Catherine Abreu: We know with certainty that fossil fuels need to be phased out. There's really no question in the science at this point.
Chúng ta đều biết chắc chắn rằng nhiên liệu hóa thạch cần được sử dụng hạn chế. Không còn sự nghi ngờ gì nữa về mặt khoa học.
Tessa Khan: The arguments for transitioning away from fossil fuels at speed have never been more compelling. I think the responsibilities of governments to accelerate that transition have never been so acute.
Tessa Khan: Các tranh cãi về việc thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch đang hiện hữu chưa bao giờ sôi nổi như thế. Tôi nghĩ trách nhiệm của chính phủ trong việc thúc đẩy quá trình thay thế chưa bao giờ trở nên gay gắt như thế.
Laurence Tubiana: It has to be quite radical. It could have been done slowly. But now we are running against time, and the climate impacts are now not for tomorrow. It's for today.
Nó phải khá triệt để. Nó đã từng được giải quyết một cách chậm chạp. Nhưng bây giờ chúng ta đang chạy đua với thời gian, và biến đổi khí hậu không phải là việc của ngày mai. Nó là của hôm nay.
Hisham Mundol: The role of fossil fuels between now and 2050 is that of a necessary evil.
Vai trò của nhiên liệu hoá thạch từ bây giờ đến 2050 là một điều phải chấp nhận.
Hongqiao Liu: So we have a very complicated relationship with fossil fuels at the moment. It's like your ex-partner, you want to get rid of them, but they stick around.
Chúng ta có một mối quan hệ phức tạp với nhiên liệu hoá thạch (NLHT) vào thời điểm hiện tại. Nó như người yêu cũ của bạn, bạn muốn loại bỏ họ, nhưng họ vẫn ở cạnh bạn.
Rebekah Shirley: In Africa, for instance, where I live, it's a bit more complicated.
ở châu Phi, ví dụ như, nơi tôi sống, nó còn phức tạp hơn một chút.
Vijaya Ramachandran: I don't think it's fair to poor countries to say you have to be renewable only, when the rich countries are doubling down on oil, coal and gas.
Tôi nghĩ nó không công bằng với các nước nghèo đói khi họ chỉ được sử dụng nguồn có thể tái tạo còn các nước giàu lại đang tăng gấp đôi sử dụng dầu, than và khí đốt.
HL: We need to debate. We need we need that exchange. We need to understand each other's views and to start with the concept of the dilemma that we’re facing.
Chúng ta cần tranh luận. Chúng ta cần trao đổi. Chúng ta cần hiểu quan điểm của mọi người cần bắt đầu từ những căn bản của vấn đề nan giải ta đang đối mặt.
Zoë Knight: In my mind, the biggest obstacle is the speed of collaboration. We speak at cross-purposes with each other.
Tôi nghĩ thứ đáng quan ngại nhất chính là tốc độ của việc hợp tác. Chúng ta phải bỏ qua lợi ích cá nhân.
Mary Robinson: We've got to deal with this much more quickly than we're doing. How do we raise the temperature? How do we increase the energy for action, the passion for action, the heartfelt need for action which will move us?
Chúng ta phải giải quyết nó nhanh hơn chúng ta đang làm. Làm thế nào để tăng nhiệt huyết? Làm thế nào để tăng động lực, đam mê, nhiệt tâm cho hành động thứ có thể giúp chúng ta thay đổi
[TED Countdown]
[TED Countdown]
[Dilemma Series]
[Dilemma Series]
[How do we move from fossil fuels to clean energy quickly and fairly?]
[Làm sao đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng sạch thật nhanh và công bằng?]
Lindsay Levin: We're standing at a crucial crossroads in history. We live in a world where our energy system is overwhelmingly dependent on burning fossil fuels. What are the viable pathways to a clean and safe future, and how do we collectively navigate this transition?
Chúng ta đang bước vào một thay đổi lớn của lịch sử. Chúng ta đang sống ở thế giới nơi năng lượng chủ yếu được lấy từ việc đốt cháy NLHT. Những con đường nào khả thi đi đến một tương lai sạch và an toàn, và làm thể nào ta có thể điều hướng con đường ấy?
I'm Lindsay Levin, co-founder of Countdown, and this is the second installment of our Dilemma Series. We know that credible people, including many of you, disagree in some pretty fundamental ways on this topic, the core of the climate challenge. Recently at the Barbican Centre in London, we brought together experts, activists and leading voices in the climate space to speak, listen and work together as we figure out how to make progress despite our differences.
Tôi là Lindsay Levin, đồng sáng lập của Countdown, và đây là phần thứ hai của Dilemma Series. Chúng tôi biết rằng những người đáng tin cậy bao gồm bạn, không đồng tình trong một vài giải pháp đơn giản cho chủ đề này, điều cốt lõi của biến đổi khí hậu. Gần đây tại trung tâm Barbican, London, chúng tôi tập hợp các chuyên gia, nhà hoạt động, những tiếng nói hàng đầu trong ngành để nói chuyện, lắng nghe, làm việc cùng nhau khi đang đi tìm cách đạt được tiến bộ bất chấp sự khác biệt của chúng tôi.
While the need to get off fossil fuels is straightforward and urgent, the pathway to doing it equitably is anything but. Here's TED science curator David Biello to frame the basic ideas behind this dilemma.
Trong khi sự cần thiết loại bỏ NLHT là rõ ràng và cấp bách, bằng bất cứ giá nào cũng phải thực hiện nó một cách công bằng. David Biello người phụ trách TED khoa học để định hình những ý tưởng cơ bản cho vấn đề nan giải này
David Biello: Today, more than 80 percent of modern energy comes from burning fossil fuels. That means more than 40 billion metric tons, that's 40 gigatons, of CO2 gets dumped in the air each year. And that number is growing.
Ngày nay, hơn 80% năng lượng hiên đại đến từ việc đốt cháy NLHT Nó có nghĩa hơn 40 tỷ tấn, nó là 40 tỷ tấn khí CO2 được thải vào không khí mỗi năm và con số này đang tăng lên.
At the same time, hundreds of millions of people live with limited or no access to modern energy at all. That means they have contributed almost nothing to the greenhouse gas pollution causing the climate crisis.
Cùng thời điểm, hàng trăm triệu người sống mà rất hạn chế hay thậm chí không được tiếp cận với các nguồn năng lượng hiện đại. Nó có nghĩa là họ hầu như không tham gia vào việc gây ra hiệu ứng nhà kính thứ là nguyên nhân của khủng hoảng khí hậu
So do we stop fossil fuel exploration and production entirely? Do we encourage it for certain communities but not others? And if so, where? How do we actually get renewables to scale and how do we pay for it all? These questions are incredibly complex, but the takeaway is clear. We need to eliminate fossil fuels and use what we must to ensure that everyone benefits. Let's start with some facts and figures about where we are today. Here's Adair Turner.
Vậy chúng ta có ngừng hoàn toàn thăm dò, sản xuất NLHT? Có lẽ ta đang chỉ khuyến khích nó ở các trung tâm dân cư? Và nếu thế, thì vùng nào? Làm thế nào ta có thể mở rộng quy mô năng lượng tái tạo và chi trả tất cả chúng? Những câu hỏi này vô cùng phức tạp nhưng hướng giải quyết rất rõ ràng. Chúng ta cần loại bỏ NLHT và sử dụng nguồn năng lượng mà chúng ta đảm bảo tất cả đều có lợi Hãy bắt đầu với một vài sự thật và số liệu về thực trạng hiện nay Đây là Adair Turner
Adair Turner: The International Panel on Climate Change estimated in 2018 that if we are to have even a 50-percent chance of limiting global warming to 1.5 degrees centigrade, we cannot emit more than 500 gigatons of CO2 between 2020 and 2050. But actually, we're two years into that 30-year period. We've been running at 40 gigatons per year, so we've only got 420 gigatons left. That 420 gigatons would be emitted if we burnt 70 billion tons of coal plus 65 trillion cubic meters of gas plus 350 billion barrels of oil. But at the current rate we will have burnt all of that in 12 years.
