This is Shivdutt Yadav, and he's from Uttar Pradesh, India. Now Shivdutt was visiting the local land registry office in Uttar Pradesh, and he discovered that official records were listing him as dead. His land was no longer registered in his name. His brothers, Chandrabhan and Phoolchand, were also listed as dead.
Đây là Shivdutt Yadav, ông ấy đến từ Uttar Pradesh, Ấn Độ. Khi Shivdutt đến Cơ quan đăng ký nhà đất địa phương ở Uttar Pradesh, ông đã phát hiện rằng mình đã bị liệt vào danh sách "Đã chết" Đất đai không còn được đứng tên của ông. Hai người em trai của ông, Chandrabhan và Phoolchand, cũng bị liệt vào danh sách "Đã chết".
Family members had bribed officials to interrupt the hereditary transfer of land by having the brothers declared dead, allowing them to inherit their father's share of the ancestral farmland. Because of this, all three brothers and their families had to vacate their home. According to the Yadav family, the local court has been scheduling a case review since 2001, but a judge has never appeared.
Gia đình đã hối lộ quan chức để can thiệp vào quyền thừa kế đất đai bằng cách báo tử các anh em trong nhà. để họ được thừa kế phần chia đất trồng của tổ tiên từ cha mình. Vì chuyện này mà cả ba người anh em và gia đình của họ phải rời bỏ ngôi nhà của mình. Theo gia đình Yadav, tòa án địa phương đã dự định tái xét xử vụ án từ năm 2001, nhưng thẩm phán không bao giờ có mặt.
There are several instances in Uttar Pradesh of people dying before their case is given a proper review. Shivdutt's father's death and a want for his property led to this corruption. He was laid to rest in the Ganges River, where the dead are cremated along the banks of the river or tied to heavy stones and sunk in the water.
Cũng đã có nhiều trường hợp ở Uttar Pradesh mà nhiều người đã chết trước khi hồ sơ của họ được xem xét kĩ càng. Việc cha Shivdutt chết và con ông thèm muốn tài sản của cha mình đã dẫn đến sự mục nát này. Ông đã yên nghỉ ở sông Ganges, nơi người chết được hỏa táng dọc bờ sông hoặc được buộc vào những hòn đá nặng và hạ xuống dưới nước.
Photographing these brothers was a disorienting exchange because on paper they don't exist, and a photograph is so often used as an evidence of life. Yet, these men remain dead. This quandary led to the title of the project, which considers in many ways that we are all the living dead and that we in some ways represent ghosts of the past and the future.
Việc chụp ảnh ba người anh em này có thể gây ra nhầm lẫn vì trên giấy tờ họ đã chết mà hình ảnh lại thường được dùng làm chứng cứ cho việc còn sống. Tuy nhiên, những người đàn ông này vẫn bị coi là đã chết. Tình thế này đã tạo nên tựa đề của dự án xem xét trên nhiều khía cạnh rằng chúng ta là những người chết còn sống và ở vài phương diện chúng ta đại diện cho những bóng ma từ quá khứ và tương lai.
So this story is the first of 18 chapters in my new body of work titled "A Living Man Declared Dead and Other Chapters." And for this work, I traveled around the world over a four-year period researching and recording bloodlines and their related stories. I was interested in ideas surrounding fate and whether our fate is determined by blood, chance or circumstance. The subjects I documented ranged from feuding families in Brazil to victims of genocide in Bosnia to the first woman to hijack an airplane and the living dead in India. In each chapter, you can see the external forces of governance, power and territory or religion colliding with the internal forces of psychological and physical inheritance.
Câu chuyện này là chương đầu trong 18 chương nằm trong tác phẩm mới của tôi có tên "Người sống bị báo tử và những chuyện khác". Để làm nên tác phẩm này, tôi đã đi vòng quanh thế giới trong 4 năm để tìm kiếm và ghi chép lại những câu chuyện về huyết thống và những câu chuyện xung quanh đó. Tôi rất hứng thú với các ý niệm xoay quanh số mệnh và liệu nó có được định đoạt bởi huyết thống, sự ngẫu nhiên hay xảy ra tùy trường hợp. Những đối tượng mà tôi dẫn chứng gồm các gia đình hận thù ở Brazil tới những nạn nhân diệt chủng ở Bosnia tới nữ không tặc đầu tiên và những người bị tuyên bố chết ở Ấn Độ. Ở mỗi chương, bạn có thể thấy những tác động bên ngoài của sự cai trị, quyền lực, lãnh thổ hay tôn giáo xung đột với những tác động từ bên trong như sự kế thừa về tinh thần và thể xác.
