grady rồi trộn các từ lên, chúng ta sẽ có một chuỗi các từ.
(Audio) JO: ... an animal ... assorted facts ... and right on ... pie man ... potentially ... my stories
(Âm thanh) JO: con vật ... sự việc kết nối... ngay giữa ... bánh người ... tiềm tàng ... câu chuyện của tôi
UH: And you can see that these words start to induce alignment in early language areas, but not more than that. Now we can take the words and start to build sentences out of them.
UH: Bạn có thể thấy các từ bắt đầu tạo đồng tuyến tính trong vùng ngôn ngữ bên ngoài nhưng chỉ dừng tại đó. Chúng ta có thể lấy các từ và làm câu với các từ đó.
(Audio) JO: And they recommend against crossing that line. He says: "Dear Jim, Good story. Nice details. Didn't she only know about him through me?"
(Âm thanh) JO: Và họ khuyên không nên vượt qua làn ranh này. Anh ấy nói: " Jim thân mến, Câu chuyện hay. Chi tiết thú vị. Cô ta chỉ biết anh ấy qua tôi phải không?"
UH: Now you can see that the responses in all the language areas that process the incoming language become aligned or similar across all listeners. However, only when we use the full, engaging, coherent story do the responses spread deeper into the brain into higher-order areas, which include the frontal cortex and the parietal cortex, and make all of them respond very similarly. And we believe that these responses in higher-order areas are induced or become similar across listeners because of the meaning conveyed by the speaker, and not by words or sound. And if we are right, there's a strong prediction over here if I tell you the exact same ideas using two very different sets of words, your brain responses will still be similar.
UH: Bây giờ bạn có thể thấy các phản ứng bên trong các vùng ngôn ngữ các vùng này điều khiển ngôn ngữ nhận được trở thành đồng tuyến tính hay tương đồng giữa mọi người nghe. Tuy nhiên, chỉ khi chúng ta dùng câu chuyện mạch lạc, hấp dẫn và đầy đủ để làm các phản ứng lan truyền sâu vào trong não đến những vùng điều khiển cao hơn, bao gồm vỏ não vùng trán và vỏ não thùy đỉnh, thì mới làm cho chúng có phản ứng giống nhau. Chúng tôi tin những phản ứng trong vùng điều khiển cao cũng đồng tuyến tính hoặc trở nên đồng bộ ở các người nghe nhờ ý nghĩa nhận được từ người nói, chứ không phải các từ hay âm thanh. Và nếu chúng tôi đúng, thì sẽ có một dự đoán đột phá ở đây nếu tôi nói với bạn cùng ý tưởng dùng hai nhóm từ rất khác nhau, những phản ứng não của bạn sẽ tương ứng.
And to test it, we did the following experiment in my lab. We took the English story and translated it to Russian. Now you have two different sounds and linguistic systems that convey the exact same meaning. And you play the English story to the English listeners and the Russian story to the Russian listeners, and we can compare their responses across the groups. And when we did that, we didn't see responses that are similar in auditory cortices in language, because the language and sound are very different. However, you can see that the responses in high-order areas were still similar across these two groups. We believe this is because they understood the story in a very similar way, as we confirmed, using a test after the story ended.
Để kiểm tra, chúng tôi đã thực hiện thí nghiệm sau trong phòng lap. Chúng tôi lấy câu chuyện tiếng Anh và dịch sang tiếng Nga. Bây giờ bạn có 2 hệ thống âm thanh và ngôn ngữ khác biệt chứa cùng nội dung. Rồi bạn cho người Anh nghe câu chuyện tiếng Anh và người Nga nghe câu chuyện tiếng Nga, và chúng ta có thể so sánh những phản ứng giữa các nhóm. Khi chúng tôi làm thí nghiệm đó, chúng tôi không thấy các phản ứng tương đồng trong vùng vỏ não âm thanh ở vùng ngôn ngữ vì ngôn ngữ và âm thanh rất khác nhau. Thế mà bạn lại thấy các phản ứng ở vùng điều khiển cao rất giống nhau giữa các nhóm này. Chúng tôi tin rằng đó là vì họ hiểu câu chuyện theo cách giống nhau, đúng như chúng tôi xác định, bằng kiểm tra sau khi câu chuyện kết thúc.
And we think that this alignment is necessary for communication. For example, as you can tell, I am not a native English speaker. I grew up with another language, and the same might be for many of you in the audience. And still, we can communicate. How come? We think we can communicate because we have this common code that presents meaning.