Hội đồng quốc tế về biến đổi khí hậu năm 2018 đã ước tính rằng nếu chúng ta muốn có 50% cơ hội để hạn chế sự nóng lên toàn cầu khoảng 1,5 độ C, chúng ta không thể thải ra nhiều hơn 500 tỷ tấn khí CO2 từ năm 2020 đến 2050. Nhưng thực tế,chúng ta chỉ mới trải qua 2 năm trong khoảng thời gian 30 năm đó. Chúng ta đã thải ra 40 tỷ tấn mỗi năm, vì vậy chúng ta chỉ còn lại 420 tỷ tấn. 420 tỷ tấn này sẽ được thải ra nếu ta đốt cháy 70 triệu tấn than đá cộng với 60 nghìn tỷ khối khí đốt và 350 triệu thùng dầu. <1 thùng = 158,9873 lít> nhưng với tốc độ hiện tại chúng ta sẽ đốt cháy tất cả chỉ trong vòng 12 năm.
We have got to find a way of leaving the vast majority of coal, oil and gas in the ground, even if it is in someone's interest to dig it or drill it up. So what should we do?
Chúng ta đã và đang tìm mọi cách để khai thác hầu hết than đá, dầu và khí đốt trong lòng Trái đất, thậm chí nó là một sự thích thú với vài người khi khoan hay đào nó lên. Vậy chúng ta phải làm gì ?
In one area, the answer is clear. Renewable is now a cheaper way to produce electricity than coal in almost all countries of the world, so we should build no more coal electricity plants, no more coal mines. And we should not invest anything in the extension of existing coal mines.
Trong một khía cạnh, câu trả lời rất rõ ràng. Năng lượng tái tạo là một cách rẻ hơn so với than đá trong việc sản xuất điện tại hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới vì vậy chúng ta không nên xây dựng thêm các nhà máy nhiệt điện, các mỏ than. và chúng ta không nên đầu tư bất cứ thứ gì để mở rộng các mỏ than hiện có
For gas and oil, it is a bit trickier. International Energy Agency suggests a distinction. It says that we should invest nothing in exploration for or production from new oil and gas fields, but that it’s OK to invest something to maintain production from existing fields.
Với khí đốt và dầu, nó phức tạp hơn một chút. Cơ quan năng lượng quốc tế đề xuất một ý tưởng khác biệt Chúng ta không nên đầu tư thăm dò hay sản xuất từ các mỏ dầu khí mới, nhưng cũng ổn để đầu tư duy trì sản xuất từ các mỏ hiện có
But there are some people who would challenge the morality of that distinction, because if there's an absolute limit to how much gas we can safely burn, it's not clear that squeezing a little bit more out of the North Sea is more acceptable than developing a new gas field in an African country whose past cumulative per capita emissions have been a tiny fraction of the UK's.
Nhưng có một vài người sẽ đặt nghi vấn cho tính nhân văn của ý tưởng này, bởi vì nếu có một giới hạn chính xác về lượng khí chúng ta có thể đốt cháy, nó thì không chắc rằng việc khai thác thêm một chút ở Biển Bắc được chấp nhận hơn là phát triển một mỏ khí mới ở một nước châu Phi nơi có lượng phát thải bình quân trên đầu người trong quá khứ chỉ là một phần rất nhỏ so với Vương Quốc Anh.
We now have the technologies to dramatically reduce the demand for fossil fuels, and we should deploy them as rapidly as possible. That means ensuring that electricity systems in every developed country get to zero emissions by 2035 at the very latest and ideally earlier, with no coal and only a very, very small role for unabated gas. We should be aiming to reduce coal demand 90 percent by 2050, oil demand at least 75 percent and gas demand by well over 50 percent. And we are running out of time to do it fast enough.
Chúng ta hiện có công nghệ để giảm đáng kể nhu cầu về nhiên liệu hoá thạch, và chúng ta cần triển khai nó càng nhanh càng tốt. Điều đó có nghĩa ta phải đảm bảo hệ thống điện ở các quốc gia phát triển đạt mức phát thải bằng 0 muộn nhất vào năm 2035 hoặc lí tưởng là sớm hơn, với việc không sử dụng than đá và chỉ có rất rất nhỏ vai trò của khí phát thải. Chúng ta nên đạt mục tiêu giảm 90% nhu cầu sử dụng than vào năm 2050, ít nhất 75% nhu cầu sử dụng dầu và khoảng 50% nhu cầu sử dụng khí đốt. Chúng ta sắp hết thời gian để thực hiện nó đủ nhanh.
LL: Those are some big reduction targets, and we need to meet them. But as we move there, we'll still be using some fossil fuels to meet energy demands. How do we do that while accelerating our transition to renewables? Some people think we can work with the fossil fuel industry and want to pressure it to do better. Others propose more radical departures. Here are a few opinions on this issue, starting with Jérôme Schmitt, a former oil industry executive who is now a senior fellow at the Columbia Center on Sustainable Investment.
Nó là một mục tiêu cắt giảm lớn, và chúng ta cần phảt đạt được nó. Nhưng khi đạt được nó, chúng ta vẫn sẽ sử dụng NLHT để đáp ứng nhu cầu năng lượng Làm thể nào ta có thể làm điều này trong khi đổi sang năng lượng tái tạo? Vài người nghĩ rằng ta có thể làm việc với công nghiệp NLHT và muốn gây áp lực để họ làm tốt hơn. Nhiều người khác đề xuất tiến hành triệt để hơn. Đây là một vài ý kiến cho vấn đề này, bắt đầu với Jérôme Schmitt, một cựu giám đốc điều hành ngành công nghiệp dầu mỏ hiện là thành viên cao cấp tại Trung tâm đầu tư bền vững Columbia.
Jérôme Schmitt: I'm not aware of any net-zero scenario compliant with 1.5 degree or two degree that does not involve even a little bit of fossil fuel by 2040 or 2050, especially for the developing part of the world. Therefore, some people will need to have an all-in understanding of the energy system and be able to manage the complexity of producing and supplying to customers and to countries clean energy on one side and less and less fossil fuel on the other side and concentrate the fossil fuel supply and demand on the absolute necessary means and usage and increase progressively the shift from one to the other.
Tôi không biết bất kì mục tiêu net-zero nào tuân thủ thoả thuận 1,5 hoặc 2 độ mà không liên quan dù chỉ một ít tới NLHT đến năm 2040 hoặc 2050, đặc biệt với các nước đang phát triển trên thế giới Vì vậy, một vài người cần có hiểu biết toàn diện về hệ thống năng lượng và cần có khả năng giải quyết rắc rối đến từ việc vừa phải sản xuất , cung cấp cho khách hàng, các nước năng lượng sạch vừa phải giảm thiểu sử dụng NLHT và cần tập trung cung cầu NLHT vào những hoạt động thật sự cần thiết và dần dần cần có khả năng linh hoạt chuyển đổi.
Those who have the competency today to manage this complexity and the balance sheet is still the oil and gas industry, whether we like it or not. So I would take the oil and gas industry as an opportunity to go faster, to make it right better than we would do it without them. But if it doesn't prove possible because the oil and gas industry doesn't shift and doesn't adapt, we must do without.
