Chris Anderson: Dr. Şahin and Dr. Türeci, welcome. Such a treat to speak with you.
Chris Anderson: Xin chào mừng tiến sĩ Şahin và tiến sĩ Türeci. Thật vui được gặp hai người.
Özlem Türeci: Thank you very much, Chris. It's a pleasure to be here.
Özlem Türeci: Cảm ơn rất nhiều, Chris. Tôi cũng hân hạnh được ở đây.
CA: So tell me, as you think back over the last 18 months, what words pop to mind for you?
CA: Vậy cho tôi biết là, khi nghĩ về mười tám tháng vừa qua những từ nào sẽ nảy ra trong đầu ông bà?
ÖT: Well, one word which comes to mind is breathless. It was indeed a breathless 16, 17 months for us. When we started in January last year, it was already at that time clear to us that we were already in a pandemic. What was not known was how fast this pandemic would evolve and whether we would have the time in the first place to have a vaccine ready soon enough in due time. And understanding this, it meant for us that there was not even one day to lose. And this was the mindset of the entire team here in Mainz and at BioNTech and later on also of our partners which were involved, Pfizer and others, to keep going and be fast.
ÖT: Chà, một từ mà tôi nghĩ đến chính là không ngơi nghỉ. 16, 17 tháng qua thật sự là những tháng không ngơi nghỉ đối với chúng tôi. Khi chúng tôi bắt đầu vào tháng Một năm ngoái, chúng tôi đã rõ ràng một điều là mình đang ở trong một cơn đại dịch. Điều không biết chính là việc đại dịch này sẽ tiến triển nhanh đến mức nào và liệu chúng tôi lúc ấy có đủ thời gian để tạo ra một vắc-xin sẵn sàng đủ nhanh trong thời hạn. Và hiểu được điều này với chúng tôi không được phép lãng phí dù chỉ một ngày. Và đó cũng là tư duy của cả đội ở Mainz này đây và cả ở BioNTech và của những cộng sự liên quan sau này, Pfizer và những hãng khác, để tiếp tục tiến triển và tiến triển nhanh.
CA: I mean, it's so extraordinary that the ideas and the work in your minds have now impacted hundreds of millions, perhaps billions of people. That must feel overwhelming. And yet, I know at the same time, you don't believe in this notion of a flash-in-the-pan ideas. Steven Johnson, the author, in his book "Where [Good] Ideas Come From," speaks of the slow hunch, that the best ideas happen over many years. And I know that you believe that is true in your case. I'd like us to go back a couple of decades to -- tell us how this began. How did you meet?
CA: Tôi muốn nói, việc mà những ý tưởng và công trình trong tâm trí của hai người đã có tác động đến hàng trăm, hàng triệu, thậm chí là hàng tỷ người thật sự vô cùng đặc biệt. Điều đó hẳn phải cảm thấy rất áp đảo. Thế nhưng, tôi biết là đồng thời hai người không tin vào khái niệm của những ý tưởng chớp nhoáng. Tác giả Steven Johnson, trong cuốn “Những ý tưởng độc đáo từ đâu xuất hiện”, nói về linh cảm đến chậm, rằng các ý tưởng tuyệt nhất diễn ra lâu dài. Và hai người tin rằng trường hợp của mình cũng thế. Tôi muốn chúng ta lùi về vài thập kỉ trước hãy cho biết chuyện này bắt đầu ra sao. Ông bà gặp nhau thế nào?
ÖT: We met on an oncohematology ward, Uğur being a young physician, and I was still in medical school training on ward. Which means we met in one of the worlds which became important to us, the world of patient care, of treating oncohematology patients. And we soon found out that there was a second world which we liked, namely the world of science. We were haunted by the same dilemma, namely that whereas there was not much we could offer our cancer patients, there were so many potential technologies we encountered in the lab which could address this. So one of our shared visions was to bridge this dilemma by working on bringing science and technology fast. And that's an important word here. Fast to the patient's bedside to address high medical need.
ÖT: Chúng tôi gặp nhau ở khoa huyết học, Uğur là bác sĩ chuyên khoa trẻ, còn tôi vẫn còn trong trường Y đang huấn luyện ở khoa. Nghĩa là chúng tôi gặp nhau ở một trong những thế giới mà đã trở nên quan trọng đối với cả hai, thế giới của chăm sóc người bệnh, chữa trị cho những bệnh nhân bị bệnh về máu. Và chúng tôi sớm nhận ra có một thế giới thứ hai mà cả hai đều thích, cụ thể là thế giới khoa học. Chúng tôi đều bị ám ảnh bởi một song đề, đó là mặc dù chúng tôi không thể giúp đỡ gì nhiều cho những bệnh nhân ung thư, chúng tôi lại bắt gặp rất nhiều công nghệ tiềm năng trong phòng thí nghiệm mà có thể giải quyết vấn đề này. Vậy nên một trong những tầm nhìn chung của chúng tôi để “đẩy thằng béo xuống cầu” trong song đề này là nghiên cứu để đưa đến khoa học và công nghệ một cách nhanh chóng. Và “nhanh chóng” là từ quan trọng ở đây. Nhanh chóng tiếp cận bệnh nhân để giải quyết những nhu cầu y tế cấp thiết.
