Late in January 1975, a 17-year-old German girl called Vera Brandes walked out onto the stage of the Cologne Opera House. The auditorium was empty. It was lit only by the dim, green glow of the emergency exit sign. This was the most exciting day of Vera's life. She was the youngest concert promoter in Germany, and she had persuaded the Cologne Opera House to host a late-night concert of jazz from the American musician, Keith Jarrett. 1,400 people were coming. And in just a few hours, Jarrett would walk out on the same stage, he'd sit down at the piano and without rehearsal or sheet music, he would begin to play.
Cuối tháng Một năm 1975, một cô gái 17 tuổi, người Đức tên là Vera Brandes bước lên sân khấu Nhà hát Cologne Opera. Khán đài lúc đó chưa có ai. Khán đài được chiếu sáng bởi đèn báo thoát hiểm màu xanh mờ ảo. Đây là ngày kịch tính nhất trong đời Vera. Lúc đó, cô là người sáng lập dàn nhạc trẻ nhất nước Đức, và cô đã thuyết phục Nhà hát Cologne Opera cho phép diễn 1 đêm nhạc jazz của nhạc sĩ người Mỹ, Keith Jarrett. 1.4000 người sẽ đến xem. Chỉ trong vài giờ nữa, Jarrett sẽ bước ra sân khấu, ông ta sẽ ngồi xuống đàn không thử lại cũng không có bài nhạc, ông sẽ bắt đầu biểu diễn.
But right now, Vera was introducing Keith to the piano in question, and it wasn't going well. Jarrett looked to the instrument a little warily, played a few notes, walked around it, played a few more notes, muttered something to his producer. Then the producer came over to Vera and said ... "If you don't get a new piano, Keith can't play."
Nhưng lúc đó, Vera dẫn Keith đến cây đàn piano đó, ông thấy đàn không ổn. Jarrett nhìn cây đàn một cách ái ngại, đánh vài nốt, đi quanh cây đàn, đánh vài nốt nữa, nói thầm thì với người phụ trách. Rồi người phụ trách đến nói với Vera ... "Nếu không có cây đàn khác, thì Keith không biểu diễn."
There'd been a mistake. The opera house had provided the wrong instrument. This one had this harsh, tinny upper register, because all the felt had worn away. The black notes were sticking, the white notes were out of tune, the pedals didn't work and the piano itself was just too small. It wouldn't create the volume that would fill a large space such as the Cologne Opera House.
Đã xảy ra nhầm lẫn. Nhà hát đã chuẩn bị một cây đàn không đúng yêu cầu. Nốt cao của đàn này có âm the thé khó nghe, vì tất cả các phím trái quá cũ mòn. Các nốt đen thì bị kẹt dính, các nốt trắng thì bị lạc, các pê-đan thì bị hỏng và bản thân cây piano thì quá nhỏ. Nó không có đủ âm lượng cho không gian rộng như Rạp Cologne Opera.
So Keith Jarrett left. He went and sat outside in his car, leaving Vera Brandes to get on the phone to try to find a replacement piano. Now she got a piano tuner, but she couldn't get a new piano. And so she went outside and she stood there in the rain, talking to Keith Jarrett, begging him not to cancel the concert. And he looked out of his car at this bedraggled, rain-drenched German teenager, took pity on her, and said, "Never forget ... only for you."
Thế là Keith Jarret đi xuống. Ông ta ra ngồi trong xe, bỏ mặc Vera Brandes gọi điện để cố tìm cho ra được một đàn piano thay thế. Cô ta tìm được người chỉnh đàn, nhưng không có được cây đàn khác. Và thế là cô ta đi ra ngoài, đứng dưới mưa, và nói với Keith Jarrett, cầu xin ông ta đừng hủy buổi trình diễn. Và ông ta nhìn ra ngoài xe nhìn cô gái Đức tuổi teen thảm hại vì ướt sũng, thương hại cô, ông nói, "Đừng bao giờ quên ... chỉ vì cô."
And so a few hours later, Jarrett did indeed step out onto the stage of the opera house, he sat down at the unplayable piano and began.
Vì thế, một vài giờ sau, Jarrett đã bước ra sân khấu của nhà hát, ngồi xuống chiếc piano không thể chơi được và bắt đầu.