Chúng tôi nghĩ rằng, dòng đồng tuyến tính là cần thiết để giao tiếp. Ví dụ, khi bạn nói, tôi không phải là người Anh bản ngữ. Tôi lớn lên với ngôn ngữ khác, đó là trường hợp của nhiều người trong số các bạn ở đây. Như vậy, chúng ta có thể giao tiếp. Bằng cách nào? Tôi nghĩ chúng ta có thể giao tiếp vì chúng ta dùng mã giống nhau để diễn tả ý nghĩa.
So far, I've only talked about what's happening in the listener's brain, in your brain, when you're listening to talks. But what's happening in the speaker's brain, in my brain, when I'm speaking to you? To look in the speaker's brain, we asked the speaker to go into the scanner, we scan his brain and then compare his brain responses to the brain responses of the listeners listening to the story. You have to remember that producing speech and comprehending speech are very different processes. Here we're asking: How similar are they? To our surprise, we saw that all these complex patterns within the listeners actually came from the speaker brain. So production and comprehension rely on very similar processes. And we also found the stronger the similarity between the listener's brain and the speaker's brain, the better the communication. So I know that if you are completely confused now, and I do hope that this is not the case, your brain responses are very different than mine. But I also know that if you really understand me now, then your brain ... and your brain ... and your brain are really similar to mine.
Cho đến lúc này, tôi chỉ mới nói về điều xảy ra trong não người nghe, trong não bạn, khi bạn đang nghe câu chuyện. Nhưng điều gì xảy ra trong não người nói, trong não tôi, khi tôi đang nói với bạn? Để nhìn vào não người nói, chúng tôi bảo người nói vào máy quét, chúng tôi quét não người ấy và so sánh não người ấy với phản ứng của não người nghe đang lắng nghe câu chuyện. Bạn phải nhớ rằng việc tạo lời nói và hiểu lời nói là các quá trình rất khác nhau. Chúng ta có hỏi: chúng có gì giống nhau? Thật ngạc nhiên, Chúng tôi thấy tất cả các hình thức phức tạp bên trong người nghe đều đến từ não người nói. Vậy việc tạo lời nói và hiểu lời nói phụ thuộc vào một quá trình rất giống nhau. Và chúng tôi đã tìm ra sự giống nhau càng lớn giữa não người nghe và não người nói, thì sự giao tiếp càng tốt. Vậy tôi biết nếu bạn đang bị rối, hy vọng đó không phải là trường hợp của chúng ta, là do các phản ứng não của bạn rất khác với não của tôi. Nhưng tôi cũng biết nếu bạn hiểu tôi, thì não của bạn này ... và của bạn kia ... và của bạn kia nữa đang phản ứng rất giống não tôi.
Now, let's take all this information together and ask: How can we use it to transmit a memory that I have from my brain to your brains? So we did the following experiment. We let people watch, for the first time in their life, a TV episode from the BBC series "Sherlock," while we scanned their brains. And then we asked them to go back to the scanner and tell the story to another person that never watched the movie. So let's be specific. Think about this exact scene, when Sherlock is entering the cab in London driven by the murderer he is looking for.
Bây giờ, hãy tập trung những thông tin này lại và đặt câu hỏi: Làm thế nào để truyền tải một ký ức tôi đang có từ não của tôi sang não của bạn? Chúng tôi đã làm thí nghiệm sau. Chúng tôi cho mọi người xem, lần đầu tiên trong đời, một tập phim truyền hình "Sherlock" trên BBC, đồng thời scan não của họ. Rồi chúng tôi bảo họ quay lại máy quét và bảo họ kể lại câu chuyện cho 1 người cũng chưa bao giờ xem phim đó. Chúng ta hãy đi vào chi tiết. Hãy nghĩ về cảnh này, khi Sherlock vào taxi ở London tài xế chính là kẻ giết người mà Sherlock đang truy tìm.
With me, as a viewer, there is a specific brain pattern in my brain when I watch it. Now, the exact same pattern, I can reactivate in my brain again by telling the word: Sherlock, London, murderer. And when I'm transmitting these words to your brains now, you have to reconstruct it in your mind. In fact, we see that pattern emerging now in your brains. And we were really surprised to see that the pattern you have now in your brains when I'm describing to you these scenes would be very similar to the pattern I had when I watched this movie a few months ago in the scanner. This starts to tell you about the mechanism by which we can tell stories and transmit information. Because, for example, now you're listening really hard and trying to understand what I'm saying. And I know that it's not easy. But I hope that at one point in the talk we clicked, and you got me. And I think that in a few hours, a few days, a few months, you're going to meet someone at a party, and you're going to tell him about this lecture, and suddenly it will be as if he is standing now here with us. Now you can see how we can take this mechanism and try to transmit memories and knowledge across people, which is wonderful, right?