CA: So I think the first company you founded nearly 20 years ago was to use the power of the human immune system to tackle cancer.
CA: Vậy là công ty đầu tiên hai người thành lập gần 20 năm trước là để sử dụng sức mạnh của hệ miễn dịch con người nhằm xử lí bệnh ung thư.
Uğur Şahin: We were always interested in using the patient's immune system to fight cancer and other type of diseases. As immunologists, we knew how powerful the human immune system is. But it was also clear that the human immune system, in the case of cancer, did not fight cancer cells. It could fight it, but it didn't. And for that, we wanted to develop immunotherapies. That means treatments that use the power of the immune system and redirect the power of the immune system to cancer cells. It was clear that in the university setting, we could not continue to develop monoclonal antibodies because the cost for development of monoclonal antibodies before you can start a clinical trial, was in the range of 20, 30 million euros, and therefore we decided to start a company to get the funding.
Uğur Şahin: Chúng tôi luôn hứng thú trong việc dùng hệ miễn dịch của con người để chống lại ung thư và các loại bệnh khác. Là nhà nghiên cứu miễn dịch, chúng tôi biết hệ miễn dịch mạnh mẽ như thế nào. Nhưng một điều rõ ràng là hệ miễn dịch của con người, trong trường hợp khi bị ung thư, không chống lại những tế bào đó. Nó có thể, nhưng nó lại không. Và do đó, chúng tôi muốn phát triển các liệu pháp miễn dịch. Đó là những phương pháp điều trị sử dụng sức mạnh của hệ miễn dịch và điều hướng nó đến các tế bào ung thư. Rõ ràng là trong môi trường đại học, chúng tôi không thể tiếp tục phát triển các loại kháng thể đơn dòng vì chi phí cho việc phát triển đó cho tới khi bắt đầu một thử nghiệm lâm sàng nằm trong mức 20, 30 triệu euros, và thế nên chúng tôi quyết định thành lập công ty để nhận vốn.
CA: Now, soon after you started this company, you decided to get married. Tell me about your wedding day.
CA: Sau khi thành lập công ty này không lâu, hai người quyết định kết hôn. Kể cho tôi nghe về ngày cưới đi.
ÖT: Day was well planned, a quick wedding. And thereafter we went back to the laboratory and our guests at our wedding, that was basically our team, our research team. So no time to lose, Chris.
ÖT: Hôm đó được lên kế hoạch rất chu đáo, một đám cưới nhanh gọn. Và ngay sau đó chúng tôi trở về phòng thí nghiệm, khách dự ở đám cưới hôm đó căn bản là đội của chúng tôi, đội nghiên cứu. Vậy nên không tốn thì giờ đâu, Chris.
CA: (Laughs) That was a pretty special honeymoon. I mean, it seems like your love for each other is very much bound up in your love for this work and your sense of the importance of this work. How would you characterize those intersecting relationships there?
CA: (cười) Tuần trăng mật đó khá đặc biệt đấy. Ý tôi là, có vẻ như tình yêu hai người dành cho nhau cũng gần như gắn với tình yêu dành cho công việc này và ý thức về tầm quan trọng của nó. Hai người phân loại những mối quan hệ giao thoa ở đây như thế nào?
UŞ: We are really two scientists. At the end of the day, we love what we do, and for us, we don't differentiate between work and life balance. It's for us really a privilege to be scientists, to be able to do what we love. And therefore, we combine our normal life with our professional life. And therefore, this is pretty normal for us.
UŞ: Chúng tôi về bản chất là hai nhà khoa học. Suy cho cùng, chúng tôi yêu những gì mình làm, và đối với chúng tôi, cả hai không phân biệt rạch ròi giữa cân bằng công việc và đời sống. Được làm nhà khoa học thực sự là một đặc quyền đối với cả hai, được làm những gì mình yêu. Và do đó, chúng tôi kết hợp cuộc sống đời thường của mình với đời sống chuyên môn. Thế nên chuyện này khá là bình thường.
CA: So talk to me about this extraordinary molecule RNA, and how you got interested in it and how it became, as I understand it, an increasing focus of your work. And indeed, it led to the founding of BioNTech. Talk about that.
CA: Vậy thì nói cho tôi nghe về phân tử RNA phi thường này đi, về cách mà ông bà trở nên hứng thú với nó và cách mà nó trở thành, theo như tôi hiểu trọng tâm của công việc. Và hơn thế, lí do cho sự thành lập BioNTech. Xin hãy nói thêm về điều đó.
