When I was considering a career in the art world, I took a course in London, and one of my supervisors was this irascible Italian called Pietro, who drank too much, smoked too much and swore much too much. But he was a passionate teacher, and I remember one of our earlier classes with him, he was projecting images on the wall, asking us to think about them, and he put up an image of a painting. It was a landscape with figures, semi-dressed, drinking wine. There was a nude woman in the lower foreground, and on the hillside in the back, there was a figure of the mythological god Bacchus, and he said, "What is this?"
Khi tôi đang cân nhắc công việc trong ngành nghệ thuật, tôi đã tham gia một khóa học ở London, và một trong số những người giám sát của tôi là một người Ý rất khó tính tên là Pietro, ông ấy thường uống rượu, hút thuốc nhiều và chửi rủa cũng rất nhiều. Nhưng ông áy là một giáo viên rất có nhiệt huyết và tôi nhớ rằng ở một trong những buổi học đầu tiên của chúng tôi với ông ấy, ông ấy đã chiếu hình ảnh lên trên tường, hỏi xem chúng tôi nghĩ gì về điều đó, và ông ấy đưa lên một bức tranh. Đó là một bức tranh phong cảnh với những nhân vật chỉ mặc một nửa, đang uống rượu. Có một người đàn bà trong bộ dạng khỏa thân cận cảnh phía dưới, và phía sau sườn đồi, có một nhân vật thần thoại là Bacchus, và ông ấy hỏi: " Đây là gì?"
And I -- no one else did, so I put up my hand, and I said, "It's a Bacchanal by Titian."
Và chỉ mình tôi giơ tay lên và nói, "Đây là bức Bacchanal của Titian."
He said, "It's a what?"
Ông ấy nói" Đây là gì?"
I thought maybe I'd pronounced it wrong. "It's a Bacchanal by Titian."
Tôi nghĩ có thể tôi đã phát âm sai. "Đây là bức Bacchanal của Titan"
He said, "It's a what?"
Ông ấy nói, "Đây là gì?"
I said, "It's a Bacchanal by Titian." (Laughter)
Tôi nói, "Đây là bức Bacchanal của TiTan" (Tiếng cười)
He said, "You boneless bookworm! It's a fucking orgy!" (Laughter) As I said, he swore too much.
Ông ấy nói, " Cậu đúng là mọt sách! Đây là cuộc chè chén trác táng!" (Tiếng cười) Như tôi đã nói, ông ấy chửi thề rất nhiều.
There was an important lesson for me in that. Pietro was suspicious of formal art training, art history training, because he feared that it filled people up with jargon, and then they just classified things rather than looking at them, and he wanted to remind us that all art was once contemporary, and he wanted us to use our eyes, and he was especially evangelical about this message, because he was losing his sight. He wanted us to look and ask basic questions of objects. What is it? How is it made? Why was it made? How is it used? And these were important lessons to me when I subsequently became a professional art historian.
Đó là một bài giảng quan trọng đối với tôi. Pietro đã tỏ ra nghi ngờ về rèn luyện nghệ thuật trang trọng, và lịch sử đào tạo nghệ thuật, bởi vì ông ấy sợ rằng điều đó sẽ làm cho mọi người cảm thấy khó hiểu, và sau đó họ sẽ chỉ phân loại mọi thứ hơn là nghiên cứu về nó, và ông ấy muốn nhắc nhở chúng ta rằng nghệ thuật chỉ là nhất thời, và ông ấy muốn chúng ta sử dụng đôi mắt của chính mình, và đặc biệt mang kinh Phúc Âm vào câu nói của mình, bởi vì ông ấy đang mất phương hướng. Ông muốn chúng ta tìm và đưa ra những câu hỏi cơ bản về đồ vật. Đây là gì? Nó được làm như thế nào? Nó dùng để làm gì? Nó được dùng như thế nào? Và đó là những bài học quan trọng đối với tôi bởi khi tôi trở thành giáo sư về lịch sử của nghệ thuật.
My kind of eureka moment came a few years later, when I was studying the art of the courts of Northern Europe, and of course it was very much discussed in terms of the paintings and the sculptures and the architecture of the day. But as I began to read historical documents and contemporary descriptions, I found there was a kind of a missing component, for everywhere I came across descriptions of tapestries. Tapestries were ubiquitous between the Middle Ages and, really, well into the 18th century, and it was pretty apparent why. Tapestries were portable. You could roll them up, send them ahead of you, and in the time it took to hang them up, you could transform a cold, dank interior into a richly colored setting. Tapestries effectively provided a vast canvas on which the patrons of the day could depict the heroes with whom they wanted to be associated, or even themselves, and in addition to that, tapestries were hugely expensive. They required scores of highly skilled weavers working over extended periods of time with very expensive materials -- the wools, the silks, even gold and silver thread. So, all in all, in an age when the visual image of any kind was rare, tapestries were an incredibly potent form of propaganda.