(Music)
(Nhạc)
Within moments it became clear that something magical was happening. Jarrett was avoiding those upper registers, he was sticking to the middle tones of the keyboard, which gave the piece a soothing, ambient quality. But also, because the piano was so quiet, he had to set up these rumbling, repetitive riffs in the bass. And he stood up twisting, pounding down on the keys, desperately trying to create enough volume to reach the people in the back row.
Một vài phút sau, điều kỳ diệu đã xảy ra. Khi Jarrett đang tránh những nốt cao, ông ta bị trùng ngón ở những phím giữa, điều đó làm cho tác phẩm thêm phần du dương, êm dịu. Nhưng cũng vì cây piano không đủ độ vang, ông ta phải chơi đoạn riff ở các phím trầm. Và ông ta đứng lên vặn người, đánh xuống các phím đàn, táo bạo đánh mạnh cho đủ độ vang để khán giả phía sau có thể nghe được.
It's an electrifying performance. It somehow has this peaceful quality, and at the same time it's full of energy, it's dynamic. And the audience loved it. Audiences continue to love it because the recording of the Köln Concert is the best-selling piano album in history and the best-selling solo jazz album in history.
Đó là một diễn xuất xuất thần. Như thế nó có được sự êm ả, và đồng thời tràn đầy năng lượng, thật sinh động. Khán giả đã rất ngưỡng mộ. Và khán giả ngày nay còn tiếp tục yêu thích vì đĩa thu Köln Concert, chương trình của buổi diễn hôm đó, là album piano bán chạy nhất lịch sử và là album nhạc jazz solo bán chạy nhất lịch sử.
Keith Jarrett had been handed a mess. He had embraced that mess, and it soared. But let's think for a moment about Jarrett's initial instinct. He didn't want to play. Of course, I think any of us, in any remotely similar situation, would feel the same way, we'd have the same instinct. We don't want to be asked to do good work with bad tools. We don't want to have to overcome unnecessary hurdles. But Jarrett's instinct was wrong, and thank goodness he changed his mind. And I think our instinct is also wrong. I think we need to gain a bit more appreciation for the unexpected advantages of having to cope with a little mess. So let me give you some examples from cognitive psychology, from complexity science, from social psychology, and of course, rock 'n' roll.
Keith Jarrett đã lâm vào tình trạng hỗn độn. Ông ta ôm đống bừa bộn đó và làm nó thăng hoa. Nhưng hãy nghĩ về cảm giác ban đầu của Jarrett Ông ta không muốn chơi. Đương nhiên, tôi nghĩ bất kỳ ai trong chúng ta, trong tình huống tương tự, sẽ cảm thấy như vậy, ta cũng sẽ phản ứng như vậy. Chúng ta không muốn bị đòi hỏi phải làm việc tốt với các dụng cụ tồi. Chúng ta không muốn phải vượt qua những khó khăn quá đáng. Nhưng cảm giác đó của Jarrett đã sai, và ơn trời, ông đã đổi ý. Và tôi nghĩ cảm giác của chúng ta cũng sai. Tôi nghĩ chúng ta đòi hỏi điều kiện tốt hơn để có được những thuận lợi không cần thiết khi gặp những khó khăn bất ngờ. Xin nói với các bạn một vài ví dụ trong tâm lý học nhận thức, trong khoa học phức hợp, trong tâm lý học xã hội, và cả nhạc rock'n' roll.
So cognitive psychology first. We've actually known for a while that certain kinds of difficulty, certain kinds of obstacle, can actually improve our performance. For example, the psychologist Daniel Oppenheimer, a few years ago, teamed up with high school teachers. And he asked them to reformat the handouts that they were giving to some of their classes. So the regular handout would be formatted in something straightforward, such as Helvetica or Times New Roman. But half these classes were getting handouts that were formatted in something sort of intense, like Haettenschweiler, or something with a zesty bounce, like Comic Sans italicized. Now, these are really ugly fonts, and they're difficult fonts to read. But at the end of the semester, students were given exams, and the students who'd been asked to read the more difficult fonts, had actually done better on their exams, in a variety of subjects. And the reason is, the difficult font had slowed them down, forced them to work a bit harder, to think a bit more about what they were reading, to interpret it ... and so they learned more.