Each work that I make is comprised of three segments. On the left are one or more portrait panels in which I systematically order the members of a given bloodline. This is followed by a text panel, it's designed in scroll form, in which I construct the narrative at stake. And then on the right is what I refer to as a footnote panel. It's a space that's more intuitive in which I present fragments of the story, beginnings of other stories, photographic evidence. And it's meant to kind of reflect how we engage with histories or stories on the Internet, in a less linear form. So it's more disordered. And this disorder is in direct contrast to the unalterable order of a bloodline.
Mỗi trường hợp bao gồm ba phần. Ở bên trái là một hay nhiều bức chân dung mà tôi đã sắp xếp một cách hệ thống các thành viên cùng một huyết thống. Kế đó là bảng văn bản thiết kế theo dạng cuộn trong đó tôi xây dựng một câu chuyện tường thuật lâm nguy. Và ở bên phải là bảng chú thích. Đây là đoạn có phần trực giác hơn vì ở đây tôi kể những mẩu chuyện, mở đầu các câu chuyện khác, chứng cứ hình ảnh. Việc này cũng để phản ánh cách ta kết nối với lịch sử hay những câu chuyện trên mạng ở một dạng ít tuyến tính hơn. Nên nó có vẻ khá lộn xộn. Và sự lộn xộn này lại trái ngược với tính nhất quán của một huyết thống
In my past projects I've often worked in serial form, documenting things that have the appearance of being comprehensive through a determined title and a determined presentation, but in fact, are fairly abstract. In this project I wanted to work in the opposite direction and find an absolute catalog, something that I couldn't interrupt, curate or edit by choice. This led me to blood. A bloodline is determined and ordered. But the project centers on the collision of order and disorder -- the order of blood butting up against the disorder represented in the often chaotic and violent stories that are the subjects of my chapters.
Trong những dự án trước đây, tôi hay nghiên cứu theo từng chuỗi dữ kiện ghi chú lại những điều mà nhìn có vẻ toàn diện bằng một tiêu đề và bài trình bày xác định nhưng thật sự thì chúng khá là trừu tượng. Trong dự án này, tôi muốn nghiên cứu theo hướng ngược lại và tìm kiếm một hình thức tuyệt đối một thứ gì đó mà tôi sẽ không thể cắt ngang hay sửa đổi Điều này hướng tôi đến huyết thống. Một huyến thống xác định và có trật tự. Nhưng dự án này lại gặp phải sự xung đột giữa trật tự và phi trật tự -- trật tự của huyết thống đối lập với phi trật tự trong các câu chuyện hỗn loạn và bạo lực đó là chủ đề của cuốn sách của tôi.
In chapter two, I photograph the descendants of Arthur Ruppin. He was sent in 1907 to Palestine by the Zionist organization to look at areas for Jewish settlement and acquire land for Jewish settlement. He oversaw land acquisition on behalf of the Palestine Land Development Company whose work led to the establishment of a Jewish state. Through my research at the Zionist Archives in Jerusalem, I wanted to look at the early paperwork of the establishment of the Jewish state. And I found these maps which you see here. And these are studies commissioned by the Zionist organization for alternative areas for Jewish settlement. In this, I was interested in the consequences of geography and imagining how the world would be different if Israel were in Uganda, which is what these maps demonstrate. These archives in Jerusalem, they maintain a card index file of the earliest immigrants and applicants for immigration to Palestine, and later Israel, from 1919 to 1965.
Ở chương 2, tôi chụp ảnh hậu duệ của Arthur Ruppin. Ông ấy được tổ chức phục quốc Do Thái cử đến Palestine năm 1907 để tìm chỗ định cư cho người Do Thái và giành đất định cư cho người Do Thái. Ông ấy giám sát việc giành đất thay mặt Cty Phát triển Đất đai Palestine, nhờ đó mà dẫn đến sự thành lập của nước Do Thái. Thông qua nghiên cứu tại Zionist Archive ở Jerusalem, tôi muốn xem các tài liệu trước đây về sự thành lập của nước Do Thái. Và tôi đã tìm thấy những bản đồ này. Đây là những nghiên cứu do tổ chức Do Thái Phục Quốc thực hiện để tìm đất mới cho người Do Thái định cư. Ở đây, tôi rất thích với những kết quả về địa lý và tưởng tượng thế giới sẽ khác thế nào nếu Israel ở Uganda, theo như những bản đồ ở đây. Những tài liệu ở Jerusalem, chúng vẫn lưu lại một danh mục người di cư sớm nhất và những người xin di cư đến Palestine, và sau đó là Israel, từ năm 1919 đến 1965.