Những người mà đang có năng lực để quản lí rắc rối và đảm bảo ngân sách vẫn là ngành dầu khí, dù chúng ta có thích điều này hay không. Vi vậy tôi xem ngành công nghiệp dầu khí như một cơ hội để ta giải quyết vấn đề nhanh hơn, tốt hơn so với việc thực hiện mà không có họ. Nhưng nếu họ không chứng minh năng lực của họ thông qua việc không thay đổi, thích ứng, chúng ta sẽ phải làm mà không có họ. Các công ty dầu khí phải nhận ra rằng --
Ramez Naam: Oil and gas companies have to realize -- they don't always, but they really should realize -- the writing is on the wall. We're spending close to twice as much on clean energy as we are on fossil fuel infrastructure already, and that gap is just going to widen and widen. So I think if we can pivot those companies, that industry, into working on a clean future, it's a good thing. But we shouldn't have illusions that it's going to happen by itself. The pivot that has happened has been because companies have seen that the future is clean. And so a combination of continuing to push on policy, on citizen advocacy and on driving for the technologies that disrupt fossil fuels is what will cause those large, entrenched fossil fuel companies to pivot towards the clean future.
họ chưa nhận ra, nhưng họ thật sự nên nhận ra -- điều tồi tệ sắp xảy ra. Chúng ta đang chi tiêu gấp đôi vào năng lượng sạch so với các cơ sở hạ tầng NLHT sẵn có và khoảng cách này chỉ có thể ngày càng mở rộng. Vì vậy tôi nghĩ nếu chúng ta có thể điều hướng các công ty, ngành công nghiệp NLHT vào làm việc vì một tương lai sạch, nó là rất tuyệt vời. Nhưng chúng ta không nên ảo tưởng rằng nó sẽ tự xảy ra. Việc điều hướng đã từng xảy ra bởi vì các công ty đã nhìn thấy được một tương lai sạch. Vì vậy một sự kết hợp giữa các việc tiếp tục thúc đẩy chính sách ,vận động người dân và phát triển các công nghệ hạn chế NLHT sẽ tạo ra một điều lớn lao, điều hướng các công ty NLHT cổ hủ xây dựng một tương lai sạch.
Tzeporah Berman: We're living the last gasp of the fossil fuel industry, and they're doing everything they can to weaken climate policy and hold on to the market because they know renewables are cheaper. MR: There was a great opportunity to move with all the skills that the fossil fuel industry has built up over the years, convert over to clean energy. That would have been a wonderful moment. If that had happened, things would be very different. We don’t have the time now to get into a long, transition-y kind of discourse, which is what most of them seem to want. They lack the urgency of now in their talk.
Chúng ta đang sống trong những hơi thở cuối cùng của công nghiệp NLHT và họ đang làm mọi thứ có thể để làm suy yếu các chính sách khí hậu và giữ thị trường bởi họ biết năng lượng tái tạo rẻ hơn NLHT. Đã từng có một cơ hội tuyệt vời để tất cả những gì ngành công nghiệp NLHT xây dựng suốt những năm vừa qua được chuyển đồi thành năng lượng sạch. Bây giờ đáng lẽ ra đã rất tuyệt vời. Nếu điều đó xảy ra, mọi chuyện đã khác Chúng ta không có thời gian để tham gia cái mà hầu hết họ đều mong muốn. Họ đang thiếu đi sự khẩn cấp trong lời nói của họ.
DB: As you can see, there's a lot of skepticism about the fossil fuel industry based on its history of deception. Here's well-known climate activist Luisa Neubauer, urging us not to believe everything we hear.
Như bạn có thể thấy, có rất nhiều hoài nghi về ngành công nghiệp NLHT xuất phát từ quá khứ lừa dối của nó. Đây là nhà khí hậu nổi tiếng Lusia Neubauer, kêu gọi chúng ta đừng tin vào mọi thứ ta thấy.
Luisa Neubauer: People, for instance, call the climate crisis manmade. And while there were indeed humans behind it, it's much less manmade and much more fossil-fuel-made. It's made possible by the exploitation of coal, oil and gas and the profit-driven economic systems behind it. Calling the climate crisis manmade implies it's an accident of human nature, whereas it's actually a relatively small group of people and just a few places around the world: the fossil fuel industries, their marketing and their political supporters.
Chẳng hạn, nhiều người cho rằng khủng hoảng khí hậu do con người gây ra Trong khi kể cả con người đứng sau nó, nó được gây ra nhiều hơn bởi ngành công nghiệp NLHT. Nó có thể được gây ra từ việc khai thác than đá, dầu khí và các hoạt động kinh tế thu lợi nhuận từ những gì nó đem lại. Gọi khủng hoảng khí hậu do con người gây ra ngụ ý rằng nó là một tai nạn từ hoạt động sống của con người trong khi nó thực sự đến từ một nhóm nhỏ và chỉ ở một vài nơi trên thế giới : ngành công nghiệp NLHT, hoạt động tiếp thị và những ủng hộ pháp lí cho họ.
The fossil fuel industry itself is also a powerhouse of fairy tales. Fifty years ago, they knew that their business would lead us into a climate disaster. They denied their own climate science that they did themselves, and by that, they stole our very first historic chance to act from us.
Nền công nghiệp NLHT bản thân nó cũng rất quyền lực. 50 năm về trước, họ đã biết rằng hoạt dộng kinh tế của họ sẽ dẫn đến khủng hoảng khí hậu. Họ đã phủ nhận những nghiên cứu khoa học mà họ đã tự làm, và bằng cách đó, họ đã cướp đi cơ hội hành động ngàn vàng đầu tiên của chúng ta.
So now, for many lives, it's already too late. And this time they present themselves as part of the solution. They call it transition. They promise innovation, they speak of green growth. And it sounds wonderful. It is powerful, too. I would like to believe that, too. But I cannot.
Vì vậy bây giờ, qua nhiều thế hệ, nó đã quá muộn. Và bây giờ họ lại thể hiện mình như là một phần của giải pháp. Họ gọi đó là sự chuyển dịch. Họ hứa về một sự đổi mới, họ nói về sự phát triển xanh. Nó nghe thật tuyệt vời. Nó rất mạnh mẽ nữa. Tôi cũng muốn tin vào điêu đó. Nhưng tôi không thể.
We do not have time for any more delay. So whoever tells us that they will just need some more time, does not understand the very basic logic of the crisis we are in. Back in Hamburg, when I was in school, we could get 90 minutes to finish a math exam. The fossil fuel industry is, in a way, taking that very exam right now. But instead of 90 minutes, they tell us they will finish in nine years. Back in school, that attitude would have gotten me failing my assignments.
Chúng ta không có thời gian cho bất kì trì hoãn nào nữa. Vì vậy bất cứ ai nói với ta rằng họ chỉ cần thêm một vài thời gian, đều không hiểu rõ về bản chất của cuộc khủng hoàng mà ta đang gặp phải. Trở lại Hamburg, khi tôi còn đi học, chúng tôi có 90 phút để hoàn thành một bài kiểm tra toán. Ngành công nghiệp NLHT, theo một cách nào đó cũng đang làm bài thi ngay bây giờ. Nhưng thay vì 90 phút, họ nói với chúng ta họ sẽ hoàn thành trong 9 năm. Giống với trường học, thái độ không tốt sẽ gây ra thất bại trong bài kiểm tra.
If fossil fuel industries don't listen when people and science tell them to get out of fossil fuels, they should not be listened to when they tell us more fairy tales about wanting to be part of the solution.
Nếu ngành công nhiệp NLHT không lắng nghe khi mọi người và khoa học bảo họ thoát ra NLHT, họ không nên được lắng nghe, khi họ kể cho chúng ta câu chuyện cổ tích muốn trở thành một phần của giải pháp.
If fossil fuel industries get to make the rules about the transition we so desperately need, we will not get that transition.
Nếu ngành công nghiệp NLHT có cơ hội đưa ra các quy tắc cho cuộc chuyển đổi mà chúng ta rất cần, ta sẽ không tham gia cuộc chuyển đổi này.
LL: The question of whether there should be any new expansion of fossil fuels is hotly contested, and there are passionate points of view on both sides. With a powerful perspective on the injustice of banning fossil fuels in developing countries, here's economist Vijaya Ramachandran.
Câu hỏi liệu rằng có nên có thêm sự bành trướng của NLHT là một cuộc tranh cãi nảy lửa, và có nhiều quan điểm được đưa ra từ cả hai phía. Với quan điểm mạnh mẽ về sự bất công trong việc cấm NLHT ở các nước đang phát triển, đây là nhà kinh tế học Vijaya Ramachandran.
VR: The average Nigerian consumes about 133 kilowatt hours of electricity a year. What the average American consumes in four days. In Nepal, that number is 231 kilowatt hours. In Haiti, it's only 37.
Mức tiêu thụ trung bình của người Nigeria khoảng 133 kWh điện mỗi năm. Tương đương mức tiêu thụ trung bình của người Mĩ trong 4 ngày. Ở Nepal, con số này là 231 kWh. Ở Haiti, nó chỉ là 37.