UŞ: Yeah, mRNA is a natural molecule, it's one of the first molecules of life. It is a carrier of genetic information. But in contrast to DNA, it's not stable. So it can be used to transfer information to human cells. And the human cells can use this information to build proteins, which can be used for therapeutic settings, for example, to make a protein which is a vaccine, or to make a protein which is an antibody, or to make a protein which is another type of drug. And we were fascinated by this molecule class, because it was very clear that mRNA can be produced pretty fast, within a few days. And we were, as MDs, we were particularly interested to develop personalized medicines. That means a treatment and immunotherapy specifically designed for a cancer patient, because one of the key challenges in cancer treatment, is that every patient has a different tumor. If you compare two tumors of two patients with the same type of tumor, the similarity of the tumors is less than three percent and 97 percent is really unique. And today, it's still not possible to address the uniqueness of the tumor of a patient. And therefore, we were seeking for a technology which could be used for immunotherapy and which could be used to develop a treatment within the shortest possible time. The idea to get the genetic sequence of the tumor and then make a vaccine which is personalized, within a few weeks.
UŞ: Hẳn rồi, mRNA là một phân tử tự nhiên. Nó là một trong những phân tử đầu tiên của sự sống. Nó mang theo thông tin di truyền. Nhưng trái ngược với DNA, nó không ổn định nên nó có thể được dùng để truyền tải thông tin đến các tế bào của con người. Và những tế bào đó có thể dùng thông tin này để tạo ra các loại protein, thứ có thể được dùng cho các mục đích trị liệu, ví dụ như tạo ra loại protein để làm vắc-xin, hoặc tạo ra loại để làm kháng thể, hoặc tạo ra loại để làm thuốc. Chúng tôi bị cuốn hút bởi loại phân tử này, vì một điều rõ ràng là mRNA có thể được tạo ra khá nhanh, chỉ trong vòng một vài ngày. Với tư cách là bác sĩ, chúng tôi cực kì hứng thú trong việc phát triển các mô hình y học cá thể hóa. Đó là phương pháp điều trị và liệu pháp miễn dịch được thiết kế dành riêng cho một bệnh nhân ung thư, vì một trong những thách thức chính của điều trị ung thư là việc mỗi bệnh nhân đều có một khối u khác nhau. Nếu bạn so sánh những khối u của hai bệnh nhân trong cùng một loại u, sự giống nhau của các khối u đó là ít hơn 3% và khác nhau ở 97% còn lại. Và tận ngày nay, việc giải quyết sự khác biệt của khối u của bệnh nhau vẫn là bất khả thi. Thế nên, chúng tôi đang tìm kiếm một công nghệ có thể sử dụng được cho liệu pháp miễn dịch và cho việc phát triển một phương pháp điều trị trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể. Ý tưởng là lấy được chuỗi trình tự gen của khối u rồi tạo nên loại vắc-xin dành riêng cho nó trong vòng một vài tuần.
CA: Is it fair to say that almost all of the significant things that happen to us biologically are actions done by proteins, and that it's mRNA that actually makes those proteins? If you can understand the language of mRNA, you can get involved in pretty much everything of significance to the well-being of a human being.
CA: Có đúng không khi nói rằng gần như mọi điều đáng kể nào xảy ra với chúng ta trên mặt sinh học đều được gây ra bởi các protein, và mRNA là thứ thật sự làm nên các protein đó? Nếu các bạn có thể hiểu được thứ ngôn ngữ của mRNA, các bạn có thể can thiệp vào gần như mọi thứ quan trọng đến sức khỏe của một con người.
ÖT: Exactly. So in principle, the information instructions are in the DNA. These have to be translated into protein because proteins are the actors which keep our cells alive and our organism functional. And the way how to translate what is instructed by DNA in a fashion that it is well-timed and happens at the right places, into protein, there is messenger RNA. Messenger RNA sort of instructs when and how much of which protein has to be built in order to ensure the activity of our body.
ÖT: Chính xác là vậy. Về nguyên lý, những hướng dẫn thông tin đều nằm trong DNA. Những cái đó phải được phiên dịch vào protein vì protein là những tác nhân giúp tế bào của chúng ta sống được và cơ thể chúng ta hoạt động được. Và cách để phiên dịch điều được quy định bởi DNA theo một cách mà đúng lúc và xảy ra vào đúng nơi, vào protein, là do RNA thông tin. RNA thông tin đại loại quy định thời điểm và số lượng mà loại protein đó cần được tạo ra nhằm đảo bảo hoạt động của cơ thể chúng ta.
CA: So you can almost think of DNA as the sort of The Oxford English Dictionary of Language. It sort of sits there as the reference point. But for the actual living work, the living work of language out there in the world instructing things, that is done by mRNA.