Chapter three: Joseph Nyamwanda Jura Ondijo treated patients outside of Kisumu, Kenya for AIDS, tuberculosis, infertility, mental illness, evil spirits. He's most often paid for his services in cash, cows or goats. But sometimes when his female patients can't afford his services, their families give the women to Jura in exchange for medical treatment. As a result of these transactions, Jura has nine wives, 32 children and 63 grandchildren. In his bloodline you see the children and grandchildren here.
Chương ba: Joseph Nyamwanda Jura Ondijo chữa bệnh bên ngoài Kisumu, Kenya cho người bị AIDS, lao, vô sinh, tâm thần, quỷ ám. Ông thường được trả công bằng tiền mặt, bò hoặc dê. Nhưng đôi khi có bệnh nhân nữ không có tiền khám bệnh, nhà họ sẽ gán người nữ đó cho Jura để trừ vào tiền chữa trị. Từ những lần trao đổi này, Jura có chín bà vợ, 32 đứa con và 63 đứa cháu. Nhìn gia phả các bạn sẽ thấy con cái và cháu chắt của ông.
Two of his wives were brought to him suffering from infertility and he cured them, three for evil spirits, one for an asthmatic condition and severe chest pain and two wives Ondijo claims he took for love, paying their families a total of 16 cows. One wife deserted him and another passed away during treatment for evil spirits. Polygamy is widely practiced in Kenya. It's common among a privileged class capable of paying numerous dowries and keeping multiple homes. Instances of prominent social and political figures in polygamous relationships has led to the perception of polygamy as a symbol of wealth, status and power.
Hai bà vợ khi đưa đến chỗ ông mắc bệnh vô sinh và ông ấy đã chữa trị cho họ, có ba người bị trúng tà, một người mắc bệnh hen và đau ngực dữ dội và hai người Ondijo nói ông lấy vì yêu, ông trả cho nhà họ tổng cộng 16 con bò. Một bà vợ bỏ ông ta đi và một bà khác qua đời khi đang chữa quỷ ám. Chế độ đa thê tồn tại rộng rãi ở Kenya. Điều đó là phổ biến trong tầng lớp thượng lưu có khả năng chi trả một số lượng lớn lễ vật cưới và gìn giữ gia đình có nhiều thế hệ. Chẳng hạn như các nhân vật chính trị và xã hội nổi bật trong những mối quan hệ đa thê dẫn đến quan điểm về đa thê giống như một biểu tượng cho sự giàu có, vị thế và quyền lực.
You may notice in several of the chapters that I photographed there are empty portraits. These empty portraits represent individuals, living individuals, who couldn't be present. And the reasons for their absence are given in my text panel. They include dengue fever, imprisonment, army service, women not allowed to be photographed for religious and cultural reasons. And in this particular chapter, it's children whose mothers wouldn't allow them to travel to the photographic shoot for fear that their fathers would kidnap them during it.
Có thể bạn để ý trong nhiều chương rằng tôi đã chụp những bức chân dung trống rỗng. Những bức chân dung trống này đại diện cho các cá nhân, những cá nhân đang sống, nhưng không thể lộ diện. Và lý do cho sự vắng mặt của họ được chú thích trong bản chữ. Chúng bao gồm bệnh sốt xuất huyết, án tù, phục vụ quân đội, phụ nữ không được phép chụp ảnh vì lý do tôn giáo và văn hóa. Và trong chương cụ thể này, Đó là những đứa trẻ mà mẹ của chúng không cho chúng đến buổi chụp ảnh vì sợ rằng cha chúng sẽ bắt cóc chúng đi trong lúc đó.
Twenty-four European rabbits were brought to Australia in 1859 by a British settler for sporting purposes, for hunting. And within a hundred years, that population of 24 had exploded to half a billion. The European rabbit has no natural predators in Australia, and it competes with native wildlife and damages native plants and degrades the land. Since the 1950s, Australia has been introducing lethal diseases into the wild rabbit population to control growth. These rabbits were bred at a government facility, Biosecurity Queensland, where they bred three bloodlines of rabbits and have infected them with a lethal disease and are monitoring their progress to see if it will effectively kill them. So they're testing its virulence. During the course of this trial, all of the rabbits died, except for a few, which were euthanized.