So what does all of this mean for real people? It means that they might have a few lights at home or a small fan, but no refrigerator, no water heater, no safe cookstove. It means that poor people stay poor.
Điều này thực tế có ý nghĩa gì với mọi người? Nó nghĩa là họ có thể có một ít đèn điện tại nhà hoặc là một cái quạt nhỏ, nhưng không có tủ lạnh, không có máy làm nóng, không có lò bếp an toàn. Nó nghĩa là người nghèo vẫn sẽ còn nghèo.
Now let's look at climate change. Poor people did not create the carbon emissions that have caused climate change. The 64 poorest countries in the world account for less than five percent of annual carbon emissions. Even India, often perceived as a climate villain, adds about seven percent. Poor people are not to blame. Germany's coal plants emit four times more carbon than Pakistan, Uzbekistan, Lao and Bangladesh combined.
Bây giờ hãy nhìn vào sự biến đổi khí hậu. Người nghèo không tạo ra khí thải cacbon thứ đã gây ra biến đổi khí hậu 64 đất nước nghèo nhất thế giới chiếm chưa tới 5% lượng phát thải cacbon hằng năm. Ngay cả Ấn Độ, thường được biết đến như là kẻ thù của khí hậu, chiếm khoảng 7%. Người nghèo không đáng trách. Các nhà máy than ở Đức phát thải cacbon gấp bốn lần Pakistan, Uzbekistan, Lào và Bangladesh cộng lại.
Yes, energy, poverty and climate change are intertwined, but not in the way most people think. Most people think that poor countries need to moderate their energy use to address climate change. The reality for poor people in these countries is that they need a lot more energy to adapt to climate change.
Vâng, năng lượng, nghèo đói và biến đổi khí hậu đang bị đan xen vào nhau nhưng theo một cách mà không ai nghĩ tới. Hầu hết mọi người nghĩ rằng các quốc gia nghèo cần tiết chế việc sử dụng năng lượng nhằm giải quyết biển đổi khí hậu Thực tế người nghèo trong các quốc gia này họ cần nhiều hơn năng lượng để thích nghi với biến đổi khí hậu.
As natural disasters get worse, they will need more concrete and steel to build resilient homes and schools and roads. As temperatures rise, they'll need air conditioning and cold storage for food and medicines. As droughts become more common, they'll need fertilizer, pumped irrigation, desalination. All of these responses to climate change are going to require a lot more energy.
Khi thiên tai trở nên tồi tệ hơn, họ cần nhiều bê tông cốt thép hơn để xây nhà, trường học và những con đường kiên cố. Khi nhiệt độ tăng, họ sẽ cần điều hoà không khí và kho lạnh để chứa lương thực, thuốc men. Khi hạn hán ngày càng phổ biến, họ sẽ cần phân bón, bơm tưới tiêu và khử mặn. Tấ cả những phản ứng chống chọi với biến đổi khí hậu này đều cần nhiều hơn nhu cầu về năng lượng.
So the good news is that we don't need to fear this high-energy future for poor people. All of this energy that they will likely need will come from low-carbon sources to a great extent. The abundance of wind, solar, geothermal and hydropower in Africa and Asia means that a lot of the energy that we are going to see will not likely increase carbon emissions very much.
Vì vậy thông tin tốt là ta không cần lo lắng về nhu cầu năng lượng cao cho người nghèo trong tương lai. Tất cả những năng lượng mà họ có thể cần sẽ đến từ nguồn thải cacbon thấp trong một giới hạn tuyệt vời. Sự phong phú của năng lượng gió, mặt trời, địa nhiệt, thuỷ điện ở châu Á và châu Phi làm cho nhiều năng lượng chúng ta sẽ sử dụng nhiều khả năng sẽ không thải quá nhiều khí thải cacbon
So how can the US and Europe be smarter about ending energy poverty and addressing climate change? First of all, this rich-world hypocrisy of more fossil fuels for me, but not for thee, must end. Governments in poor countries must be able to pursue a range of energy sources. Renewables will likely be the lion's share, but there will be some fossil fuels in the mix. Natural gas, for example, is abundant in Africa. Natural gas has powered the energy transition in the United States. Natural gas can fuel power plants. It is one of the best feedstocks for producing fertilizer, and it is one of the safer and cleaner cooking fuels for women in poor countries. Renewables can be paired with natural gas to increase the share of low-carbon energy sources.
Vì vậy làm sao Mỹ và châu Âu có thể sáng suốt hơn trong việc chấm dứt khủng hoảng năng lượng và giải quyết biến đổi khí hậu? Đầu tiên, tình trạng độc tôn NLHT của những người giàu phải chấm dứt. Chính phủ các nước nghèo đói phải được tiếp cận nhiều nguồn năng lượng khác nhau. Năng lượng tái tạo có thể chiếm phần chủ yếu, nhưng vẫn sẽ có sự kết hợp với NLHT. Ví dụ, khí tự nhiên rất phong phú ở châu Phi. Khí tự nhiên đã cung cấp năng lượng cho quá trình chuyển đổi của Hoa Kì. Khí tự nhiên có thể cung cấp điện cho các nhà máy. Nó là một trong những nguồn nguyên liệu tốt nhất cho sản xuất phân bón và là một nhiên liệu an toàn và sạch trong việc nấu ăn cho phụ nữ ở những quốc gia nghèo đói. Năng lượng tái tạo có thể được kết hợp với khí tự nhiên để tăng thị phần của các nguồn năng lượng phát thải cacbon thấp.
No country, not the US, not the UK, not in Europe, not China, has developed without fossil fuels. The United States has recently passed historically large investments in clean energy, but also in some fossil fuels, taking a very practical approach to its domestic energy transition. The United States and other rich countries should take that same practical approach when it comes to funding energy projects in poor countries. Let's not impose unnecessary and unjust restrictions on those who are least responsible for climate change.
Không một quốc gia nào, từ Mỹ, Anh, châu Âu, Trung Quốc, có thể phát triển mà không cần đến NLHT cả. Hoa Kỳ gần đây đã thông qua một loạt đầu tư lớn chưa có tiền lệ cho năng lượng sạch, và cả NLHT, một cách tiếp cận rất thực tế cho quá trình chuyển đổi năng lượng nội địa. Hoa Kỳ và các quốc gia giàu có khác nên có những tiếp cận thiết thực khi họ tài trợ các dự án năng lượng cho các nước nghèo đói Hãy ngừng áp đặt các hạn chế không cần thiết và bất công lên những người có ít trách nhiệm nhất đối với biến đổi khí hậu.
LL: If the lion's share of new energy production in the developing world will be renewables, a lot of new financing is going to be needed. Here's Rebekah Shirley of the World Resources Institute on why that's not happening yet.
Nếu năng lượng mới chủ yếu trong thế giới đang phát triển là năng lượng tái tạo, dự đình sẽ cần rất nhiều nguồn tài chính mới. Đây là Rebekah Shirley đến từ Viện Tài Nguyên Thế Giới về lí do tại sao điều đó chưa xảy ra.
RS: Africa is perhaps the continent that needs least convincing about the clean energy opportunity for health, livelihoods and economy. As the fastest-growing, yet least electrified continent on the globe, most in need of power systems that can help fortify against the onslaught of climate shocks with both abundant fossil and renewable energy resources to build them, Africa's energy transitions and how to dissuade the use of fossil fuels have become an intense international debate. Many sub-Saharan African countries already rely on low-carbon resources. Kenya, where I live, generates 90 percent of its power from renewables like geothermal and hydropower. Even in West Africa, where renewable shares tend to be lower, countries like Ghana generate over a third of their power from renewable energy resources. And countries like Namibia are at the forefront of innovation on clean fuels like green hydrogen. Couple all of that with housing one of the world's largest carbon sinks, the Congo Basin, and sub-Saharan Africa is consistently recognized as pulling more than its fair share of the global decarbonization effort.