CA: Vậy gần như có thể nghĩ về DNA đại loại như từ điển tiếng Anh Oxford. Nó gần như chỉ ở đó để tham khảo. Nhưng để sự sống hoạt động, việc đưa ngôn ngữ vào thế giới ngoài kia, tạo lập các ngôn từ đó là việc làm của mRNA.
UŞ: Yeah, absolutely, it is possible. So the human cells, exactly, DNA is like a library. If you have the platform for the messenger RNA therapy, you can deliver any type of message and the body cells ensure that the message is translated into the right protein.
UŞ: Đúng, hoàn toàn có thể nghĩ như vậy. Các tế bào con người, hay DNA, chắc chắn có thể xem như một thư viện. Nếu bạn có nền tảng cho liệu pháp RNA thông tin, bạn có thể đưa bất cứ loại thông điệp nào và các tế bào cơ thể đảm bảo rằng thông điệp được phiên dịch vào loại protein đúng.
ÖT: A high advantage of mRNA is that it is so versatile. You can deliver all sorts of messages, as Uğur has called them. On the one hand, you can deliver the blueprint for the protein which you want to be produced in this cell. But you can, with the same molecule, also design into the mRNA instructions how this protein should be built, instructions to the protein factories of the cell. So you can define whether you want this protein to be built in high amounts or for a long duration, how the pharmacokinetics of this protein should be in the cell.
ÖT: Một ưu điểm vượt trội của mRNA là nó vô cùng đa năng. Bạn có thể truyền bất cứ thông điệp nào, như Uğur đã gọi như thế. Mặt khác, bạn cũng có thể truyền bản vẽ của loại protein mà bạn muốn được sản xuất vào tế bào này. Nhưng bạn cũng có thể, với cùng loại phân tử đó, đưa vào mRNA những quy định về cách tạo ra protein này đến các nhà máy sản xuất protein của tế bào. Thế nên bạn có thể xác định liệu bạn có muốn loại protein này được tạo ra với số lượng lớn hoặc trong một khoảng thời gian dài hơn, liệu dược động học của protein này có nên ở trong tế bào không.
CA: So talk about January of last year when you first heard about this new virus that was spreading.
CA: Hãy nói về tháng Một năm ngoái khi ông bà mới nghe về loại virus đang hoành hành này.
UŞ: So in the end of January, we read a paper published about this outbreak in Wuhan, and realized that this new outbreak has all features to become a global pandemic, and we were concerned that our life will change, that this outbreak could change the fate of mankind. And we knew that we have this messenger RNA technology, which was actually developed for personalized cancer therapy. But the idea of personalized cancer therapy is to get the genetic information of the patient and then make a vaccine as fast as possible. And we had now the same situation. It was not a personalized vaccine, but it was a genetic information of the virus, which was released two weeks earlier. And so this genetic information of this virus was available, and our task was to make a vaccine as fast as possible. And the challenge at that time point was, there was almost nothing known about this virus. It was a completely new virus. We had some assumptions which target which molecule encoded by the virus could be the right target. That means the molecule which can be used to precisely engineer an immune attack. This is the spike protein. It is on the surface of the virus. And there's not only one copy of the spike protein on the virus, but multiple in the range of 20, 25, 30 spike proteins. And the spike protein has two functions. One function is really to enable that the virus sticks to human cells. For example, it sticks to cells in the human lung. And the second is that the spike protein acts as a key. It allows the virus to enter into the cells. Our goal was to engineer an immune response.
UŞ: Vào cuối tháng Một năm ngoái, chúng tôi đọc một bài báo xuất bản về cơn bùng phát dịch ở Vũ Hán, và nhận ra rằng cơn bùng phát mới này có đủ đặc điểm để trở thành một đại dịch toàn cầu, và chúng tôi lo lắng rằng cuộc sống sẽ thay đổi, rằng cơn bùng phát dịch này có thể thay đổi vận mệnh của cả nhân loại. Và chúng tôi biết là chúng tôi có công nghệ mRNA thông tin này, thứ thật ra được phát triển cho điều trị ung thư cá thể hóa. Nhưng ý tưởng của nó là lấy thông tin gen của bệnh nhân rồi tạo ra vắc-xin càng nhanh càng tốt. Và giờ chúng ta có tình huống tương tự. Không còn cần vắc-xin cá thể hóa mà là thông tin gen của virus được công bố hai tuần trước. Vậy đã có thông tin gen của virus này rồi, nhiệm vụ của chúng tôi là tạo vắc-xin nhanh nhất có thể. Trở ngại vào thời điểm đó chính là hầu như ta không biết gì về loại virus này cả. Nó là loại virus hoàn toàn mới. Chúng tôi đã có một vài phán đoán rằng nhắm vào phân tử nào được mã hóa bởi virus sẽ là mục tiêu đúng. Điều này có nghĩa là phân tử nào có thể được dùng để lập trình một cách chính xác một cuộc tấn công miễn dịch. Đây là protein gai. Nó ở trên bề mặt của virus. Trên virus không chỉ có một bản sao của protein gai, mà nhiều bản trong tầm 20, 25, 30 gai. Protein gai có hai chức năng. Một chức năng đó là cho phép virus dính vào tế bào người. Ví dụ, nó dính vào các tế bào của phổi người. Chức năng thứ hai đó là protein gai hoạt động như một chiếc chìa khóa. Nó cho phép virus xâm nhập vào tế bào. Mục tiêu của chúng tôi là tạo được phản ứng miễn dịch.