Theo tôi, với tư cách là người xem, có một chi tiết đặc biệt trong não tôi khi tôi xem cảnh đó. Chi tiết đặc biệt đó có thể diễn ra lại trong não tôi bằng cách nói lại các từ: Sherlock, London, sát thủ. Và khi tôi truyền những từ này đến não của bạn, bạn phải xếp lại chúng trong não của mình. Thật vậy, chúng ta thấy chi tiết đó xuất hiện trong não của bạn. Và chúng tôi đã ngạc nhiên khi thấy chi tiết trong não bạn lúc tôi mô tả cho bạn các cảnh trong phim lại rất giống với chi tiết tôi có khi tôi xem phim một vài tháng trước cũng được scan. Điều đó muốn về cơ chế khi chúng ta kể chuyện và truyền thông tin. Bởi vì, ví dụ như bây giờ bạn đang nghe rất chăm chú và cố gắng hiểu điều tôi đang nói. Và tôi biết điều đó không dễ. Nhưng tôi hy vọng ở 1 thời điểm trong bài phát biểu, ta đồng điệu và bạn hiểu tôi. Tôi nghĩ trong vài giờ, vài ngày, vài tháng, bạn gặp ai đó ở một bữa tiệc, và bạn nói với họ về buổi hội thảo này, và đột nhiên giống như là người ấy đang ở đây với chúng ta. Bây giờ ta xem bằng cách nào ta có được cơ chế này và cố gắng chuyển những ký ức, kiến thức cho mọi người, điều đó thật tuyệt đúng không?
But our ability to communicate relies on our ability to have common ground. Because, for example, if I'm going to use the British synonym "hackney carriage" instead of "cab," I know that I'm going to be misaligned with most of you in the audience. This alignment depends not only on our ability to understand the basic concept; it also depends on our ability to develop common ground and understanding and shared belief systems. Because we know that in many cases, people understand the exact same story in very different ways.
Nhưng khả năng giao tiếp của ta phụ thuộc vào khả năng chúng ta có vùng kiến thức giống nhau. Vì, ví dụ, nếu tôi đang dùng những từ tiếng Anh đồng nghĩa "hackney carriage" thay cho "cab," tôi biết tôi sẽ bị lệch pha với hầu hết các bạn đang ở đây. Việc đồng tuyến phụ thuộc không chỉ vào khả năng hiểu các khái niệm cơ bản; nó còn phụ thuộc vào khả năng phát triển vùng kiến phổ thông, khả năng tiếp nhận và có cùng hệ thống ý thức. Vì chúng ta biết trong nhiều trường hợp, người ta hiểu cùng 1 câu chuyện theo nhiều cách khác nhau.
So to test it in the lab, we did the following experiment. We took a story by J.D. Salinger, in which a husband lost track of his wife in the middle of a party, and he's calling his best friend, asking, "Did you see my wife?" For half of the subjects, we said that the wife was having an affair with the best friend. For the other half, we said that the wife is loyal and the husband is very jealous. This one sentence before the story started was enough to make the brain responses of all the people that believed the wife was having an affair be very similar in these high-order areas and different than the other group. And if one sentence is enough to make your brain similar to people that think like you and very different than people that think differently than you, think how this effect is going to be amplified in real life, when we are all listening to the exact same news item after being exposed day after day after day to different media channels, like Fox News or The New York Times, that give us very different perspectives on reality.
Vậy để kiểm tra trong phòng lab, chúng tôi đã làm thí nghiệm sau. Chúng tôi lấy một câu chuyện của J.D. Salinger ở đó một người chồng lạc mất vợ trong một bữa tiệc, và ông ta gọi bạn thân nhất để hỏi, "Có thấy vợ tôi đâu không?" Một nửa số người xem nghĩ người vợ có vấn đề với anh bạn thân này. Còn một nửa người xem, nói người vợ thì đàng hoàng còn anh chồng thì hay ghen. Câu này trước khi câu chuyện bắt đầu cũng đủ làm những phản ứng não của những người tin rằng người vợ ngoại tình trở nên giống nhau trong vùng điều khiển cao và khác với phản ứng não của nhóm kia. Nếu một câu đủ làm cho não bạn trở nên giống với người có suy nghĩ như bạn và rất khác người có suy nghĩ khác bạn, thì bạn hãy nghĩ hiệu ứng này sẽ tác động mạnh lên cuộc sống thật, khi chúng ta nghe cùng một tin tức được truyền thông từ ngày này sang ngày khác trên các kênh khác nhau như Fox News hay The New York Times, những thông tin đó cho chúng ta những cái nhìn khác nhau về thực tế.