Châu Phi có lẽ là lục địa có ít nghi vấn nhất về cơ hội năng lượng sạch cho y tế, đời sống và kinh tế. Lục địa phát triển nhanh nhất nhưng lại là lục địa có ít hệ thống điện khí hoá nhất, lục địa cần nhất các hệ thống năng lượng có thể hỗ trợ chống lại thay đổi khí hậu với nguồn NLHT và năng lượng tái tạo dồi dào, để xây dụng chúng, chuyển đổi năng lượng ở châu Phi và làm thể nào có thể ngăn cản việc sử dụng NLHT đang trở thành một cuộc tranh cãi mãnh liệt trên toàn cầu. Các quốc gia châu Phi cận Sahara sẵn sàng phụ thuộc nguồn năng lượng cacbon thấp. Kenya, nơi tôi sống, 90% năng lượng được tạo ra từ năng lượng tái tạo như địa nhiệt và thuỷ điện. Thậm chí ở Tây Phi, nơi năng lượng tái tạo có tỉ lệ thấp hơn, các quốc gia như Ghana tạo ra hơn một phần ba năng lượng từ các nguồn năng lượng tái tạo. Và các quốc gia như Namibia đang đi đầu trong việc đổi mới các nhiêu liệu sạch như thuỷ điện xanh. Kết hợp những điều đó với việc là một trong những nơi có bể chứa cacbon lớn nhất lưu vực sông Congo, khu vực cận Sahara được thống nhất công nhận có thể đóng góp nhiều hơn những gì đang có vào nỗ lực khử cacbon toàn cầu.
So if the need is urgent and if the resources are bountiful, then why are we still so far away from this clean-energy future for Africa? And what I've learned is that though the world loves to remind Africa about its vast clean-energy potential, the financial flows to deliver that potential remain troublingly scarce. Projects and businesses incur a number of hidden compounding costs and premiums. Like the risk perception premium. Or the "paying back your US dollar loan in a constantly depreciating local currency" premium. Or the "expected to deliver conventionally high rates of return while raising your revenues from customers that earn less than a dollar a day" premium.
Vậy nếu việc cần làm là cấp bách và nguồn năng lượng tái tạo dồi dào, vậy tại sao tương lai năng lương sạch ở châu Phi vẫn quá xa vời với chúng ta? Và theo những gì tôi được biết mặc dù thế giới thích nhắc nhở châu Phi về tiềm năng năng lượng sạch to lớn của nó, các dòng tài chính để khai thác tiềm năng đó vẫn khan hiếm một cách đang quan ngại. Các dự án và doanh nghiệp bị phát sinh thêm vài chi phí tiềm ẩn và phí bảo hiểm. Như là phí nhận thức rủi ro. Hay là chi phí phát sinh khi “trả khoản vay USD bằng một đồng tiền đang rớt giá liên tục”. Hay là phí ” khi tăng doanh thu từ các khách hàng mà kiếm ít hơn 1 dollar một ngày”.
So international finance markets are not appetized, and financial flows here remain a trickle despite a pipeline of ready projects. In fact, though 17 percent of the global population and almost 90 percent of those still without access to basic energy, today Africa accounts for a mere two percent of global clean-energy finance.
Vì vậy thị trường tài chính quốc tế không được ngon miệng, dòng tài chính đổ về đây còn nhỏ giọt mặc dù các dự án đã sẵn sàng. Trên thực tế, mặc dù 17% dân số thế giới ( châu Phi ) và khoảng 90% trong số đó vẫn chưa được tiếp cận với năng lượng cơ bản, ngày nay châu Phi chỉ chiếm 2% ngân sách năng lượng sạch toàn cầu.
From this perspective, we can see a key missing ingredient: international cooperation to deliver the finance flows that Africa sorely needs. Because there’s so much potential waiting right at the cusp. If local enterprise had access to long-term, low-cost financing, like their counterparts in other regions of the world can simply take for granted, then Africa's clean-energy future would build itself.
Từ góc độ này, chúng ta có thể nhận ra một yếu tố quan trọng bị bỏ quên: sự hợp tác quốc tế nhằm cung cấp các dòng tài chính cần thiết cho châu Phi. Bởi vì có nhiều tiềm năng to lớn đang đợi ta từ sự thay đổi. Nếu các doanh nghiệp địa phương được tiếp cận với nguồn vốn lâu dài, chi phí thấp cũng như các đối tác của họ trên toàn thế giới có thể đơn giản chấp nhận nó, khi đó tương lai năng lượng sạch ở châu Phi sẽ tự hình thành.
HM: A lot of renewables technology already exists. The finance flows, especially to, you know, lower-emission countries don't exist. These are the countries that need to grow and growth needs energy. That energy does not have to come from fossil fuels.
Nhiều công nghệ năng lượng tái tạo đã tồn tại. Các dòng tài chính, đặc biệt, cho các quốc gia có mức phát thải thấp hơn lại không tồn tại. Đó là những quốc gia cần phát triển và tăng trưởng năng lượng thiết yếu. Những năng lượng mà không đến từ NLHT.
CA: We often speak with the acceptance of this tautology that no country has ever developed without the use of fossil fuels. But that's not the whole truth, right? The whole truth is that no country has developed without the use of fossil fuels yet.
Chúng ta thường xuyên phải chấp nhận rằng không có quốc gia nào đã từng phát triển mà không cần đến NLHT. nhưng đó không phải là toàn bộ sự thật, Sự thật chính xác là Chưa có quốc gia nào phát triển mà không cần đến NLHT.
LT: You have to really invest in the future of these low-income countries. And access to energy, really looking at the poorest households in all the region is really an important thing. If not, the transition will always appear very unfair.
Bạn phải đầu tư vào tương lai của các quốc gia thu nhập thấp này. Và về khả năng tiếp cận năng lượng, thực sự quan tâm đến những gia đình nghèo nhất trên toàn khu vực là một hành động quan trọng. Nếu không, sự chuyển đổi sẽ luôn xuất hiện một cách không công bằng.
MR: The World Bank hasn't been doing enough to provide that more concessional finance that brings in private-sector financing and that, you know, really looks at what are the projects that are ready for investment and takes risks because it's really important to have a sense that Africa is part of the clean energy going forward.
Ngân hàng thế giới chưa thực hiện đủ những hành động cung cấp nhiều hơn các ưu đãi tài chính mang đến cho các doanh nghiệp tư nhân và điều đó, bạn biết đấy, phải thực sự xem xét những dự án nào đã sẵn sàng để đầu tư và phải chấp nhận rủi ro bởi vì nó rất là quan trọng để có nhận thức rằng châu Phi là một phần trong hành trình tiến tới năng lượng sạch.
LL: Global finance isn't flowing at scale where it's needed most. How do we change that? Here's Zoë Knight of the HSBC Center for Sustainable Finance to explain two major roles that banks could play.
Các dòng tài chính toàn cầu chưa được đổ về nơi cần đến. Làm sao để ta thay đổi nó ? Đây là Zoë Knight từ trung tâm tài chính bền vững HSBC để lí giải hai vai trò chính các ngân hàng có thể đảm nhận.
ZK: So the most immediate, pressing task that we have is to finance the transition, right? And banks are mission-critical to making that happen. And the reason for that is because we have two very powerful levers. The first is really to take environmental impact into account in the financing decisions that we take, and we're working on that. And the second is to really actively engage with the governments that we finance, the state-owned corporates that we finance and really work through how they can deliver their transition plan.
Vậy việc làm cấp bách nhất mà ta phải làm ngay lúc này là tài trợ cho sự chuyển đổi, đúng không ? và ngân hàng có nhiệm vụ chủ chốt là làm cho việc này được xảy ra. Lí do chính cho điều đó là chúng tôi có hai vai trò rất quyền lực. Điều đầu tiên là phải thực sự quan tâm đến các tác động môi trường qua những quyết định tài chính chúng tôi đem tới, và chúng tôi đang làm điều đó. Và thứ hai, là để thực sự tích cực đồng hành cùng với các chính phủ, tập đoàn nhà nước mà chúng tôi tài trợ và dần dần giải quyết vấn đề làm thế nào họ có thể triển khai kế hoạch chuyển đổi.