CA: You've got a slide showing the T-cell response to your vaccine. How long were you into the process before you saw this and you saw, wow, there really is a spectacular response going on here?
CA: Ông bà có một slide biểu diễn phản ứng của tế bào lympho T đối với vắc-xin. Ông bà đã nghiên cứu bao lâu trước khi thấy được điều này và nhận ra, ồ, có một phản ứng đáng kể đang diễn ra ở đây?
ÖT: We saw this already in the animal models because they are also meant to assess the immune response. And what is shown on this slide is on the left side, a lymph node from a setting where there was no RNA treatment or RNA vaccination. And on the right side, a lymph node of a treated organism, in this case, an animal. And the localization matters. And we have constructed our RNA nanoparticles, with encapsulation into lipids such that the mRNA is carried into lymph nodes, not just anywhere, it's carried into lymph nodes and in the lymph nodes it reaches a very special cell type, which is called dendritic cells, and these cells are coaches of the immune system. So they are the generals which call all the different special forces and train them on the wanted poster of attacker. And it's very important that you reach those cells. On the right side, you can see the effect of reaching those cells. You see many red dots. And these are T-cells which have been trained to recognize the antigen, the protein which mRNA has delivered, and they have expanded to a sort of army of clones, so to say. So all these red dots are an army which only knows one goal, namely attacking this specific protein encoded by the mRNA.
ÖT: Chúng tôi đã nhận ra điều này từ những mẫu thử động vật vì chúng cũng được dùng để đánh giá phản ứng miễn dịch. Và những gì slide này cho thấy ở bên trái, sưng hạch bạch huyết trong trường hợp không có liệu pháp RNA hay vắc-xin RNA. Và ở bên phải, sưng hạch bạch huyết trong một cơ thể sống đã được chữa trị, trong trường hợp này là động vật. Điều quan trọng là địa phương hóa tế bào. Chúng tôi tạo ra những phân tử nano RNA bọc bởi nang chất béo, loại chất béo mang mRNA vào trong các hạch bạch huyết, bên trong hạch, chứ không chỉ bất cứ đâu và trong các hạch bạch huyết đó nó đến một loại tế bào vô cùng đặc biệt, gọi là các tế bào tua, và những tế bào đó là huấn luyện viên của hệ miễn dịch. Chúng là những vị tướng chỉ huy đủ các lực lượng khác nhau và huấn luyện chúng nhận diện ảnh truy nã của kẻ tấn công. Thế nên việc đến được các tế bào đó là rất quan trọng, Ở phía bên phải, bạn có thể thấy tác động của việc đến được các tế bào đó. Cụ thể là nhiều chấm đỏ. Và những tế bào T được huấn luyện để nhận ra các kháng nguyên, loại protein được mRNA đưa tới, chúng nhân lên thành một đội quân của các bản sao, có thể nói vậy. Tất cả những chấm đỏ này là một đội quân chỉ biết đến một mục tiêu duy nhất, cụ thể là tấn công loại protein đặc thù được mã hóa bởi mRNA.
CA: So it's really stunning that within just a few days of your looking at this sequence of the most dangerous pathogen to hit humanity in 100 years, I guess, that you were able to come up with these these candidate vaccines. And I guess over the course of the next weeks and months, you had growing confidence that, wow, this was going to work. It wasn't until the results of the human trials came out, I guess in November of last year, that you really knew. Tell us about that moment.
CA: Thật sự rất kinh ngạc là chỉ trong vài ngày quan sát dải trình tự của một trong những mầm bệnh nguy hiểm nhất từng tấn công loài người trong 100 năm qua mà ông bà đã có thể nghiên cứu ra những vắc-xin ứng cử viên này. Tôi đoán là qua những tuần và tháng tiếp theo, ông bà đã cảm thấy tự tin hơn rằng là, ồ, điều này sẽ có hiệu quả. Nhưng sự thật chỉ được biết khi kết quả của những thử nghiệm lâm sàng trên người được công bố vào, tôi đoán là, tháng 11 năm ngoái. Xin hãy chia sẻ thêm về khoảnh khắc đó.
ÖT: It was a Sunday when we were waiting for these results, which are assessed in such trials by an independent committee and Uğur said, "So let's see how the data will look like." It was not clear whether it would be a thumbs up or down. And we were very relieved. And I felt blessed to hear that the vaccine was efficacious and it was highly efficacious, over 90 percent.