Vậy trước hết là tâm lý học nhận thức. Chúng ta biết rằng một vài khó khăn, một vài cản trở, có thể cải thiện thành tích của ta. Ví dụ, nhà tâm lý Daniel Openheimer, cách đây vài năm, cùng một số giáo viên cấp 3 lập nhóm. Và ông ta đã đề nghị họ định dạng lại các tài liệu dùng trong lớp họ. Các tài liệu thông thường dùng định dạng đơn giản, với font chữ Helvetica hay Times New Roman. Cứ mỗi lớp một nửa nhận tài liệu được định dạng dồn nén như font chữ Haettenschweiler, hay là một cách bông đùa như Comic Sans in nghiên. Đó là những font chữ rất xấu, và là kiểu chữ khó đọc. Nhưng cuối học kỳ, các sinh viên trải qua kỳ thi, và những sinh viên phải học với font chữ khó đọc nhất, đã làm bài thi tốt hơn, trong nhiều loại đề khác nhau. Và lý do là, những kiểu chữ khó làm sinh viên đọc chậm hơn, bắt buộc chúng phải làm việc căng thẳng hơn, phải suy nghĩ nhiều hơn về cái họ đang đọc, để diễn đạt lại... như thế họ học tốt hơn.
Another example. The psychologist Shelley Carson has been testing Harvard undergraduates for the quality of their attentional filters. What do I mean by that? What I mean is, imagine you're in a restaurant, you're having a conversation, there are all kinds of other conversations going on in the restaurant, you want to filter them out, you want to focus on what's important to you. Can you do that? If you can, you have good, strong attentional filters. But some people really struggle with that. Some of Carson's undergraduate subjects struggled with that. They had weak filters, they had porous filters -- let a lot of external information in. And so what that meant is they were constantly being interrupted by the sights and the sounds of the world around them. If there was a television on while they were doing their essays, they couldn't screen it out.
Một ví dụ khác. Nhà tâm lý học Shelley Carson đã thử sinh viên đại học Harvard về khả năng chú ý. Tôi muốn nói tới điều gì? Hãy tưởng tượng bạn ở trong một nhà hàng, bạn có một cuộc đối thoại, có tất cả các kiểu đối thoại tuôn chảy trong nhà hàng, bạn muốn chọn lọc chúng ra, bạn muốn nhắm đến cái quan trọng đối với bạn. Bạn làm được không? Nếu làm được, thì bạn có khả năng tập trung cao độ. Nhưng với vài người, điều đó thật khó khăn. Sinh viên của Carson gặp vấn đề đó. Họ có bộ lọc yếu, bộ lọc của họ bị thủng-- để cho nhiều thông tin tạp lọt vào. Như thế, có nghĩa là họ luôn bị chi phối bởi những cái nhìn và âm thanh từ môi trường quanh họ. Nếu bật tivi trong khi họ viết tiểu luận, thì họ luôn bị ảnh hưởng.
Now, you would think that that was a disadvantage ... but no. When Carson looked at what these students had achieved, the ones with the weak filters were vastly more likely to have some real creative milestone in their lives, to have published their first novel, to have released their first album. These distractions were actually grists to their creative mill. They were able to think outside the box because their box was full of holes.
Bây giờ, bạn nghĩ đó là một bất lợi ... Nhưng không. Khi Carson nhìn những kết quả của các sinh viên này, những sinh viên với bộ lọc kém thì thường thuận lợi trong việc tạo được những dấu mốc sáng tạo trong cuộc đời, như phát hành tiểu thuyết đầu tiên, ra album đầu tiên. Những rối loạn này thật sự là nguồn mạch cho sáng tạo. Họ có thể suy nghĩ thoát là nhờ đầu óc họ còn nhiều lỗ trống.
Let's talk about complexity science. So how do you solve a really complex -- the world's full of complicated problems -- how do you solve a really complicated problem?
Tiếp đến là ngành khoa học phức hợp. Làm sao giải quyết 1 vấn đề phức tạp-- ngày nay, thế giới đầy vấn đề phức tạp-- làm sao để giải quyết một vấn đề rất phức tạp?
For example, you try to make a jet engine. There are lots and lots of different variables, the operating temperature, the materials, all the different dimensions, the shape. You can't solve that kind of problem all in one go, it's too hard. So what do you do? Well, one thing you can do is try to solve it step-by-step. So you have some kind of prototype and you tweak it, you test it, you improve it. You tweak it, you test it, you improve it. Now, this idea of marginal gains will eventually get you a good jet engine. And it's been quite widely implemented in the world. So you'll hear about it, for example, in high performance cycling, web designers will talk about trying to optimize their web pages, they're looking for these step-by-step gains.