So if we think about the next 10 to 15 years, the industrial landscape is going to look very different than it does from today, particularly in the case of energy. And we know that that's taking trillions of investment to make the shift. We need a trillion per year by the end of the decade to have half a semblance of being on track for net zero.
Vì vậy nếu chúng ta nghĩ đến 10 đến 15 năm sau, bối cảnh nền công nghiệp sẽ rất khác so với ngày hôm nay, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng. Và chúng ta biết rằng điều đó đang chiếm hàng nghìn tỷ đầu tư để thực hiện. Chúng ta cần một nghìn tỷ mỗi năm cho đến cuối thập kỉ để hoàn thành nửa chặng đường đến mục tiêu mức phát thải ròng bằng không.
And let me be clear, one of the things that the financial system absolutely has to do is enable a science-aligned phase down of the financing of fossil fuels. We have to do that. But equally, we need to channel the capital that is being generated from the oil and gas industry for good purpose because we need the know-how of the sector and we need to make capital move in a way that's necessary.
Và hãy để tôi làm rõ, một trong những thứ mà hệ thống tài chính tuyệt đối phải làm là cho phép giảm dần hợp lí nguồn tài chính cho NLHT. Chúng ta phải làm điều đó. Nhưng một cách công bằng, chúng ta cần có một nguồn vốn mà nó đến từ ngành nghiệp dầu khí cho mục đích tốt bởi vì chúng ta cần chuyên gia của ngành và chúng ta cần dịch chuyển nguồn vốn theo một cách cần thiết.
So think about this. The International Monetary Fund has just estimated that the Middle East oil and gas companies will generate an incremental 1.3 trillion [dollars] in revenues over the next four years. The banks and financiers can help move that money into renewables in a way that will make us achieve the net-zero ambition much, much faster.
Vì vậy đắn đo về điều đó. Quỹ tiền tệ quốc tế vừa ước tính rằng các quốc gia dầu khí Trung Đông sẽ tạo ra thêm 1.3 nghìn tỷ [đô la] doanh thu trong vòng 4 năm tới. Ngân hàng, các nhà đầu tư có thể giúp đỡ giành số tiền đó cho năng lượng tái tạo nhằm đưa chúng ta tiến tới mục tiêu mức phát thải ròng bằng không nhanh hơn.
DB: In any discussion on this topic, it's easy to get lost in the argument or focus entirely on the end goal. What's also critical is that we need more planning to get us off fossil fuels rapidly and without major disruptions that might undermine confidence in the energy transition itself. Here’s engineer and environmental sociologist Emily Grubert.
Bất kì cuộc thảo luận về chủ đề này, rất dễ bị lạc vào một cuộc tranh cãi hay là việc chỉ tập trung vào kết quả. Một điều cũng rất chủ chốt là ta cần nhiều hơn kế hoạch để thoát khỏi NLHT nhanh chóng và không có gián đoạn nào làm đánh mất niềm tin vào quá trình tự chuyển đổi năng lượng. Đây là kĩ sư, nhà xã hội học môi trường Emily Grubert.
EG: If we succeed at reaching international climate goals, the fossil fuel infrastructure systems that support about 80 percent of global energy consumption will mostly, if not entirely, retire over the next few decades. What I'm talking about is big infrastructure like power plants and refineries, but it's also things like gas stations and people's cars, stoves and furnaces.
Nếu chúng ta thành công đạt được mục tiêu khí hậu toàn cầu, cơ sở hạ tầng NLHT thứ đóng góp 80% vào tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ hầu hết, nếu không hoàn toàn, biến mất trong vài thập kỉ tới. Những gì tôi đang nói là những cơ sở hạ tầng lớn như nhà máy điện, nhà máy lọc dầu, nhưng nó cũng có thể là trạm xăng, ô tô của mọi người, bếp lò và lò nung.
Fossil fuel infrastructure is a complex network of high-hazard industries that need to be able to continue to operate safely until the new system is completely ready to take over, including during emergencies complicated by climate change. Just letting these systems go away would be deeply disruptive and hazardous. We'd expect disproportionate harm to overburdened and underserved communities who can't opt out from skyrocketing prices, abandoned remediation plans and declining access to energy services. This means ongoing fossil expenditures and a reliance on highly-trained workers in industries that might not outlast their careers -- with a simultaneous focus on phasing out these same industries as quickly as possible to address climate change and a host of other environmental injustices.
Cơ sở hạ tầng NLHT là một mạng lưới phức tạp của nền công nghiệp nguy hiểm cao cần có khả năng duy trì vận hành an toàn cho đến khi một hệ thống mới sẵn sàng tiếp quản, kể cả trong những tình huống nguy cấp gây ra bởi biến đổi khí hậu. Chỉ cần để những hệ thống này biến mất sẽ gây nguy hiểm và rắc rối sâu sắc. Ta sẽ dự đoán được các tác hại chủ yếu nhắm đến các cộng động quá tải, đói nghèo những người mà bị dồn vào đường cùng khi giá cả leo thang, các kế hoạch khắc phục bị bỏ rơi và dần dần mất đi cơ hội tiếp xúc với các năng lượng. Nó là chi phí cho các hoá thạch đang diễn ra phụ thuộc các công nhân trình độ cao của các ngành công nghiệp mà có tuổi đời ngắn hơn sự nghiệp của họ -- đồng thời tập trung loại bỏ dần các ngành công nghiệp tương tự càng nhanh càng tốt để giải quyết biển đổi khí hậu và một loạt bất công môi trường khác. Đó là lí do tại sao ta cần có kế hoạch.
This is why we need to plan. And right now, there's basically nowhere in the world where these urgently needed plans for phasing out the fossil system while phasing in the clean energy system exist. When we talk about climate goals, the question I like to ask is: If we actually believed we were going to succeed, what would we need to be doing right now?
Và bây giờ, về cơ bản không có nơi nào trên thế giới có kế hoạch cấp bách cần thiết để giảm dần hệ thống NLHT trong khi năng lượng sạch đang dần hiện hữu. Khi ta nói về mục tiêu khí hậu, câu hỏi tôi muốn hỏi là : Nếu chúng ta thực sự tin tưởng ta đang đi đến thành công, việc cần làm của chúng ta ngay bây giờ là gì ?
One strategy here is to set deadlines for fossil asset retirements. Ample notice, say, a decade, gives communities enough time to create and implement plans, and a legislated end date gives people enough confidence to commit to what can be an intense process. I showed that in the United States, requiring all fossil fuel-fired power generators to close by 2035, which is President Biden's power sector decarbonization target, would actually allow the large majority of them to meet or exceed a typical lifespan, potentially giving communities some confidence that these deadlines are manageable. That is what earns and maintains trust. Not far-off emissions targets with vague implementation plans.
Một chiến lược ở đây là đặt ra thời hạn cho việc thu hồi cơ sở vật chất hoá thạch. Thông báo rộng rãi thời gian, chẳng hạn, một thập kỉ, đủ cho cộng đồng lập và thực hiện các kế hoạch, và một ngày kết thúc hợp pháp đem tới đủ tin tưởng cho mọi người để cam kết về một quá trình mãnh liệt. Tôi chỉ ra điều này ở Hoa Kỳ, yêu cầu tất cả máy phát điện từ việc đốt NLHT sẽ ngừng hoạt động vào năm 2035, là mục tiêu khử cacbon ngành điện của tổng thống Biden, nó thực sự cho phép phần lớn trong số chúng đạt được hay vượt quá tuổi thọ điển hình, và có khả năng mang lại cho cộng đồng niềm tin các mục tiêu có thể được kiểm soát. Đó là những thứ mang lại và duy trì lòng tin. Các mục tiêu phát thải sắp đến hạn được thục hiện với các kế hoạch rất mơ hồ.
The alternative of unplanned transitions is unacceptable but common. Planning the transition is an ethical responsibility that takes time but also creates opportunities to implement a just and sustainable future that corrects the harms of the past. Collaboration and a laser-like focus on ensuring people have what we need to succeed through this transition will be critical, particularly as the transition collides with climate tragedies.
