I'd like to start tonight by something completely different, asking you to join me by stepping off the land and jumping into the open ocean for a moment. 90 percent of the living space on the planet is in the open ocean, and it's where life -- the title of our seminar tonight -- it's where life began. And it's a lively and a lovely place, but we're rapidly changing the oceans with our -- not only with our overfishing, our irresponsible fishing, our adding of pollutants like fertilizer from our cropland, but also, most recently, with climate change, and Steve Schneider, I'm sure, will be going into greater detail on this. Now, as we continue to tinker with the oceans, more and more reports are predicting that the kinds of seas that we're creating will be conducive to low-energy type of animals, like jellyfish and bacteria. And this might be the kind of seas we're headed for.
Tôi xin được bắt đầu buổi tối nay bằng một điều gì đó hoàn toàn khác biệt đề nghị các bạn cùng với tôi cất bước khỏi mặt đất và hòa vào biển khơi trong giây lát. 90% không gian sống trên hành tinh này là biển khơi và đó là nơi mà cuộc sống - chủ đề của hội thảo hôm nay - nơi cuộc sống bắt đầu. Đó là một nơi đáng sống và đáng yêu, nhưng chúng ta đang thay đổi đại dương một cách nhanh chóng-- không chỉ với việc đánh cá quá mức, đánh cá vô trách nhiệm của chúng ta việc sử dụng các chất gây ô nhiễm như phân bón trồng trọt mà gần đây, với biến đổi khí hậu và Steve Schneider, tôi chắc anh ấy sẽ tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Bây giờ, chúng ta tiếp tục vá víu đại dương rất nhiều báo cáo dự đoán môi trường biển mà ta đang tạo ra sẽ là môi trường của sinh vật năng lượng thấp như sứa và vi sinh vật. Và đây có thể là môi trường biển mà ta hướng đến.
Now jellyfish are strangely hypnotic and beautiful, and you'll see lots of gorgeous ones at the aquarium on Friday, but they sting like hell, and jellyfish sushi and sashimi is just not going to fill you up. About 100 grams of jellyfish equals four calories. So it may be good for the waistline, but it probably won't keep you satiated for very long. And a sea that's just filled and teeming with jellyfish isn't very good for all the other creatures that live in the oceans, that is, unless you eat jellyfish. And this is this voracious predator launching a sneak attack on this poor little unsuspecting jellyfish there, a by-the-wind sailor. And that predator is the giant ocean sunfish, the Mola mola, whose primary prey are jellyfish.
Loài sứa có sức thôi miên kì lạ và đẹp, bạn sẽ thấy nhiều loài rực rỡ ở thủy cung vào thứ sáu, nhưng chúng chích rất đau, sushi sứa và sashimi không thể làm bạn no đâu. Khoảng 100 gam sứa tương đương 4 ca-lo. Nó có thể tốt cho vùng thắt lưng nhưng nó sẽ không làm bạn no quá lâu. Và vùng biển chứa đầy những con sứa không tốt cho các sinh vật khác sống dưới biển, trừ phi bạn ăn sứa. Và một loài ham ăn háo hức khởi đầu cuộc tấn công lén lút vào con sứa nhỏ bé tội nghiệp này, loài sứa buồm. Và kẻ săn mồi đó là cá thái dương biển khổng lồ, Mola mola và sứa chính là những con mồi chủ yếu của chúng.
This animal is in "The Guinness World Book of Records" for being the world's heaviest bony fish. It reaches up to almost 5,000 pounds -- on a diet of jellyfish, primarily. And I think it's kind of a nice little cosmological convergence here that the Mola mola -- its common name is sunfish -- that its favorite food is the moon jelly. So it's kind of nice, the sun and the moon getting together this way, even if one is eating the other. Now this is typically how you see sunfish, this is where they get their common name. They like to sunbathe, can't blame them. They just lay out on the surface of the sea and most people think they're sick or lazy, but that's a typical behavior, they lie out and bask on the surface.