Ví dụ, bạn cố gắng làm một động cơ phản lực. Có quá nhiều biến số khác nhau, nhiệt động, vật liệu, tất cả các kích thước, hình dáng. Bạn không thể xử lý vấn đề này với thao tác đơn giản, nó thật sự quá phức tạp. Vậy bạn làm gì? Điều bạn có thể làm là giải quyết vấn đề từng bước. Dường như đó là cách thức điển hình bạn xoay xở, kiểm tra, và hoàn thiện. Bạn chỉnh lại, kiểm tra và làm tốt hơn. Thật vậy, việc tích góp thành công nhỏ có thể giúp bạn làm một động cơ phản lực. Điều đó xảy ra nhiều trong thực tế. Ví dụ, bạn nghe nói tới hiệu suất hoạt động cao, những nhà thiết kế web sẽ nói về việc tối ưu hóa các trang web của họ, họ tìm cách cải thiện từng bước một.
That's a good way to solve a complicated problem. But you know what would make it a better way? A dash of mess. You add randomness, early on in the process, you make crazy moves, you try stupid things that shouldn't work, and that will tend to make the problem-solving work better. And the reason for that is the trouble with the step-by-step process, the marginal gains, is they can walk you gradually down a dead end. And if you start with the randomness, that becomes less likely, and your problem-solving becomes more robust.
Đó là một phương pháp hiệu quả để giải quyết một vấn đề khó. Nhưng cái gì sẽ làm cho cách đó hiệu quả hơn không? Một ít lộn xộn. Và bạn thêm vào sự ngẫu nhiên, vào lúc khởi đầu, bạn làm những thao tác kỳ cục, bạn cố làm những điều ngớ ngẩn vô ích, nó có thể làm cho khả năng giải quyết vấn đề được cải thiện. Và lý do là khó khăn khi dùng cách thức từng bước, tích góp thành công nhỏ, là khi chúng có thể dẫn bạn từ từ đến ngõ cụt. Và nếu bạn bắt đầu với ngẫu nhiên, thì nó càng khó hơn nữa, và khả năng xoay xở của bạn càng phát triển.
Let's talk about social psychology. So the psychologist Katherine Phillips, with some colleagues, recently gave murder mystery problems to some students, and these students were collected in groups of four and they were given dossiers with information about a crime -- alibis and evidence, witness statements and three suspects. And the groups of four students were asked to figure out who did it, who committed the crime. And there were two treatments in this experiment. In some cases these were four friends, they all knew each other well. In other cases, three friends and a stranger. And you can see where I'm going with this.
Còn về ngành tâm lý học xã hội. Nhà tâm lý học Katherine Phillips, cùng một số đồng nghiệp, đưa ra cho sinh viên những đề bài về vấn đề ám sát bí ẩn, và những sinh viên này chia thành các nhóm 4 người và họ được nhận những hồ sơ với thông tin về một tội ác -- chứng cứ ngoại phạm, lời khai làm chứng và 3 nghi phạm. Và các nhóm này được đề nghị tìm ra kẻ đã phạm tội, kẻ đã gây tội ác. Có hai cách hình thành nhóm trong thí nghiệm này. Trong một số trường hợp, 4 người trong nhóm là bạn bè, họ biết nhau rất rõ. Trong trường hợp khác, 3 người bạn bè và một người xa lạ. Và bạn xem tôi sẽ nói điều gì ở đây.
Obviously I'm going to say that the groups with the stranger solved the problem more effectively, which is true, they did. Actually, they solved the problem quite a lot more effectively. So the groups of four friends, they only had a 50-50 chance of getting the answer right. Which is actually not that great -- in multiple choice, for three answers? 50-50's not good.
Rõ ràng tôi sẽ nói nhóm có người lạ đã giải quyết vấn đề hiệu quả hơn, Đúng vậy, họ làm tốt hơn. Thật vậy, họ đã giải quyết vấn đề dường như là hiệu quả hơn rất nhiều. Vậy những nhóm 4 người bạn, họ chỉ có 50% cơ hội chọn được câu trả lời đúng. Như thế là không hiệu quả -- với trắc nghiệm chỉ có 3 lựa chọn thì không dùng 50-50 được.
(Laughter)
(Cười)
The three friends and the stranger, even though the stranger didn't have any extra information, even though it was just a case of how that changed the conversation to accommodate that awkwardness, the three friends and the stranger, they had a 75 percent chance of finding the right answer. That's quite a big leap in performance.