Khoảnh khắc tôi tìm ra được một thứ mới diễn ra vài năm trước đây, khi tôi đang học về nghệ thuật của tòa án ở Bắc Âu, và tất nhiên nó đã được thảo luận trong vấn đề về tranh vẽ và những bản điêu khắc và kiến trúc đương thời. Nhưng khi tôi đọc những tài liệu lịch sử và những bản miêu tả đương thời, tôi nhận thấy rằng có một điều vẫn còn thiếu, trong tất cả những bản miêu tả thảm thêu mà tôi đã đọc. Những tấm thảm thêu đó tồn tại khắp mọi nơi thời Trung Đại, và, thực sự, vào thế kỉ 18, và đó chính là lí do hiển nhiên. Thảm thêu là thứ dễ dàng mang theo. Bạn có thể cuộn tròn nó lại, để ở phía trước mình, và trong lúc treo nó lên, bạn có thể biến cái lạnh, ẩm ướt thành sự khô ráo rực rỡ màu sắc. Thảm thêu cung cấp một tấm bạt lớn hữu dụng mà người tài trợ có thể miêu tả những anh hùng mà họ muốn được liên kết, hoặc ngay cả bản thân họ, và ngoài điều đó, những tấm thảm thêu vô cùng đắt đỏ. Họ yêu cầu những người thợ dệt có tay nghề cao làm việc quá thời gian qui định với những nguyên liệu đắc tiền - len, tơ lụa, thậm chí là sợi chỉ vàng và bạc. Vì vậy, tóm lại là, ở một độ tuổi nào đó khi hình ảnh, của bất kì loại nào cũng rất hiếm gặp, những tấm thảm thêu là một loại hình tuyên truyền có hiệu quả vô cùng to lớn.
Well, I became a tapestry historian. In due course, I ended up as a curator at the Metropolitan Museum, because I saw the Met as one of the few places where I could organize really big exhibitions about the subject I cared so passionately about. And in about 1997, the then-director Philippe de Montebello gave me the go-ahead to organize an exhibition for 2002. We normally have these very long lead-in times.
À, tôi trở thành một nhà sử học về những tấm thảm thêu. Tất nhiên, tôi rốt cuộc cũng trở thành một quản lí tại bảo tàng trung tâm, vì tôi thấy Met như một trong những nơi mà tôi có thể tổ chức những buổi triển lãm lớn theo từng chủ đề mà tôi vô cùng quan tâm. Và vào khoảng năm 1997, giám đốc Philippe de Montebello đã cho phép tôi tổ chức một buổi triển lãm vào năm 2002. Chúng tôi bình thường có khoảng thời gian dài để bắt đầu.
It wasn't straightforward. It's no longer a question of chucking a tapestry in the back of a car. They have to be wound on huge rollers, shipped in oversized freighters. Some of them are so big we had, to get them into the museum, we had to take them up the great steps at the front.
Không hề đơn giản chút nào. Không còn thắc mắc về chuyện thảm thêu ở phía sau xe. Chúng phải được bọc trong ống cuốn khổng lồ, vận chuyển trên những con tàu quá khổ. Chúng ta có một vài thứ kềnh càng cần phải đưa vào viện bảo tàng, chúng ta phải dành cho chúng nhiều chỗ rộng ở phía trước.
We thought very hard about how to present this unknown subject to a modern audience: the dark colors to set off the colors that remained in objects that were often faded; the placing of lights to bring out the silk and the gold thread; the labeling. You know, we live in an age where we are so used to television images and photographs, a one-hit image. These were big, complex things, almost like cartoons with multiple narratives. We had to draw our audience in, get them to slow down, to explore the objects.