Loài vật này nằm trong "Sách kỉ lục Guinness" là loài cá có xương nặng nhất thế giới. Nó cần tới khoảng 5000 pao, chủ yếu là sứa trong mỗi bữa ăn. Và tôi nghĩ là có một sự hội tụ vũ trụ học ở đây bởi Mola mola, tên thường gọi là cá mặt trời món ăn ưa thích của nó là sứa mặt trăng. Vậy thật tuyệt khi mặt trời và mặt trăng gặp nhau theo cách này, ngay cả khi cái này ăn cái kia. Đó là những gì đặc trưng nhất về cá thái dương nguồn gốc tên thường gọi của chúng. Chúng thích phơi nắng. Chúng nằm trên bề mặt biển ta sẽ nghĩ chúng bị bệnh hoặc lười nhác nhưng đó là thói quen điển hình chúng nằm và phơi mình trên mặt nước.
Their other name, Mola mola, is -- it sounds Hawaiian, but it's actually Latin for millstone, and that's attributable to their roundish, very bizarre, cut-off shape. It's as if, as they were growing, they just forgot the tail part. And that's actually what drew me to the Mola in the first place, was this terribly bizarre shape. You know, you look at sharks, and they're streamlined, and they're sleek, and you look at tuna, and they're like torpedoes -- they just give away their agenda. They're about migration and strength, and then you look at the sunfish.
Tên khác của chúng, Mola mola giống tiếng Hawaii nhưng thật ra đó là chữ Latin, nghĩa là đá cối xay, cái tên giải thích cho hình dạng hơi tròn, kỳ lạ, bị hõm của cá. Như thể khi lớn lên, chúng không còn phần đuôi. Và cái lôi cuốn tôi đến với Mola trước nhất đó là hình dạng kỳ lạ của chúng. Khi bạn quan sát cá mập, chúng có dáng thuôn và bóng và khi nhìn cá ngừ, chúng như cá đuối điện Chúng chú ý tới việc di trú và sức bền, rồi bạn lại nhìn cá thái dương.
(Laughter)
(Cười)
And this is just so elegantly mysterious, it's just -- it really kind of holds its cards a lot tighter than say, a tuna. So I was just intrigued with what -- you know, what is this animal's story? Well, as with anything in biology, nothing really makes sense except in the light of evolution. The Mola's no exception. They appeared shortly after the dinosaurs disappeared, 65 million years ago, at a time when whales still had legs, and they come from a rebellious little puffer fish faction -- oblige me a little Kipling-esque storytelling here. Of course evolution is somewhat random, and you know, about 55 million years ago there was this rebellious little puffer fish faction that said, oh, the heck with the coral reefs -- we're going to head to the high seas. And lots of generations, lots of tweaking and torquing, and we turn our puffer into the Mola. You know, if you give Mother Nature enough time, that is what she will produce.
Và đây là bí ẩn nhẹ nhàng, nó thật sự có sức mạnh hơn cả một con cá ngừ đấy. Tôi ngạc nhiên muốn biết câu chuyện về loài động vật này là gì? Trong sinh học, không gì có lý ngoại trừ ánh sáng của sự tiến hóa. Mola cũng không ngoại lệ. Chúng xuất hiện ngay sau khi khủng long biến mất 65 triệu năm trước, ở thời điểm khi cá voi vẫn còn có chân và chúng có nguồn gốc từ một nhóm cá nóc nhỏ nổi loạn -- tôi sẽ kể chuyện theo phong cách của Kipling. Dĩ nhiên tiến hóa là ngẫu nhiên, khoảng 55 triệu năm trước có một nhóm cá nóc nhỏ nổi loạn như đã nói, trên cái đăng với những rạn san hô ta đang hướng đến những biển mực nước cao. Và qua rất nhiều thế hệ, nhiều sự tiến hóa cá nóc đã biến thành Mola. Nếu bạn cho mẹ thiên nhiên đủ thời gian thì đó là thứ mà mẹ sẽ tạo ra.
They look -- maybe they look kind of prehistoric and unfinished, abridged perhaps, but in fact, in fact they are the -- they vie for the top position of the most evolutionarily-derived fish in the sea, right up there with flat fish. They're -- every single thing about that fish has been changed. And in terms of fishes -- fishes appeared 500 million years ago, and they're pretty modern, just 50 million years ago, so -- so interestingly, they give away their ancestry as they develop. They start as little eggs, and they're in "The Guinness World Book of Records" again for having the most number of eggs of any vertebrate on the planet. A single four-foot female had 300 million eggs, can carry 300 million eggs in her ovaries -- imagine -- and they get to be over 10 feet long. Imagine what a 10 foot one has. And from that little egg, they pass through this spiky little porcupine fish stage, reminiscent of their ancestry, and develop -- this is their little adolescent stage. They school as adolescents, and become behemoth loners as adults. That's a little diver up there in the corner.