ÖT: Hôm đó là Chủ Nhật lúc chúng tôi đang đợi kết quả, được đánh giá trong các thử nghiệm tiến hành bởi một hội đồng độc lập và Uğur nói với tôi là: “Thôi cứ xem dữ liệu sẽ trông như thế nào.” Chúng tôi không rõ là mình sẽ được thông qua hay không. Vậy nên cả hai đã vô cùng nhẹ nhõm. Và tôi cảm thấy như được phù hộ khi nghe rằng vắc-xin rất hiệu quả và nó có hiệu quả rất cao, hơn 90%.
CA: And that more than 90 percent almost disguises the full extent, because that's just against any kind of level of infection of COVID. Severe infection and fatalities were almost completely protected against, I think. And it must have been an ecstatic moment for you. Certainly was for so many people around the world.
CA: Con số 90% thật sự không thể hiện hết hiệu quả của vắc-xin, vì nó chống lại bất cứ mức độ truyền nhiễm nào của COVID. Nó gần như bảo vệ chúng ta hoàn toàn khỏi nhiễm trùng nặng và khả năng tử vong, tôi nhớ là thế. Đó hẳn phải là khoảnh khắc vui sướng đối với ông bà và chắc chắn là với nhiều người thế giới.
UŞ: Yes, absolutely. So this was a Sunday evening, and there were a handful of people knowing that an effective vaccine is existing against this global pandemic. And we were so excited and so happy and we shared of course this information the next day.
UŞ: Chắn chắn là thế. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật, và có một số ít người biết về sự tồn tại của vắc-xin có hiệu quả chống lại được đại dịch toàn cầu. Chúng tôi đã rất phấn khích và vui mừng và chia sẻ thông tin này vào ngày tiếp theo.
CA: So based on what's happened this time around and the amazing acceleration, compared with any other vaccine development, I mean, if we were hit by another virus, could you picture that next time we could accelerate the time line further still if need be?
CA: Dựa trên những gì xảy ra lần này và sự tăng tốc tuyệt vời ấy, khi so sánh với bất kì quá trình phát triển vắc-xin nào khác, tôi muốn hỏi, giả sử chúng ta bị một loại virus khác tấn công, ông bà có hình dung là lần tiếp theo chúng ta vẫn có thể tăng tốc hơn nữa nếu cần không?
UŞ: Yes, Chris, this is an excellent question. Actually, the world was not prepared to deal with such a pandemic. The science and the vaccine developers reacted in an excellent fashion. And it is incredible and wonderful that it was possible to come up with an effective vaccine while a pandemic is ongoing, in less than 12 months. But the challenges that we have at the moment is that we don't have sufficient production capacity. Ideally, we would be prepared the next time, not only to develop a vaccine in light speed, but also to to make and distribute the vaccine in light speed. So what we need now is an additional element which was not existing, is manufacturing capacity. And idle manufacturing capacity. We must be bringing us into a position that we can produce 12 billion doses of vaccine, if you consider prime boost, within less than six months. And this is technically possible. So this can be done if governments and international organizations invest into manufacturing capacity, invest into keeping this idle capacity, and also come up with a standard time span and process to enable even faster response. So we in principle, we might be able to manage to come up with a vaccine and start distribution in even less than eight months.
UŞ: Vâng, Chris, đây là một câu hỏi tuyệt vời. Thực ra, thế giới không được chuẩn bị để đối phó với đại dịch như thế này. Khoa học và các nhà phát triển vắc-xin đã phản ứng theo một cách xuất sâc. Và việc mà chúng ta có khả năng nghiên cứu ra loại vắc-xin hữu hiệu trong khi đại dịch vẫn còn diễn ra, dưới 12 tháng, là một điều đáng kinh ngạc và tuyệt vời. Nhưng những thách thức ta đang có hiện giờ đó là ta không có đủ công suất sản xuất. Điều lý tưởng sẽ là ta sẽ được chuẩn bị cho lần tiếp theo, để không chỉ phát triển vắc-xin với tốc độ ánh sáng mà còn sản xuất và phân phối với tốc độ ánh sáng. Vậy nên điều ta cần bây giờ là một yếu tố thêm vào hiện không tồn tại, là năng lực sản xuất. Và năng lực sản xuất nhàn rỗi. Chúng ta cần phải đưa mình vào trạng thái mà ta có thể sản xuất 12 tỷ liều vắc-xin, nếu bạn tính cả liều nhắc, trong vòng chưa đến sáu tháng. Và ta có khả năng về mặt kĩ thuật. Vậy nên là vấn đề này có thể được thực hiện nếu chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế đầu tư vào năng lực sản xuất, đầu tư vào duy trì năng lực sản xuất nhàn rỗi, thêm vào đó cũng đưa ra quy trình và mốc thời gian tiêu chuẩn để cho phép phản ứng nhanh hơn nữa. Vậy chúng ta, theo nguyên lí, có khả năng tạo ra vắc-xin và bắt đầu phân phối trong khoảng thời gian thậm chí chưa tới tám tháng.