Vòng quay của việc chuyển đổi không có kế hoạch là không thể chấp nhận nhưng phổ biến. Thay đổi có kể hoạch là một trách nhiệm đạo đức rất cần thời gian nhưng đem lại cơ hội để tạo ra một tương lai công bằng và bền vững có thể sửa chữa những lỗi lầm của quá khứ. Hợp tác và một sự tập trung tuyệt đối đảm bảo con người có được những thứ cần thiết trong quá trình chuyển đổi sẽ rất quan trọng, đặc biệt là khi quá trình chuyển đổi đối mặt với các thiên tai.
What would we do now if we believed we'd succeed?
Chúng ta sẽ làm gì bây giờ nếu chúng ta được tin tưởng sẽ thành công?
Manish Bhardwaj: Emily Grubert said something which I'm going to, really sort of, take away, maybe even teach: that plans build trust.
Emily Grubert đã nói những gì tôi dự định, thực sự đưa ra, đem đến, thậm chí giảng dạy: những kế hoạch xây dựng lòng tin.
Promises, you may not believe mine, I might not believe yours, but if we put something down, this is what we are going to do year after year, then I think that can build trust. I think that's just a beautiful thing that I'm carrying away from her.
Hứa ư, bạn có thể không tin tôi, Tôi có thể không tin bạn, nhưng nếu ta cùng hạ sự hoài nghi xuống, việc này chúng ta sẽ làm liên tục, và tôi nghĩ nó sẽ có thể xây dựng lòng tin. Tôi nghĩ đó mới chỉ là một điều tốt đẹp mà tôi nhận được từ cô ấy.
LL: Emily challenged us to act like we're going to succeed. Ramez Naam, a technologist and entrepreneur, believes we have a real shot at it.
Emily thách thức chúng ta hành động như thể ta đang đi đến thành công. Ramez Naam, một nhà công nghệ và doanh nhân, tin rằng chúng ta có cơ hội thật sự.
Renewables are plummeting in price, and there's opportunity to increase their share around the world if we get out of the way of progress. Here's some of his talk.
Năng lượng tái tạo đang rớt giá, và ta sẽ có cơ hội để phổ biến nó trên toàn thế giới nếu ta nhận ra được con đường cải tiến. Đây là những gì anh ấy nói.
RN: Clean energy will win on cost definitively, but only if we get out of the way and allow it to be built. Let's focus on that first point. Let's look at the cost of clean energy technology. In 1975, if you were buying a solar panel per watt of power that it produced, it would cost you 100 US dollars. By 2020, that cost had declined to 20 cents per watt of power. That's a 500-fold decline. This is unlike anything else ever seen in energy. It is unlike anything else ever seen in physical infrastructure. And it continues today, and it is likely to continue for decades to come.
Năng lương sạch sẽ chiến thắng áp đảo trong cuộc đua về giá, nhưng chỉ khi chúng ta tìm ra kế hoạch và cho phép nó được thực hiện. Hãy tập trung vào điều đầu tiên. Hãy nhìn vào chi phí của công nghệ năng lượng sạch. Vào năm 1975, nếu bạn mua một tấm pin mặt trời với mỗi watt điện tạo ra, nó sẽ tiêu tốn của bạn 100 USD. Đến năm 2020, chi phí này đã giảm xuống 20 xu với một watt điện. Nó giảm xuống 500 lần. Điều này chưa từng xuất hiện trong ngành năng lượng. Nó cũng không giống với bất cứ thứ gì từng được thấy trong cơ sở hạ tầng vật chất. và ngày nay nó đang tiếp tục giảm, và nó dường như sẽ tiếp tục trong nhiều thập kỉ tới.
Now, this has surprised the leading experts on clean energy and even the biggest optimists on the future of clean energy. We've seen the cost of batteries that power our electric vehicles and grid energy storage drop at the same pace or faster than the pace of solar. And we are just at the very beginning of an exponential cost decline in the cost of using clean electricity to make hydrogen and other fuels that we can use to power industry, to provide weeks or months of storage on the grid and to provide fuels we can use for aviation, for shipping and so on. Clean energy technologies are technologies, and they drop in cost like technology. As they are scaled, they come down in price. Meanwhile, fossil fuels are commodities, and fossil fuel prices fluctuate over time.
Bây giờ, điều này đã làm bất ngờ các chuyên gia đầu ngành năng lượng sạch và thậm chí cả những người tin tưởng nhất vào tương lai của năng lượng sạch. Chúng tôi đã từng chứng kiến giá của ắc quy cung cấp năng lượng cho xe điện và lưu trữ lưới năng lượng giảm nhanh hơn so với tốc độ giảm của năng lượng mặt trời. Và chúng ta chỉ mới bắt đầu của một cuộc giảm giá theo cấp số mũ các chi phí của việc sử dụng điện sạch để tạo ra nhiên liệu hydro và các nhiên liệu khác mà ta có thể dùng cho công nghiệp năng lượng, để cung cấp hàng tuần, hàng tháng nhằm lưu trữ trên mạng lưới và cung cấp nhiên liệu chúng ta có thể sử dụng trong hàng không, vận chuyển và vân vân. Công nghệ năng lượng sạch là công nghệ, và chúng giảm giá như công nghệ. Bởi vì chúng tương đồng với nhau, chúng giảm giá như nhau Trong khi đó, nhiên liệu hoá thạch là hàng hoá, và giá của chúng dao động theo thời gian.
But there's two barriers I want to talk about in particular, which are the reluctance to build -- not in my backyard -- and the challenges with permitting. Because we look at renewables and a common complaint is they take up too much land. All of us want clean energy infrastructure, but many of us don't want it in our backyard.
Nhưng có hai rào cản tôi muốn nhắc đến cụ thể, đó là sự miễn cưỡng trong xây dựng -- nó không nằm trong lĩnh vực của tôi -- và những thách thức trong việc cấp phép. Khi chúng ta nghiên cứu về năng lượng tái tạo và một lời phàn nàn phổ biến về nó là chúng chiếm quá nhiều diện tích đất. Tất cả chúng ta đều muốn có cơ sở hạ tầng năng lượng sạch, nhưng nhiều người trong chúng ta không muốn đặt chúng trong sân nhà của họ.
In winter you have one-seventh the solar resource in the UK that you have in summer. You have one-sixth the solar resource in Germany that you have in summer. So every model, every simulation of weather and energy demand shows this. It shows that if you want to have the highest reliability grid at the lowest cost with the least carbon emissions and the most clean energy deployment, you want to build a continent-sized grid.
Vào mùa đông ở Hoa Kì bạn có một phần bảy nguồn năng lượng mặt trời mà bạn có vào mùa hè. ở Đức bạn có một phần sáu nguồn năng lượng mặt trời mà bạn có vào mùa đông. Vì vậy mọi mô hình,mô phỏng thời tiết và nhu cầu năng lượng chỉ ra điều này. Nó chỉ ra rằng nếu bạn muốn sỡ hữu mạng lưới đáng tin cậy nhất với chi phí thấp nhất với lượng phát thải cacbon ít nhất và sử dụng nguồn năng lượng sạch nhất, bạn cần xây dựng một mạng lưới mang tầm lục địa.
In China, the bulk of energy demand is on the East Coast, yet the greatest solar resources and wind resources are in the interior. And China is building literally scores of high-voltage power lines that transmit power from where the sun and wind are to the coasts, where the energy demand is. And the longest of these lines right now, that Ürümqi to Shanghai line, is 3,400 kilometers long. It is 90 percent efficient, very low losses, and it adds maybe a penny or two to the cost of electricity. That's what's technically feasible with current technology, let alone advances.
Ở Trung Quốc, nhu cầu năng lượng lớn tập trung chủ yếu ở bờ biển phía Đông, nhưng nguồn năng lượng mặt trời và gió lớn nhất lại nằm sâu trong lục địa. và Trung Quốc đang xây dựng hệ thống đường dây cao thế nhằm truyền tải điện từ nơi có ánh nắng mặt trời và gió đến miền duyên hải, nơi có nhu cầu năng lượng cao. và đường dây dài nhất tính đến hiện tại, xuất phát từ Ô Lỗ Mộc Tề đến Thượng Hải, dài khoảng 3400 km. Nó có hiệu suất là 90%, hao phí rất thấp, và nó có thể thêm một hoặc hai xu vào tiền điện. Về mặt kĩ thuật đó là những gì khả thi với công nghệ hiện tại, chưa kể đến cải tiến tương lai.