Có lẽ chúng giống loài tiền sử và chưa hoàn thiện, còn hạn chế nhưng trên thực tế, chúng cạnh tranh cho vị trí của loài cá tiến hóa nhất ở biển bên cạnh là cá bẹt. Mọi thứ về loài cá đó đều đã bị thay đổi. Xét về loài cá -- Cá xuất hiện cách đây 500 triệu năm, và chúng khá hiện đại chỉ 50 triệu năm, thật thú vị, chúng tiến hóa không còn giống tổ tiên nữa. Chúng được sinh ra như những quả trứng nhỏ, và chúng có tên trong "Sách kỉ lục Guinness" lần nữa do với số lượng trứng nhiều nhất trong số các loài có xương sống trên hành tinh. Một con cái 4 feet sinh khoảng 300 triệu trứng, có thể mang 300 triệu trứng trong buồng trứng - hãy tưởng tượng và chúng sẽ dài hơn 10 feet. Nó mang rất nhiều trứng. Và từ cái trứng nhỏ đó, chúng trải qua hình dạng nhím lông nhọn ở giai đoạn thành cá, giống tổ tiên chúng và phát triển, đây là giai đoạn thời niên thiếu. Chúng hợp thành đàn thời niên thiếu, và trở thành loài lớn đơn độc khi trưởng thành. Ở trong góc đó chính là người thợ lặn.
They're in "The Guinness World Book of Records" again for being the vertebrate growth champion of the world. From their little hatching size of their egg, into their little larval stage till they reach adulthood, they put on 600 million times an increase in weight. 600 million. Now imagine if you gave birth to a little baby, and you had to feed this thing. That would mean that your child, you would expect it to gain the weight of six Titanics. Now I don't know how you'd feed a child like that but -- we don't know how fast the Molas grow in the wild, but captive growth studies at the Monterey Bay Aquarium -- one of the first places to have them in captivity -- they had one that gained 800 lbs in 14 months. I said, now, that's a true American.
Chúng lại có tên trong "Sách kỉ lục Guiness" lần nữa vì là loài có xương sống phát triển to lớn nhất trên thế giới. Và vì kích thước bé nhỏ của trứng, ở giai đoạn ấu trùng đến khi trưởng thành, chúng mất khoảng 600 triệu lần để tăng trọng lượng. 600 triệu. Hãy tưởng tượng nếu bạn sinh một đứa bé, và bạn cho nó ăn. Có nghĩa là bạn mong trọng lượng của con bạn nặng bằng 6 con tàu Titanic. Tôi không biết làm thế nào bạn cho một đứa trẻ ăn như vậy nhưng ta không biết Mola lớn nhanh đến mức nào trong tự nhiên, nhưng nghiên cứu sinh trưởng trong môi trường nuôi ở Monterey Aquarium một trong những nơi đầu tiên nuôi chúng -- Có một con đạt 800 pao trong 14 tháng. Tôi đã nói, đó đúng là một người Mỹ thật sự.
(Laughter)
(Cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
So being a loner is a great thing, especially in today's seas, because schooling used to be salvation for fishes, but it's suicide for fishes now. But unfortunately Molas, even though they don't school, they still get caught in nets as by-catch. If we're going to save the world from total jellyfish domination, then we've got to figure out what the jellyfish predators -- how they live their lives, like the Mola. And unfortunately, they make up a large portion of the California by-catch -- up to 26 percent of the drift net. And in the Mediterranean, in the swordfish net fisheries, they make up up to 90 percent. So we've got to figure out how they're living their lives. And how do you do that? How do you do that with an animal -- very few places in the world. This is an open ocean creature. It knows no boundaries -- it doesn't go to land.