CA: What does what's happened in this last year tell you now about the prospects for using mRNA to treat cancer and indeed other diseases? Where is this heading?
CA: Chuyện gì đã xảy ra vào cuối năm ngoái mà giờ cho ông bà biết về những triển vọng của việc sử dụng mRNA vào chữa trị ung thư và cả những bệnh khác nữa? Tương lai của nó là gì?
UŞ: What we have now is now an approved technology and a first approved product. The development of the coronavirus mRNA vaccine shows the power of the mRNA and it shows also the safety of this approach. And it shows that it opens up a door for new technology and for new type of treatments. And the mRNA molecules that we are currently using for cancer, we have more than 10 products now in clinical development, are diverse against different types of cancer. We are very confident that the success that we have generated now for our infectious disease vaccines can be continued with our cancer immunotherapies.
UŞ: Thứ chứng ta có bây giờ là một công nghệ nay đã được cấp phép và sản phẩm được cấp phép đầu tiên. Sự phát triển của vắc-xin mRNA phòng virus Corona cho thấy sức mạnh của mRNA và nó cũng cho thấy được tính đảm bảo của hướng tiếp cận này. Đồng thời nó cũng cho thấy hướng phát triển của công nghệ mới và những phương pháp chữa trị bệnh mới. Các phân tử mRNA mà chúng tôi đang dùng để trị ung thư, chúng tôi có hơn 10 sản phẩm đang trong quá trình phát triển lâm sàng, đủ đa dạng để chống lại được các dạng ung thư khác nhau. Chúng tôi rất tự tin rằng thành công mình tạo ra bây giờ trong vắc-xin phòng bệnh truyền nhiễm có thể được nối tiếp bởi các phương pháp điều trị miễn dịch bệnh ung thư.
CA: Some people may hear this and say this is just another type of drug that's coming along. But I think on the mental model you're talking about, we should think about it as much more revolutionary than that, that typically a drug, a traditional drug, kind of changes the chemical environment, the background of an entire area of the body. But your -- If you understand the language of mRNA, you can do something much more specific and precise. Is that something like a fair way to think about it?
CA: Một số người có thể nghe và nói rằng đây chỉ là một loại thuốc mới ra đời thôi mà. Nhưng tôi lại nghĩ về mô hình tư duy ông bà vừa nói, ta nên nghĩ về vắc-xin này rằng nó mang tính cách mạng hơn thế, nó còn hơn cả một loại thuốc điển hình, loại truyền thống hay dùng để thay đổi môi trường hóa học hay bản chất của cả một vùng cơ thể. Nhưng của ông bà thì -- Nếu chúng ta hiểu được thứ ngôn ngữ của mRNA, ta có thể làm được những điều cụ thể hơn và chính xác hơn. Đây có phải là một cách nghĩ đúng không?
ÖT: Yes, indeed. It could be the next revolution in the biopharm landscape.
ÖT: Vâng, đúng vậy. Đây có thể là cuộc cách mạng tiếp theo trong lĩnh vực dược phẩm sinh học.
UŞ: At the end of the day, disease is a situation where the communication between cells is disturbed. So, for example, autoimmune disease is a disease condition where immune cells attack normal cells. And indeed, we could engineer messenger RNA therapies which could teach the immune system to stop to do that, without inhibiting the whole immune system, by just communicating with the immune cells which are attacking. We could be precise and more specific.
UŞ: Suy cho cùng, bệnh tật là một tình huống mà sự liên lạc giữa các tế bào bị gián đoạn. Ví dụ, bệnh tự miễn dịch là một tình trạng bệnh diễn ra khi các tế bào miễn dịch tấn công các tế bào thường. Ta chắc chắn có thể lập trình các phương pháp điều trị RNA thông tin để dạy hệ miễn dịch ngừng tấn công mà không ức chế toàn bộ hệ thống bằng cách chỉ liên lạc với các tế bào miễn dịch đang thực hiện tấn công. Chúng ta có thể làm một cách chính xác và cụ thể hơn.
CA: The success of BioNTech over the last couple of years, I think the value of the company has rocketed because of the amazingness of what's happened. I mean, it's made you both extremely wealthy, I think you're both billionaires now. How have you been able to respond to that? Sometimes so much money brings its own problems with it. Is that proving a distraction?
CA: Thành công của BioNTech trong vài năm qua chắc đã nâng cao giá trị của công ty bởi sự tuyệt vời của những gì đã xảy ra. Ý tôi là, ông bà đã trở nên cực kì giàu có, tôi nghĩ cả hai giờ đều là tỉ phú rồi. Ông bà đã và đang phản ứng với điều này như thế nào? Vì đôi lúc quá nhiều tiền của cũng đi kèm những rắc rối riêng. Nó có đang dần thành mối phân tâm không?