Chúng tôi nghĩ rất nhiều về cách làm thế nào để trình bày chủ đề không rõ ràng này cho khán giả hiện đại: những màu tối dùng để làm nổi bật các màu còn lại trong những vật gần như bị phai nhạt đi; vị trí ánh sáng làm tôn lên vẻ đẹp của tơ lụa và đường chỉ vàng; tạo nhãn dán. Bạn biết đó, chúng ta sống trong thời đại mà chúng ta từng quen với hình ảnh và ảnh chụp trên TV, một hình ảnh để đời. Chúng là những thứ to lớn và phức tạp, gần giống hoạt hình với nhiều câu chuyện kể đa dạng. Chúng ta phải thu hút sự chú ý của khán giả, làm cho họ từ từ di chuyển, để khám phá những đồ vật đó.
There was a lot of skepticism. On the opening night, I overheard one of the senior members of staff saying, "This is going to be a bomb." But in reality, in the course of the coming weeks and months, hundreds of thousands of people came to see the show. The exhibition was designed to be an experience, and tapestries are hard to reproduce in photographs. So I want you to use your imaginations, thinking of these wall-high objects, some of them 10 meters wide, depicting lavish court scenes with courtiers and dandies who would look quite at home in the pages of the fashion press today, thick woods with hunters crashing through the undergrowth in pursuit of wild boars and deer, violent battles with scenes of fear and heroism. I remember taking my son's school class. He was eight at the time, and all the little boys, they kind of -- you know, they were little boys, and then the thing that caught their attention was in one of the hunting scenes there was a dog pooping in the foreground — (Laughter) — kind of an in-your-face joke by the artist. And you can just imagine them. But it brought it alive to them. I think they suddenly saw that these weren't just old faded tapestries. These were images of the world in the past, and that it was the same for our audience. And for me as a curator, I felt proud. I felt I'd shifted the needle a little. Through this experience that could only be created in a museum, I'd opened up the eyes of my audience -- historians, artists, press, the general public -- to the beauty of this lost medium.
Có nhiều nghi hoặc. Vào một đêm nọ, tôi đã nghe lén cuộc nói chuyện của một trong những nhân viên kì cựu, "Đây sẽ là một quả bom." Nhưng trên thực tế, trong vài tuần và vài tháng tiếp theo, hàng trăm hàng ngàn người đã đến xem chương trình. Buổi triển lãm được thiết kế để trở thành một trải nghiệm, và những tấm thảm thêu thật khó tái hiện lại trong những bức ảnh chụp. Cho nên tôi muốn tận dụng trí tưởng tượng của bạn, nghĩ về những đồ vật có bức tường cao, một vài đối tượng rộng khoảng 10 mét, mô tả những cảnh tòa án hoang phí với những phụ tá và công tử bột những người này có vẻ như đang khá thư giãn trên các tạp chí thời trang ngày nay, những khu rừng rậm và thợ săn băng qua các bụi rậm đuổi theo những con lợn lòi và nai, những cuộc chiến bạo lực với nhiều cảnh lo âu và đậm chất anh hùng. Tôi nhớ lúc đưa con trai đến lớp học. Thằng bé lúc đó được 8 tuổi, và tất cả các cậu bé, đại khái là - bạn biết rồi, chúng là những cậu bé, và sau đó thứ thu hút sự chú ý của chúng chính là một trong những cảnh đi săn, cận cảnh một con chó đang đi vệ sinh - (Cười) - một câu nói đùa ngay trước mặt bạn của người nghệ sĩ. Và bạn chỉ có thể tưởng tượng ra thôi. Nhưng điều đó giúp nó thêm sống động. Tôi nghĩ họ tự nhiên nhìn thấy đây không phải chỉ là những tấm thảm thêu cũ đã phai màu. Đây là những hình ảnh của thế giới trong quá khứ, và cũng là hình ảnh của khán giả tại thời điểm đó. Và đối với một người quản lí như tôi, tôi thấy tự hào. Tôi cảm giác muốn thay đổi cây kim một chút. Thông qua trải nghiệm này, điều đó có thể được tạo ra trong bảo tàng, tôi đã mở rộng tầm mắt cho khán giả của mình - những nhà sử học, nghệ sĩ, nhà báo, công chúng - về vẻ đẹp của môi trường đã mất này.
A few years later, I was invited to be the director of the museum, and after I got over that -- "Who, me? The tapestry geek? I don't wear a tie!" -- I realized the fact: I believe passionately in that curated museum experience. We live in an age of ubiquitous information, and sort of "just add water" expertise, but there's nothing that compares with the presentation of significant objects in a well-told narrative, what the curator does, the interpretation of a complex, esoteric subject, in a way that retains the integrity of the subject, that makes it -- unpacks it for a general audience. And that, to me, today, is now the challenge and the fun of my job, supporting the vision of my curators, whether it's an exhibition of Samurai swords, early Byzantine artifacts, Renaissance portraits, or the show we heard mentioned earlier, the McQueen show, with which we enjoyed so much success last summer.