3 người quen và 1 người lạ, thậm chí người lạ không đóng góp thêm bất kỳ thông tin gì, thậm chí có trường hợp cách thức hội thoại bị thay đổi nên càng gây thêm khó khăn, thế mà 3 người bạn và 1 người lạ, họ lại có 75% cơ hội tìm ra câu trả lời đúng. Đó là biến đổi lớn về thành tích.
But I think what's really interesting is not just that the three friends and the stranger did a better job, but how they felt about it. So when Katherine Phillips interviewed the groups of four friends, they had a nice time, they also thought they'd done a good job. They were complacent. When she spoke to the three friends and the stranger, they had not had a nice time -- it's actually rather difficult, it's rather awkward ... and they were full of doubt. They didn't think they'd done a good job even though they had. And I think that really exemplifies the challenge that we're dealing with here.
Nhưng tôi nghĩ điều thật sự thú vị không chỉ 3 người bạn và 1 người lạ làm việc tốt hơn, mà là cách họ cảm nhận về nó. Vậy khi Katherine Phillips hỏi các nhóm 4 người quen nhau, thì họ rất thoải mái, họ cũng nghĩ họ đã làm tốt việc đó. Họ rất hài lòng. Khi cô ta nói với 3 người bạn và 1 người lạ, thì họ nói họ không thoải mái-- rất khó khăn, rất lúng túng ... và họ cảm thấy rất nghi ngờ. Họ không nghĩ học đã làm tốt dù họ đã làm được. Tôi nghĩ điều đó làm cho họ thấy rõ thách thức mà họ phải đối đầu.
Because, yeah -- the ugly font, the awkward stranger, the random move ... these disruptions help us solve problems, they help us become more creative. But we don't feel that they're helping us. We feel that they're getting in the way ... and so we resist. And that's why the last example is really important.
Bởi vì, phong chữ xấu, người xa lạ vụng về, thay đổi tình cờ ... những rối loạn này giúp chúng ta giải quyết được vấn đề, chúng giúp chúng ta trở nên sáng tạo hơn. Nhưng ta không cảm thấy chúng đang giúp ta. Chúng ta cảm thấy chúng đang cản đường ... thế là ta cố chống lại. Đó là vì sao ví dụ sau đây rất quan trọng.
So I want to talk about somebody from the background of the world of rock 'n' roll. And you may know him, he's actually a TED-ster. His name is Brian Eno. He is an ambient composer -- rather brilliant.
Vậy tôi muốn nói về một người trong thế giới của nhạc rock 'n' roll. Bạn có thể biết ông ta, ông ta là người của TED. Tên là Brian Eno. Ông là nhà sáng tác nhạc nền-- thật sự tài năng.
He's also a kind of catalyst behind some of the great rock 'n' roll albums of the last 40 years. He's worked with David Bowie on "Heroes," he worked with U2 on "Achtung Baby" and "The Joshua Tree," he's worked with DEVO, he's worked with Coldplay, he's worked with everybody.
Ông cũng là người tham gia vào một số album rock 'n' roll hay nhất trong 40 năm qua. Ông làm việc với David Bowie trong album "Heroes," cộng tác với U2 trong album "Achtung Baby" và "The Joshua Tree," tham gia với nhóm rock DEVO, làm việc với Coldplay, ông làm việc với mọi người.
And what does he do to make these great rock bands better? Well, he makes a mess. He disrupts their creative processes. It's his role to be the awkward stranger. It's his role to tell them that they have to play the unplayable piano.
Ông làm gì khiến cho các ban nhạc này hay hơn? Vâng, ông gây rối. Ông phá quy trình sáng tác của họ. ông đóng vai kẻ xa lạ rắc rối. ông có nhiệm vụ nói cho họ rằng họ phải chơi cây đàn piano không dùng được.
And one of the ways in which he creates this disruption is through this remarkable deck of cards -- I have my signed copy here -- thank you, Brian. They're called The Oblique Strategies, he developed them with a friend of his. And when they're stuck in the studio, Brian Eno will reach for one of the cards. He'll draw one at random, and he'll make the band follow the instructions on the card.
Và một trong những cách ông tạo ra sự phá rối là thông qua bộ phiếu đặc biệt này -- tôi có 1 bộ với chữ ký tặng đây -- cảm ơn, Brian. Chúng được gọi là bộ Thẻ Chiến Lược, ông đã làm chúng với một người bạn. Và khi treo chúng ở phòng tập, thì Brian Eno chọn 1 trong số các phiếu đó. Ông rút một phiếu ngẫu nhiên, và ông làm đoạn nhạc theo gợi hứng của phiếu đó.