Là một kẻ đơn độc là điều tuyệt vời, đặc biệt là trong đại dương ngày nay vì hợp thành đàn từng giúp bảo vệ loài cá, nhưng giờ làm thế chính là tự sát. Nhưng không may cho loài Mola, cả khi không hợp thành đàn, chúng vẫn bị bắt vì bị giăng lưới. Nếu ta có ý định cứu thế giới khỏi sự thống trị của loài sứa, thì ta sẽ phải tìm hiểu loài sứa săn gì -- chúng sống như thế nào, cũng như loài Mola. Nhưng không may, phần lớn chúng không thoát khỏi sự đánh bắt ở California -- chiếm tới 26% mẻ lưới. Và ở Địa Trung Hải, trong đánh bắt cá kiếm chúng chiếm tới 90%. Ta phải hiểu được chúng sống thế nào. Bằng cách nào? Bạn thực hiện việc đó với một loài vật -- có ở rất ít nơi trên thế giới. Đây là một sinh vật biển khơi. Nó không biết đến ranh giới, nó không lên bờ.
How do you get insight? How do you seduce an open ocean creature like that to spill its secrets? Well, there's some great new technology that has just recently become available, and it's just a boon for getting insight into open ocean animals. And it's pictured right here, that little tag up there. That little tag can record temperature, depth and light intensity, which is correlated with time, and from that we can get locations. And it can record this data for up to two years, and keep it in that tag, release at a pre-programmed time, float to the surface, upload all that data, that whole travelogue, to satellite, which relays it directly to our computers, and we've got that whole dataset. And we didn't even have -- we just had to tag the animal and then we went home and you know, sat at our desks. So the great thing about the Mola is that when we put the tag on them -- if you look up here -- that's streaming off, that's right where we put the tag. And it just so happens that's a parasite hanging off the Mola.
Làm thế nào bạn thấy được nó? Làm thế nào bạn dụ dỗ một sinh vật như nó tiết lộ bí mật? Có vài công nghệ mới tuyệt vời gần đây được sử dụng và nó là công cụ để thấy được các sinh vật biển khơi. Mọi thứ được ghi hình ở ngay đây, một thẻ đeo nhỏ ở đó. Cái thẻ đeo nhỏ này có thể ghi lại nhiệt độ, độ sâu, cường độ ánh sáng, theo thời gian, từ đó ta có thể truy ra vị trí. Và nó có thể lưu dữ liệu đến 2 năm và giữ trong thẻ, truy xuất vào thời gian được lập trình từ trước, trôi trên mặt biển, tải mọi dữ liệu, toàn bộ hành trình, đến vệ tinh, gửi trực tiếp đến máy tính và ta thu được toàn bộ dữ liệu. ta chỉ phải đánh dấu con vật và sau đó ta về nhà và ngồi xuống. Vậy điều tuyệt vời về Mola là khi ta đánh dấu chúng -- nếu bạn nhìn ở đây đó là hình động, là chỗ ta đánh dấu. Và điều này chỉ xảy ra khi có vật kí sinh trên Mola.
Molas are infamous for carrying tons of parasites. They're just parasite hotels; even their parasites have parasites. I think Donne wrote a poem about that. But they have 40 genera of parasites, and so we figured just one more parasite won't be too much of a problem. And they happen to be a very good vehicle for carrying oceanographic equipment. They don't seem to mind, so far. So what are we trying to find out? We're focusing on the Pacific. We're tagging on the California coast, and we're tagging over in Taiwan and Japan. And we're interested in how these animals are using the currents, using temperature, using the open ocean, to live their lives. We'd love to tag in Monterey. Monterey is one of the few places in the world where Molas come in large numbers. Not this time of year -- it's more around October.
Mola nổi tiếng vì mang rất nhiều kí sinh. Có hàng vạn kí sinh, ngay cả kí sinh của chúng cũng có kí sinh. Tôi nghĩ Donne đã viết một bài thơ về điều này. Nhưng chúng có 40 loài kí sinh và ta chỉ biết một số ít kí sinh, thật sự không nhiều. Chúng trở thành phương tiện tốt để chuyên chở trong giới đại dương. Chúng chẳng lấy làm phiền gì việc đó. Vậy ta đang cố gắng tìm kiếm gì? Ta đang tập trung về Thái Bình Dương. Ta đang theo dấu trên bờ biển California, trên Đài Loan và Nhật Bản. Ta muốn tìm hiểu các loài vật này sử dụng dòng chảy ra sao, sử dụng nhiệt độ, đại dương mở để sống sót thế nào. Ta thích theo dấu ở Monterey. Monterey là một trong số ít nơi trên thế giới tập trung lượng lớn Mola. Không phải tại thời điểm này trong năm -- mà vào khoảng tháng mười.