ÖT: For a company which sees innovation as its core mission, too much money is never a problem. Because innovation really means that you have to invest. Otherwise, we will only have two type of products or incremental improvement for solutions of high medical need.
ÖT: Đối với một công ty xem sự đổi mới là nhiệm vụ cốt lõi thì quá nhiều tiền không bao giờ là vấn đề. Bởi vì đổi mới thật sự có nghĩa là bạn phải đầu tư. Bằng không, chúng tôi sẽ chỉ có hai loại sản phẩm hoặc sự cải thiện từ từ đối với các giải pháp cho nhu cầu y tế cấp thiết.
UŞ: It really gives us the chance to transform our company. So we were when we started -- When we compare ourselves with the situation we had at the beginning of 2020, we had a number of product candidates in clinical testing, but the company required funding every year or every second year. Now we have a situation to really address the full vision of the company. We started BioNTech with the idea really to provide novel treatments wherever there is a high unmet medical need. And we now can do that in a much larger and broader scale, and bring our innovations faster to patients.
UŞ: Nó đã thực sự trao cho chúng tôi cơ hội để biến đổi công ty của mình. Vào lúc chúng tôi bắt đầu -- Khi chúng tôi so sánh công ty mình bây giờ với tình cảnh công ty vào đầu năm 2020, lúc ấy chúng tôi có một số sản phẩm ứng cử viên đang được kiểm tra lâm sàng, nhưng công ty lại cần gọi vốn mỗi năm hoặc mỗi hai năm. Giờ thì chúng tôi có đủ khả năng để thực hiện toàn bộ tầm nhìn của công ty. Chúng tôi thành lập BioNTech với ý tưởng thực sự để đưa ra những phương pháp điều trị mới cho bất cứ nơi nào có nhu cầu y tế cấp thiết chưa được đáp ứng. Giờ thì chúng tôi có thể làm được điều này ở quy mô lớn hơn và rộng rãi hơn, và mang những cải tiến của mình đến với bệnh nhân nhanh hơn.
CA: You are both from families who immigrated from Turkey to Germany. Immigrants have faced hard times in many countries, including Germany. And yet you, I think, have helped transform the debate about immigration, in Germany and elsewhere, just by the extraordinary success that you've achieved creating this world-leading company in Germany. Do you take joy for the impact you may have had on this issue?
CA: Cả hai người đều xuất thân từ gia đình nhập cư sang Đức từ Thổ Nhĩ Kỳ. Người nhập cư đã và đang phải đối mặt với thời gian khó khăn ở các nước, bao gồm Đức thế nhưng theo tôi, ông bà đã giúp thay đổi cuộc tranh luận về sự nhập cư này, ở Đức và các nơi khác nữa, chỉ bằng thành công phi thường mà ông bà đã đạt được tạo nên công ty dẫn đầu thế giới này ở Đức. Ông bà có thấy vui với những tác động mà mình mang lại về vấn đề này không?
UŞ: It is somehow surprising because the way how we do science, and how we recognize how people work effectively in teams together is not to us from where the person is coming, but what the person can contribute. So in our company, we have employees from more than 60 countries. So we are an international group of scientists, as any other research institution. So we have to recognize that globalization really helps to bring people, scientists or other engineers into one place, allowing to work together and to come with extraordinary results. For us, this is somehow surprising that this is seen as special. It is just the way how excellent research and science work.
UŞ: Điều này có hơi bất ngờ bởi cái cách mà chúng tôi làm khoa học, và cách mà chúng tôi ghi nhận mọi người đã làm việc hiệu quả theo các nhóm ra sao là không tập trung vào chuyện người đó đến từ đâu mà là vào những gì họ có thể cống hiến. Trong công ty của mình, chúng tôi có những nhân viên đến từ hơn 60 nước khác nhau. Chúng tôi là một nhóm các nhà khoa học quốc tế cũng như bao viện nghiên cứu khác. Vậy nên chúng tôi công nhận là toàn cầu hóa thật sự giúp mang những con người, các nhà khoa học hay những kĩ sư vào trong cùng một nơi, cho phép chúng tôi làm việc cùng nhau và tạo ra những thành quả phi thường. Đối với cả hai, chuyện này được xem là đặc biệt có hơi bất ngờ. Thật sự nó chỉ là cách khoa học và nghiên cứu hoạt động một cách xuất sắc.
CA: Well, it's extraordinary and inspiring what you've achieved, and it'll be very exciting to track progress over the coming years. Thank you so much. Thank you.
CA: Những gì ông bà đạt được là phi thường và đầy cảm hứng, và theo dõi sự phát triển của hai người trong những năm tới sẽ rất hứng khởi đây. Cảm ơn rất nhiều. Xin cảm ơn.