So this one ... "Change instrument roles." Yeah, everyone swap instruments -- Drummer on the piano -- Brilliant, brilliant idea.
Ví dụ phiếu này ... "Đổi người chơi nhạc cụ." Mọi người đổi nhạc cụ cho nhau-- Tay trống chơi piano-- Thật tuyệt vời, ý tưởng thật tuyệt.
"Look closely at the most embarrassing details. Amplify them."
"Hãy nhìn kỹ những chi tiết rắc rối nhất. Phóng đại chúng lên."
"Make a sudden, destructive, unpredictable action. Incorporate."
"Hãy làm một động tác bất ngờ, phá phách, không lường trước. Hãy lồng ghép."
These cards are disruptive.
Những phiếu này gây phá vỡ.
Now, they've proved their worth in album after album. The musicians hate them.
Chúng cho thấy giá trị của chúng từ album này đến album khác. Các nhạc công ghét chúng lắm.
(Laughter)
(Cười)
So Phil Collins was playing drums on an early Brian Eno album. He got so frustrated he started throwing beer cans across the studio.
Vì thế Phil Collins chơi trống trong một album mới của Brian Eno. Phil rất thất vọng, anh ta bắt đầu vứt lon bia khắp phòng tập.
Carlos Alomar, great rock guitarist, working with Eno on David Bowie's "Lodger" album, and at one point he turns to Brian and says, "Brian, this experiment is stupid." But the thing is it was a pretty good album, but also, Carlos Alomar, 35 years later, now uses The Oblique Strategies. And he tells his students to use The Oblique Strategies because he's realized something. Just because you don't like it doesn't mean it isn't helping you.
Carlos Alomar, tay ghita rock tài tình, khi làm việc với Eno trong album "Lodger của David Bowie, và có lúc, Carlos quay lại phía Brian và nói, "Brian, cái trò này thật ngớ ngẩn." Nhưng chính cái trò này làm ra một album rất hay, nhưng cũng chính Carlos Alomar, 35 năm sau, lúc này đây, đang dùng Phiếu Chiến Lược. Và ông cũng bảo với học trò dùng Phiếu Chiến Lược vì ông đã làm được điều gì đó. Không phải vì bạn không thích nó thì nó có nghĩa là nó không giúp bạn.
The strategies actually weren't a deck of cards originally, they were just a list -- list on the recording studio wall. A checklist of things you might try if you got stuck.
Phiếu Chiến Lược thật sự là một bộ phiếu đặc biệt, chỉ là một danh sách-- đính trên tường phòng thu âm. Một danh sách nhắc nhở các thứ bạn phải thực hiện nếu dán nó lên.
The list didn't work. Know why? Not messy enough. Your eye would go down the list and it would settle on whatever was the least disruptive, the least troublesome, which of course misses the point entirely.
Danh sách không tác dụng. Biết tại sao không? Vì nó chưa đủ rắc rối. Mắt bạn nhìn vào danh sách và mắt bạn thường chọn cái ít gây rối loạn nhất, ít gây khó chịu nhất, thường là cái chẳng gai góc gì cả.
And what Brian Eno came to realize was, yes, we need to run the stupid experiments, we need to deal with the awkward strangers, we need to try to read the ugly fonts. These things help us. They help us solve problems, they help us be more creative.
Điều Brian Eno thực hiện được mà ta cần làm là các trải nghiệm ngu ngốc, đối diện với kẻ lạ mặt gây khó chịu, cố đọc văn bản với font chữ xấu xí. Những thứ này giúp ta, giúp giải quyết các vấn đề, chúng làm ta sáng tạo hơn.
But also ... we really need some persuasion if we're going to accept this. So however we do it ... whether it's sheer willpower, whether it's the flip of a card or whether it's a guilt trip from a German teenager, all of us, from time to time, need to sit down and try and play the unplayable piano.
Nhưng ... ta cũng cần sự quấy rối nếu chúng ta chấp nhận ý niệm này. Vậy ta cần sự bất thường, dù đó là có chủ ý, dù là rút một lá phiếu ngẫu nhiên hay là sơ suất tai hại như cô thiếu niên người Đức, tất cả chúng ta, thỉnh thoảng, cần ngồi xuống và cố chơi một cây đàn piano không dùng được.
Thank you.
Cám ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)