And we'd love to tag here -- this is an aerial shot of Monterey -- but unfortunately, the Molas here end up looking like this because another one of our locals really likes Molas but in the wrong way. The California sea lion takes the Molas as soon as they come into the bay, rips off their fins, fashions them into the ultimate Frisbee, Mola style, and then tosses them back and forth. And I'm not exaggerating, it is just -- and sometimes they don't eat them, it's just spiteful. And you know, the locals think it's terrible behavior, it's just horrible watching this happen, day after day. The poor little Molas coming in, getting ripped to shreds, so we head down south, to San Diego. Not so many California sea lions down there. And the Molas there, you can find them with a spotter plane very easily, and they like to hang out under floating rafts of kelp. And under those kelps -- this is why the Molas come there because it's spa time for the Molas there. As soon as they get under those rafts of kelp, the exfoliating cleaner fish come. And they come and give the Molas -- you can see they strike this funny little position that says, "I'm not threatening, but I need a massage."
Và ta thích theo dấu nó ở đây -- đây là ảnh chụp Monterey từ trên không nhưng không may, Mola ở đây lại trông như thế này vì có một sinh vật địa phương rất thích Mola, nhưng là thích ăn. Sư tử biển California ăn Mola ngay khi chúng vào đến vịnh, xé toạc vây cá, theo phong cách Mola, Frisbee và sau đó lôi chúng ra qua lại. Tôi không hề phóng đại, thỉnh thoảng chúng không ăn Mola, chỉ tỏ ra thù hằn. Người địa phương nghĩ đó là hành vi kinh khủng, thật là khủng khiếp khi chứng kiến cảnh này ngày qua ngày. Con Mola tội nghiệp tiến đến, bị xé thành từng miếng nhỏ, ta sẽ đi về phía nam, đến San Diego. Không có nhiều sư tử biển ở đây. Và Mola ở đây, có thể dễ thấy chúng với máy bay chỉ điểm và chúng thích nổi dưới đám tảo bẹ. Ẩn dưới đám tảo -- đó là lý do chúng đến đây vì đây chính là thời gian đi spa cho Mola. Khi chúng ở dưới các đám tảo, cá lau chùi bơi đến. Và chúng đến bạn thấy chúng bơi vào các vị trí nhỏ, "Tôi không có ý đe dọa, nhưng tôi cần mát-xa."
(Laughter)
(Cười)
And they'll put their fins out and their eyes go in the back of their head, and the fish come up and they just clean, clean, clean -- because the Molas, you know, there's just a smorgasbord of parasites. And it's also a great place to go down south because the water's warmer, and the Molas are kind of friendly down there. I mean what other kind of fish, if you approach it right, will say, "Okay, scratch me right there." You truly can swim up to a Mola -- they're very gentle -- and if you approach them right, you can give them a scratch and they enjoy it. So we've also tagged one part of the Pacific; we've gone over to another part of the Pacific, and we've tagged in Taiwan, and we tagged in Japan. And over in these places, the Molas are caught in set nets that line these countries. And they're not thrown back as by-catch, they're eaten. We were served a nine-course meal of Mola after we tagged. Well, not the one we tagged! And everything from the kidney, to the testes, to the back bone, to the fin muscle to -- I think that ís pretty much the whole fish -- is eaten.