In Europe, that would allow us to transmit electricity from Seville to Copenhagen. To bring power from the North Sea to anywhere in the continent that needs it. In my home country, the United States, we could bring power from the sunny, wide open areas of New Mexico to population and land-dense New York, which doesn't get so much sun. And we could take wind power from the Great Plains, that are largely devoid of population, and bring it to the coasts in winter.
Ở châu Âu, điều đó có thể cho phép chúng ta truyền tải điện từ Sevilla đến Copenhagen. Để mang điện từ Biển Bắc đến bất kì nơi đâu trên lục địa cần đến nó. Ở quê hương tôi, Hoa Kì, chúng tôi đã có thể mang điện từ nơi có nắng, New Mexio và khu vực lân cận đến vùng đông đúc, chật chội New York, nơi không nhận được nhiều ánh nắng. và chúng tôi đã có thể nhận năng lượng gió từ Đại Bình nguyên Bắc Mỹ, nơi phần lớn không có dân cư, và mang nó đến vùng ven biển vào mùa Đông.
That is what a modern grid looks like. And yet we are not building this. It is time for us to build.
Một mạng lưới điện hiện đại sẽ trông như thế. và đến bây giờ chúng ta vẫn chưa xây dựng nó. Đây là thời gian cho chúng ta để xây dựng.
DB: With technology advancing as fast as it is, there’s certainly hope that we can meet our energy transition goals, and there are ways to ensure that everyone benefits in this transition.
Với tốc độ phát triển công nghệ nhanh chóng như hiện tại, Có một niềm tin chắc rằng ta có thể đạt được mục tiêu chuyển đổi năng lượng, và có nhiều cách đảm bảo rằng ai cũng có lợi từ quá trình chuyển đổi này.
But it's going to be challenging.
Nhưng nó sẽ là một thách thức.
LL: There's no shortage of ideas, but time is running out, making it all the more critical to collaborate with urgency and resolve this fundamental dilemma. Here, again, are some leading voices on how we get there.
Chúng ta không thiếu ý tưởng, nhưng thời gian có hạn, làm cho nó trở nên quan trọng hơn để khẩn trương thúc đẩy hợp tác và giải quyết vấn đề nan giải cơ bản này. Đây, một lần nữa, những ý kiến đầu ngành về cách thực hiện.
MR: We all need to do three things. We need to make the climate crisis very personal in our lives, change our habits a bit as a result. Secondly, we need to get angry about those who aren't doing enough. And thirdly, we need to imagine this world that is round the corner.
Tất cả chúng ta cần làm ba thứ. Chúng ta cần làm cho thiên tai trở nên nhỏ bé trong cuộc sống, nhằm thay đổi thói quen của chúng ta. Thứ hai, chúng ta cần lên án với những ai chưa có đủ hành động. Và thứ ba, chúng ta cần suy nghĩ đến viễn cảnh một thế giới như vậy đang cận kề.
ZK: Every year I can see more focus from different actors that are needed to be part of the solution.
Hằng năm tôi có thể nhận thấy nhiều hơn sự chú ý từ các diễn viên mà cần được xem như một phần của giải pháp.
LT: Renewable energy is a good business in many places.
Ở nhiều nơi năng lượng tái tạo được xem là một công việc kinh doanh tốt.
HM: There is a strong business case for it. It makes investment sense.
Có một đề án kinh doanh lớn cho nó. Nó làm cho việc đầu tư có ý nghĩa.
HL: China is adding an astonishing amount of wind and solar to its grid every year.
Trung Quốc đang bổ sung một số lượng kinh ngạc gió, mặt trời vào mạng lưới hằng năm.
RN: It's cheaper to build a new solar or wind farm than it is to put fuel into a natural gas plant or a coal plant.
Nó thì rẻ hơn để xây dựng một cánh đồng gió hay pin mặt trời so với việc tiêu tốn nhiên liệu cho các nhà máy khí đốt hay là than đá.
TB: Our job has to be to make sure that politicians know that they're going to have the support that they need for the hard policies.
Công việc của chúng ta là phải chắc chắn rằng các chính trị gia biết rằng họ sẽ có những sự ủng hộ mà họ cần cho những chính sách khó khăn.
LN: We need people to get on board in a fight for climate justice. And this means getting people on board that have never spoken to each other before and that have always disagreed. MB: Even at this conference, you will meet people and you expect them to have very particular sort of, polar stance. But when you actually get into a conversation, you see the openings.
Chúng ta cần mọi người sẵn sàng cho một cuộc chiến vì cân bằng khí hậu. Và nó như thể đưa mọi người vào cuộc chiến mà trước đây chưa bao giờ đề cập rộng rãi và luôn luôn nhận về sự phản đối. Trong cuộc thảo luận, bạn sẽ gặp gỡ nhiều người và sẽ nghĩ rằng họ có những quan điểm cực đoan và cá biệt. Nhưng khi bạn thật sự đắm chìm vào cuộc thảo luận, bạn sẽ thấy được sự cởi mở.
CA: I love listening to people with different points of view. Dialogue is absolutely essential and so generative. But once we leave the safe space of this conversation, we go back out into a world that is rife with power dynamics and institutionalized, structural inequities. And we have to just acknowledge that fact.
Tôi thích được nghe các quan điểm khác nhau từ mọi người. Cuộc thảo luận thật sự rất cần thiết và thông dụng. Nhưng mỗi khi ta rời khỏi vùng an toàn của cuộc hội thoại, chúng ta sẽ quay trở lại với một thế giới đầy rẫy lạm quyền, thể chế hoá và bất bình đẳng xã hội. Và chúng ta phải thừa nhận sự thật đó.
RN: So I think it's not a bad thing to listen and then apply your own judgment to what you've heard. And is it self-serving or not, and what nuggets of truth or what pieces of data are there?
Vì vậy tôi nghĩ nó không phải điều xấu khi lắng nghe và sau đó áp dụng những kiến thức tiếp thu được. Và có phải vì mục đích trục lợi, và đâu là sự thật hay những dữ liệu ta có là gì?
MB: What we don't want to lose is that ultimately there are people at the heart of systems. And systems change will sometimes fail just because two folks cannot get along with each other.
Thứ chúng ta không muốn đánh mất chính là những người ở lại cuối cùng với trung tâm của hệ thống. Và đôi lúc quá trình thay đổi hệ thống thất bại chỉ vì hai người nào đó không thể hoà hợp được với nhau.
Jade Begay: I think we overlook relationship building as kind of cheesy or corny, but ask any person who’s built change over time, and it happens through relationships.
Tôi nghĩ chúng ta xem việc xây dựng mối quan hệ như một trò đùa lỗi thời, nhưng khi hỏi bất kì ai đang từng ngày thay đổi, đều được trả lời rằng sự thay đổi nó xuất phát từ các mối quan hệ của họ.
MR: I was very affected, as were the other women leaders, when Jade said, "In our tribe in New Mexico, we say, 'What if our best times are still ahead of us?'"
Tôi đã rất xúc động, cũng như các nữ lãnh đạo khác, khi Jade nói, “Trong các bộ lạc ở New Mexico, chúng tôi nói, “Ta sẽ làm gì nếu thời điểm tốt nhất đang ở trước mắt ta?”
Our best times are still ahead of us. But so are our worst times. We have that choice. And of course, we have to choose our best times and we have to know how difficult it is. And yet, Nelson Mandela famously said "it always seems impossible until it is done." And I love that phrase.
Thời điểm tốt nhất vẫn đang ở trước mắt ta. Nhưng thời điểm xấu nhất cũng vậy. Chúng ta phải lựa chọn. Và đương nhiên, chúng ta phải chọn thời điểm tốt nhất và phải biết nó khó như thế nào. Nhưng, Nelson Mandela đã từng có câu nói nổi tiếng “Mọi việc luôn có vẻ là không thể cho đến khi bạn làm được.” Và tôi thích câu nói đó.