Vài năm sau, tôi được mời làm giám đốc của bảo tàng, và sau đó tôi tưởng tượng - "Ai, tôi sao? Kẻ ngờ nghệch kiến thức thảm thêu sao? Tôi không đeo cà vạt!" - Tôi chợt nhận ra sự thật là: Tôi có niềm tin mãnh liệt vào trải nghiệm của việc quản lí bảo tàng. Chúng ta sống trong thời đại thông tin có khắp mọi nơi, và vài loại chuyên môn "vừa mới thêm nước" vào, nhưng không có gì có thể so sánh với buổi thuyết trình về những vật quan trọng trong câu chuyện kể hay được, việc một người quản lí làm, diễn giải chủ đề phức tạp và bí truyền, theo cách để duy trì tính toàn vẹn của chủ thể, làm được - mở được rồi. cho khán giả chung chung. Và, điều đó, đối với tôi, hôm nay, vừa là thử thách vừa là niềm vui. trong công việc, hỗ trợ tầm nhìn đối với những người quản lí, liệu đây có phải là một buổi triển lãm những thanh kiếm Samurai, những tạo tác buổi đầu của người Byzantine, những bức chân dung thời Phục Hưng, hay buổi trình diễn chúng ta đã nghe được đề trước đó rồi hay không, chương trình McQueen, với chương trình mà chúng ta đã thưởng thức, đạt nhiều thành công vào mùa hè năm ngoái.
That was an interesting case. In the late spring, early summer of 2010, shortly after McQueen's suicide, our curator of costume, Andrew Bolton, came to see me, and said, "I've been thinking of doing a show on McQueen, and now is the moment. We have to, we have to do it fast."
Đó là một trường hợp thú vị. Vào thời điểm cuối xuân đầu hè năm 2010, một thời gian ngắn sau vụ tự sát của McQueen, người quản lí trang phục của chúng ta, Andrew Bolton, đã đển gặp tôi và nói, "Tôi từng nghĩ đến việc thực hiện chương trình về McQueen, và giờ là thời điểm thích hợp. Chúng ta phải, chúng ta phải làm điều đó nhanh lên."
It wasn't easy. McQueen had worked throughout his career with a small team of designers and managers who were very protective of his legacy, but Andrew went to London and worked with them over the summer and won their confidence, and that of the designers who created his amazing fashion shows, which were works of performance art in their own right, and we proceeded to do something at the museum, I think, we've never done before. It wasn't just your standard installation. In fact, we ripped down the galleries to recreate entirely different settings, a recreation of his first studio, a hall of mirrors, a curiosity box, a sunken ship, a burned-out interior, with videos and soundtracks that ranged from operatic arias to pigs fornicating. And in this extraordinary setting, the costumes were like actors and actresses, or living sculptures. It could have been a train wreck. It could have looked like shop windows on Fifth Avenue at Christmas, but because of the way that Andrew connected with the McQueen team, he was channeling the rawness and the brilliance of McQueen, and the show was quite transcendant, and it became a phenomenon in its own right. By the end of the show, we had people queuing for four or five hours to get into the show, but no one really complained. I heard over and over again, "Wow, that was worth it. It was a such a visceral, emotive experience."
Chuyện không hề dễ dàng. McQueen đã làm việc trong suốt sự nghiệp của mình cùng với một nhóm nhỏ những nhà thiết kế và quản lí những người luôn bảo vệ tài sản của anh ta, nhưng Andrew đến Luân Đôn và làm việc cùng với họ suốt mùa hè và giành được sự tự tin của họ, và những người thiết kế đó đã tạo ra những chương trình thời trang tuyệt vời, trình bày những tác phẩm biểu diễn nghệ thuật theo cách của riêng họ, và chúng ta đã kế tục điều đó tại bảo tàng, tôi nghĩ, trước đây chúng ta chưa từng làm chuyện như vậy. Đây không phải việc đặt tiêu chuẩn của bạn. Thật ra, chúng ta đã phá vỡ phòng trưng bày để khôi phục toàn bộ hoạt cảnh khác, khôi phục lại studio đầu tiên của anh ta, một căn phòng đầy gương, một chiếc hộp gây tò mò, một con tàu bị chìm, một nội thất bị đốt trụi, cùng những video và những bản nhạc nền được sắp xếp từ nhạc arias mang phong cách opera đến những chú heo đang làm chuyện đó. Và trong hoạt cảnh khác thường này, trang phục sẽ giống như những nam/ nữ diễn viên, hoặc bức tượng sống. Có thể là một vụ tai nạn xe lửa. Có thể trông giống như những cửa hiệu trên đại lộ số 5 vào mùa Giáng Sinh, nhưng vì cách mà Andrew kết nối với đội của McQueen, anh ta đang hướng vào sự non kinh nghiệm và tài hoa của McQueen, và chương trình khá là ưu việt, và đã trở thành một hiện tượng theo bản sắc riêng. Cuối chương trình, chúng ta nhờ mọi người xếp hàng trong khoảng 4 đến 5 tiếng đồng hồ để vào xem chương trình, nhưng thật ra không có ai phàn nàn gì. Tôi đã nghe rất nhiều lần "Wow, điều này xứng đáng mà. Đó là một trải nghiệm mang tính nhận thức và đầy cảm xúc."