Chúng để vây ra ngoài và đưa mắt ra đằng sau đầu bầy cá đến lau chùi, lau chùi và lại lau chùi -- vì Mola chỉ như một món ăn gồm các kí sinh. Và đi xuống phía nam cũng rất tuyệt vời vì nước thì ấm và Mola ở đây thì thân thiện. Ý tôi là với các loại cá khác, nếu bạn tiến gần chúng, sẽ nói, "OK, làm xước da tôi bây giờ" Bạn thật sự có thể bơi cùng Mola -- chúng rất hiền lành và nếu bạn lại gần chúng, bạn có thể vuốt ve chúng và chúng thích vậy. Ta cũng theo dấu Mola ở một phần của Thái Bình Dương ta đã tới một phần khác của Thái Bình Dương và ta cũng theo dấu ở Đài Loan, Nhật Bản. Và những nơi đó, Mola bị bắt trong những lưới đặt sẵn ở các quốc gia này. Và chúng không được ném lại, chúng bị ăn thịt. Chúng tôi đã được phục vụ một bữa Mola 9 món sau khi theo dấu Mola. Dĩ nhiên không phải là con mà ta theo dấu! Và mọi thứ từ thận đến tinh hoàn, xương sống đến cơ vây cá -- Tôi nghĩ là cả con cá -- đều trở thành món ăn.
So the hardest part of tagging, now, is after you put that tag on, you have to wait, months. And you're just wondering, oh, I hope the fish is safe, I hope, I hope it's going to be able to actually live its life out during the course that the tag is recording. The tags cost 3500 dollars each, and then satellite time is another 500 dollars, so you're like, oh, I hope the tag is okay. And so the waiting is really the hardest part. I'm going to show you our latest dataset. And it hasn't been published, so it's totally privy information just for TED. And in showing you this, you know, when we're looking at this data, we're thinking, oh do these animals, do they cross the equator? Do they go from one side of the Pacific to the other? And we found that they kind of are homebodies. They're not big migrators. This is their track: we deployed the tag off of Tokyo, and the Mola in one month kind of got into the Kuroshio Current off of Japan and foraged there. And after four months, went up, you know, off of the north part of Japan. And that's kind of their home range. Now that's important, though, because if there's a lot of fishing pressure, that population doesn't get replenished. So that's a very important piece of data.
Vậy phần khó nhất của việc theo dấu, giờ là sau khi bạn đeo thẻ, phải đợi hàng tháng. Và bạn tự hỏi, hi vọng cá được an toàn hi vọng nó có thể sống tự nhiên trong suốt quá trình theo dấu. Các thẻ đánh dấu là 3500 đô cho mỗi con, truyền vệ tinh thì tốn thêm 500 đô nên hi vọng là thẻ đánh dấu sẽ ổn. Và sự chờ đợi chờ là phần khó nhất. Tôi sẽ cho bạn xem dữ liệu mới nhất. Và nó chưa được công bố, nó là thông tin mật dành riêng cho TED. Khi ta nhìn vào dữ liệu này, ta sẽ nghĩ, các con vật này có vượt qua xích đạo không? Chúng có vượt Thái Bình Dương không? Và chúng tôi phát hiện ra là chúng thuộc loại chỉ ru rú xó nhà. Chúng không phải là loài ưa di trú. Đây là dấu vết của chúng: chúng tôi đã triển khai theo dấu ở Tokyo và ở Mola trong một tháng tìm hiểu ở dòng nước Kuroshio. Và sau 4 tháng, ra khỏi phần phía bắc của Nhật Bản. Và đó như là lãnh thổ của chúng. Nó rất quan trọng, vì nếu ở đó có nhiều áp lực đánh cá, thì số lượng cá không thể phục hồi. Đó là một phần rất quan trọng của dữ liệu.
But also what's important is that they're not slacker, lazy fish. They're super industrious. And this is a day in the life of a Mola, and if we -- they're up and down, and up and down, and up and down, and up and up and down, up to 40 times a day. As the sun comes up, you see in the blue, they start their dive. Down -- and as the sun gets brighter they go a little deeper, little deeper. They plumb the depths down to 600 meters, in temperatures to one degree centigrade, and this is why you see them on the surface -- it's so cold down there. They've got to come up, warm, get that solar power, and then plunge back into the depths, and go up and down and up and down. And they're hitting a layer down there; it's called the deep scattering layer -- which a whole variety of food's in that layer. So rather than just being some sunbathing slacker, they're really very industrious fish that dance this wild dance between the surface and the bottom and through temperature.