So let me summarize. If everything worked as planned tonight, I used my ability to vocalize sound to be coupled to your brains. And I used this coupling to transmit my brain patterns associated with my memories and ideas into your brains. In this, I start to reveal the hidden neural mechanism by which we communicate. And we know that in the future it will enable us to improve and facilitate communication. But these studies also reveal that communication relies on a common ground. And we have to be really worried as a society if we lose this common ground and our ability to speak with people that are slightly different than us because we let a few very strong media channels take control of the mic, and manipulate and control the way we all think. And I'm not sure how to fix it because I'm only a scientist. But maybe one way to do it is to go back to the more natural way of communication, which is a dialogue, in which it's not only me speaking to you now, but a more natural way of talking, in which I am speaking and I am listening, and together we are trying to come to a common ground and new ideas. Because after all, the people we are coupled to define who we are. And our desire to be coupled to another brain is something very basic that starts at a very early age.
Tóm lại. Nếu mọi thứ suôn sẻ như chương trình tối nay, tôi đã dùng khả năng phát âm để đưa âm thanh vào não bạn. Và tôi đã dùng cách đưa này để truyền những chi tiết trong não tôi gồm ký ức và các ý tưởng vào trong não bạn. Ở đây, tôi bắt đầu khám phá cơ chế thần kinh ẩn chứa trong giao tiếp của chúng ta. Ta biết trong tương lai điều đó cho phép ta cải thiện và làm cho giao tiếp dễ dàng hơn. Nhưng những nghiên cứu cũng cho thấy giao tiếp phụ thuộc trên nền kiến thức chung. Chúng ta phải quan tâm đến quy mô xã hội nếu ta thiếu nền tảng kiến thức chung và thiếu khả năng nói với người khác thì mọi việc sẽ khác đi vì chúng ta để cho các kênh truyền thông lớn điều khiển quyền được nói, và nhào nặn, điều khiển cách thức chúng ta suy nghĩ. Tôi không biết cách nào để sửa điều tai hại đó vì tôi chỉ là nhà khoa học. Nhưng có thể một cách để làm điều đó là quay lại cách thức tự nhiên hơn của giao tiếp, đó là đối thoại, trong cách đó không chỉ tôi nói với bạn, mà một cách còn tự nhiên hơn nữa, là tôi nói và tôi lắng nghe, và chúng ta cùng nhau cố gắng đạt được nền tảng kiến thức chung và ý tưởng mới. Vì sau tất cả, chính người chúng ta giao tiếp sẽ xác định chúng ta là ai. Và mong muốn được kết nối với những bộ não khác là điều rất cơ bản đã được bắt đầu từ lúc còn rất nhỏ.
So let me finish with an example from my own private life that I think is a good example of how coupling to other people is really going to define who we are.
Cho tôi kết thúc với một ví dụ từ cuộc sống riêng của tôi mà tôi cho đó là một ví dụ tốt về cách thức giao tiếp với người khác giúp ta xác định ta là ai.
This my son Jonathan at a very early age. See how he developed a vocal game together with my wife, only from the desire and pure joy of being coupled to another human being.
Đây là Jonathan của tôi lúc còn rất nhỏ. Hãy nhìn cách nó phát triển một trò chơi âm thanh với vợ tôi, chỉ từ mong muốn và niềm vui được kết nối với người khác.
(Both vocalizing)
(Cả hai cùng phát âm)
(Laughter)
(Cười)
Now, think how the ability of my son to be coupled to us and other people in his life is going to shape the man he is going to become. And think how you change on a daily basis from the interaction and coupling to other people in your life.
Hãy nghĩ làm thế nào khả năng của con trai tôi giao tiếp với chúng tôi và với người khác trong đời nó sẽ hình thành người đàn ông mà nó sẽ trở thành. Hãy nghĩ cách thức bạn thay đổi trên những điều cơ bản ngày thường từ những tương tác và giao tiếp với người khác trong đời bạn.
So keep being coupled to other people. Keep spreading your ideas, because the sum of all of us together, coupled, is greater than our parts.
Hãy giữ liên lạc với mọi người. Hãy truyền bá ý tưởng của bạn, vì sự kết nối tất cả chúng ta với nhau, sẽ làm chúng ta tuyệt vời hơn khi riêng lẻ.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)