Now, I've described two very immersive exhibitions, but I also believe that collections, individual objects, can also have that same power. The Met was set up not as a museum of American art, but of an encyclopedic museum, and today, 140 years later, that vision is as prescient as ever, because, of course, we live in a world of crisis, of challenge, and we're exposed to it through the 24/7 newsreels. It's in our galleries that we can unpack the civilizations, the cultures, that we're seeing the current manifestation of. Whether it's Libya, Egypt, Syria, it's in our galleries that we can explain and give greater understanding.
Bây giờ, tôi sẽ mô tả tổng quát 2 buổi triển lãm, nhưng tôi cũng tin rằng những bộ sưu tập, những vật dụng cá nhân, cũng có thể có sức mạnh tương tự. Met được thành lập không giống một bảo tàng nghệ thuật của Mĩ, nhưng là một bảo tàng bách khoa toàn thư, và ngày nay, 140 năm sau, tầm nhìn đó giống như từng được tiên tri trước, vì, dĩ nhiên, chúng ta sống trong một thế giới khủng hoảng, của sự thách thức, và chúng ta buộc phải tiếp xúc với nó qua các bản tin thời sự 24/7. Đây là phòng trưng bày mà chúng ta có thể giải mã các nền văn minh, các nền văn hóa, mà chúng ta đang thấy sự biểu hiện ở hiện tại. Liệu có là Libya, Ai Cập, Syria hay không, đây là phòng triển lãm mà chúng ta có thể giải thích và cho thấy sự hiểu biết cao hơn.
I mean, our new Islamic galleries are a case in point, opened 10 years, almost to the week, after 9/11. I think for most Americans, knowledge of the Islamic world was pretty slight before 9/11, and then it was thrust upon us in one of America's darkest hours, and the perception was through the polarization of that terrible event. Now, in our galleries, we show 14 centuries of the development of different Islamic cultures across a vast geographic spread, and, again, hundreds of thousands of people have come to see these galleries since they opened last October.
Ý tôi là, những phòng trưng bày theo phong cách Hồi giáo mới là ví dụ điển hình, đã mở ra từ 10 năm trước, hầu như suốt tuần, sau ngày 9/11. Tôi nghĩ hầu hết người Mĩ, kiến thức về thế giới Hồi giáo khá là qua loa trước ngày 9/11, và sau đó công kích chúng tôi vào một trong những thời điểm tối tăm nhất nước Mĩ, và nhận thức này dẫn đến tình trạng phân biệt sau sự kiện kinh khủng đó. Hiện nay, trong phòng trưng bày của chúng tôi, chúng tôi trình bày 14 thế kỉ phát triển của các nền văn hóa Hồi giáo khác nhau trải rộng về mặt địa lí, và, một lần nữa, hàng trăm hàng ngàn người đến xem những phòng trưng bày này từ lúc chúng được mở ra vào cuối tháng 10.
I'm often asked, "Is digital media replacing the museum?" and I think those numbers are a resounding rejection of that notion. I mean, don't get me wrong, I'm a huge advocate of the Web. It gives us a way of reaching out to audiences around the globe, but nothing replaces the authenticity of the object presented with passionate scholarship. Bringing people face to face with our objects is a way of bringing them face to face with people across time, across space, whose lives may have been very different to our own, but who, like us, had hopes and dreams, frustrations and achievements in their lives. And I think this is a process that helps us better understand ourselves, helps us make better decisions about where we're going.