Nhưng cái cũng quan trọng là chúng không lười biếng. Chúng cực kì siêng năng. Và đây là một ngày của Mola -- Chúng lên và xuống, lên và xuống lên và xuống, khoảng 40 lần một ngày. Khi mặt trời lên, bạn thấy đường màu xanh là chúng bắt đầu lặn. Xuống -- và khi mặt trời lên cao hơn, chúng xuống sâu hơn một chút. Chúng xuống độ sâu 600 mét, nhiệt độ là 1độ C. và đây là lí do bạn thấy chúng trên mặt nước -- ở dưới rất lạnh. Chúng phải trồi lên, lấy năng lượng mặt trời, và lặn sâu xuống, rồi lại bơi lên xuống. Chúng tới tầng nước ở dưới, gọi là tầng sâu phân tán-- nơi đây chứa một lượng đa dạng thức ăn. Vậy không phải là kẻ lười biếng thích phơi nắng, chúng rất chăm chỉ nhảy điệu nhảy hoang dã giữa mặt nước và đáy bất chấp cả nhiệt độ.
We see the same pattern -- now with these tags we're seeing a similar pattern for swordfishes, manta rays, tunas, a real three-dimensional play. This is part of a much larger program called the Census of Marine Life, where they're going to be tagging all over the world and the Mola's going to enter into that. And what's exciting -- you all travel, and you know the best thing about traveling is to be able to find the locals, and to find the great places by getting the local knowledge. Well now with the Census of Marine Life, we'll be able to sidle up to all the locals and explore 90 percent of our living space, with local knowledge. It's never -- it's really never been a more exciting, or a vital time, to be a biologist.
Ta thấy mẫu hình giống nhau -- bây giờ với những thẻ này ta thấy một mẫu hình giống nhau của cá kiếm, cá đuối, cá ngừ, một trò chơi ba chiều thực thụ. Đây là một phần của chương trình lớn hơn gọi là Kiểm tra sự sống biển, nơi mà chúng được theo dấu trên khắp thế giới và Mola cũng như thế. Và cái thú vị -- bạn đều du lịch và biết điều tuyệt vời nhất trong du lịch là có thể tìm được người địa phương, và tìm đến những nơi tuyệt vời bằng kiến thức địa phương. Với Điều tra sự sống biển, ta có thể chậm rãi đi tới những người địa phương và khám phá 90% không gian sống, với kiến thức địa phương. Chưa bao giờ thú vị hơn trở thành nhà sinh học như thế.
Which brings me to my last point, and what I think is kind of the most fun. I set up a website because I was getting so many questions about Molas and sunfish. And so I just figured I'd have the questions answered, and I'd be able to thank my funders, like National Geographic and Lindbergh. But people would write into the site with all sorts of, all sorts of stories about these animals and wanting to help me get samples for genetic analysis. And what I found most exciting is that everyone had a shared -- a shared love and an interest in the oceans. I was getting reports from Catholic nuns, Jewish Rabbis, Muslims, Christians -- everybody writing in, united by their love of life. And to me that -- I don't think I could say it any better than the immortal Bard himself: "One touch of nature makes the whole world kin." And sure, it may be just one big old silly fish, but it's helping. If it's helping to unite the world, I think it's definitely the fish of the future.
Điều cuối cùng tôi muốn nói và tôi nghĩ đó cũng là điều thú vị nhất. Tôi đã tạo ra một trang web vì tôi nhận được rất nhiều câu hỏi về Mola và cá thái dương. Và tôi đã tìm câu trả lời cho các câu hỏi, và tôi muốn cảm ơn những người đã gây quỹ ủng hộ, như National Geographic và Lindbergh. Nhưng mọi người viết vào web tất cả câu chuyện về các động vật này và muốn giúp tôi lấy các mẫu phân tích gen. Và cái tôi thấy tuyệt vời nhất là mọi người chia sẻ -- chia sẻ yêu thương và sự đam mê với đại dương. Tôi đã nhận các báo cáo từ các sơ Công giáo, các thầy giảng Do Thái, các tín đồ Hồi giáo, Cơ đốc giáo -- mọi người đều viết vào web mọi thứ được kết hợp bằng tình yêu cuộc sống. Và theo tôi -- những lời của Bard bất tử không thể tuyệt vời hơn: "Một cái chạm của tự nhiên làm thế giới gần nhau." Nó có thể chỉ là một con cá ngu ngốc to lớn già cỗi nhưng lại có ích. Nếu nó giúp nối kết thế giới, tôi nghĩ đó chắn chắc là loài cá của tương lai.