Tôi thường bị hỏi là "Công nghệ kĩ thuật số có thay thế bảo tàng không?" và tôi nghĩ những con số đó là sự từ chối thẳng thừng về khái niệm đó. Ý tôi là, đừng hiểu lầm tôi, tôi hoàn toàn ủng hộ việc dùng trang web. Nó giúp chúng ta gần gũi với nhiều khán giả trên khắp địa cầu, nhưng không gì thay thế tính chân thực của các vật đại diện cho sự đam mê học hỏi. Đưa con người đứng trước những đồ vật là cách để chúng đối mặt với chúng ta xuyên thời gian, xuyên không gian, cuộc sống của chúng có thể rất khác với chúng ta, nhưng những người như chúng ta, có hi vọng và ước mơ, có giận dữ và thành công trong cuộc sống. Và tôi nghĩ đây là một quá trình giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mình, giúp chúng ta đưa ra quyết định đúng đắn hơn về nơi chúng ta sẽ đi.
The Great Hall at the Met is one of the great portals of the world, awe-inspiring, like a medieval cathedral. From there, you can walk in any direction to almost any culture. I frequently go out into the hall and the galleries and I watch our visitors coming in. Some of them are comfortable. They feel at home. They know what they're looking for. Others are very uneasy. It's an intimidating place. They feel that the institution is elitist. I'm working to try and break down that sense of that elitism. I want to put people in a contemplative frame of mind, where they're prepared to be a little bit lost, to explore, to see the unfamiliar in the familiar, or to try the unknown. Because for us, it's all about bringing them face to face with great works of art, capturing them at that moment of discomfort, when the inclination is kind of to reach for your iPhone, your Blackberry, but to create a zone where their curiosity can expand. And whether it's in the expression of a Greek sculpture that reminds you of a friend, or a dog pooping in the corner of a tapestry, or, to bring it back to my tutor Pietro, those dancing figures who are indeed knocking back the wine, and that nude figure in the left foreground. Wow. She is a gorgeous embodiment of youthful sexuality. In that moment, our scholarship can tell you that this is a bacchanal, but if we're doing our job right, and you've checked the jargon at the front door, trust your instinct. You know it's an orgy. Thank you. (Applause) (Applause)
Phòng trưng bày lớn ở Met là một trong những cánh cổng tuyệt vời của thế giới, gây chấn động, giống như nhà thờ thời trung cổ. Từ đó, bạn có thể đi bộ theo bất cứ hướng nào dẫn đến bất cứ nền văn hóa nào. Tôi thường đi đến hội trường và phòng trưng bày và tôi thấy những vị khách tham quan đang đi vào. Một vài trong số họ rất thoải mái. Họ cảm giác như ở nhà mình. Họ biết điều họ đang tìm kiếm. Những người khác thì lo lắng. Đây là một nơi đáng sợ. Họ cảm giác nơi đây là dành cho giới quí tộc. Tôi sẽ cố gắng và phá vỡ cái ý nghĩ dành cho giới quí tộc. Tôi muốn để mọi người có trầm tư suy nghĩ, nơi họ được chuẩn bị để bị lạc đường, để khám phá, để xem cái xa lạ trong cái gần gũi với mình, hoặc thử cái mà họ không biết. Vì đối với chúng tôi, mong muốn là đưa họ đối mặt với những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng, lưu giữ chúng trong khoảnh khắc khó chịu, khi độ nghiêng là thứ tiếp cận chiếc iPhone của bạn, chiếc Blackberry, nhưng để tạo ra một vùng mà sự tò mò của họ có thể trải rộng ra. Và liệu có phải đây là biểu hiện trong bức tượng của người Hi Lạp nhắc nhở bạn của bạn, hoặc một chú chó đi vệ sinh ở phía gốc của chiếc thảm thêu, hay, để đưa nó trở lại với người hướng dẫn của tôi tên là Pietro, những dáng điệu nhảy múa người đang cần phải trở lại uống rượu, và bóng dáng trần trụi kia nằm ở vị trí bên trái. Wow. Cô ấy là hiện thân tuyệt đẹp của giới tính trẻ trung. Trong lúc đó, sự uyên bác của chúng ta có thể nói với bạn đây là bữa tiệc chè chén, nhưng nếu chúng ta đang làm đúng quyền hạn của mình, và bạn kiểm tra biệt ngữ ở trước cửa, tin vào bản năng của mình. Bạn biết đây là một buổi ăn chơi. Cảm ơn. (Vỗ tay) (Vỗ tay)