24 con thỏ Châu Âu được mang đến Úc vào năm 1859 bởi một người Anh vì mục đích thể thao, săn bắn. Và trong vòng 100 năm, với quần thể 24 con đã tăng vọt lên nửa tỷ. Thỏ Châu Âu không có bản năng ăn thịt tự nhiên tại Úc, và điều đó đối lập với động vật hoang dã bản xứ. và gây thiệt hại cho thực vật bản xứ và làm suy thoái đất đai. Kế từ thập niên 1950, Úc áp dụng các bệnh nguy hiểm lên số lượng thỏ hoang dã để kiểm soát sự tăng trưởng. Những con thỏ này được nuôi tại một trang trại của chính phủ, Cục An toàn sinh học Queensland, nơi mà họ nuôi 3 loài thỏ và tiêm vào nó các mầm bệnh giám sát tiến trình phát triển của nó để xem các mần bệnh đó có giết được nó không. Vậy là họ đang kiểm tra tính độc hại của nó. Trong quá trình thử nghiệm này, tất cả thỏ đều chết trừ một số ít bị giết chết.
Haigh's Chocolate, in collaboration with the Foundation for Rabbit-Free Australia, stopped all production of the Easter Bunny in chocolate and has replaced it with the Easter Bilby. Now this was done to counter the annual celebration of rabbits and presumably make the public more comfortable with the killing of rabbits and promote an animal that's native to Australia, and actually an animal that is threatened by the European rabbit.
Haigh's Chocolate hợp tác với Hội Giải cứu thỏ Úc dừng mọi việc sản xuất chocolate thỏ phục sinh và thay thế bằng Bilby Phục Sinh. Chuyện này được thực hiện để chống lại lễ kỉ niệm hằng năm với loài thỏ và làm cho công chúng cảm thấy thoải mái hơn với việc giết thỏ và bảo vệ những loài thú bản địa của châu Úc, và thực ra bảo vệ loài thú bị đe dọa bởi loài thỏ châu Âu.
In chapter seven, I focus on the effects of a genocidal act on one bloodline. So over a two-day period, six individuals from this bloodline were killed in the Srebrenica massacre. This is the only work in which I visually represent the dead. But I only represent those that were killed in the Srebrenica massacre, which is recorded as the largest mass murder in Europe since the Second World War. And during this massacre, 8,000 Bosnian Muslim men and boys were systematically executed.
Ở chương 7, tôi tập trung vào hậu quả của nạn diệt chủng lên 1 dòng huyết thống. Trong suốt khoảng thời gian 2 ngày, 6 người của dòng họ này bị thiệt mạng trong vụ thảm sát Srebrenica. Đây là chương duy nhất tôi miêu tả trực tiếp cái chết. Nhưng tôi chỉ miêu tả những người chết trong vụ thảm sát Srebrenia, được ghi nhận là vụ giết người rúng động nhất tại châu Âu kể từ Thế chiến thứ hai. Và trong cuộc thảm sát này, 8000 người đàn ông và trẻ em trai Bosnia theo đạo Hồi bị hành quyết.
So when you look at a detail of this work, you can see, the man on the upper-left is the father of the woman sitting next to him. Her name is Zumra. She is followed by her four children, all of whom were killed in the Srebrenica massacre. Following those four children is Zumra's younger sister who is then followed by her children who were killed as well. During the time I was in Bosnia, the mortal remains of Zumra's eldest son were exhumed from a mass grave. And I was therefore able to photograph the fully assembled remains. However, the other individuals are represented by these blue slides, which show tooth and bone samples that were matched to DNA evidence collected from family members to prove they were the identities of those individuals. They've all been given a proper burial, so what remains are these blue slides at the International Commission for Missing Persons.
Khi bạn nhìn vào chi tiết của chương này, bạn có thể thấy, người đàn ông ở góc trái phía trên là cha của người phụ nữ ngồi kế bên ông ta. Cô ấy tên là Zumra. Cô ấy có 4 đứa con, cả 4 đứa đều bị giết trong cuộc thảm sát Srebrenia. Kế bên 4 đứa trẻ này là em gái của Zumra kế tiếp nữa là con của cô ấy cũng bị giết. Trong khoảng thời gian tôi ở Bosnia, phần mộ còn lại của con trai cả Zumra được khai quật từ một ngôi mộ tập thể. Và tôi cũng có mặt lúc ấy để chụp được toàn bộ quá trình sắp xếp những mảnh vụn còn sót lại. Tuy nhiên, những thi thể khác được trình bày ở đây dưới dạng những khung xanh dương có mẫu răng và mẫu xương trùng với chứng cứ DNA được thu thập từ người thân trong gia đình để họ có thể xác nhận thân phận của những người này. Họ đều được mai táng nên những gì còn sót lại là những khung xanh dương tại Ủy ban quốc tế của những người mất tích.
These are personal effects dug up from a mass grave that are awaiting identification from family members and graffiti at the Potochari battery factory, which was where the Dutch U.N. soldiers were staying, and also the Serbian soldiers later during the times of the executions. This is video footage used at the Milosevic trial, which from top to bottom shows a Serbian scorpion unit being blessed by an Orthodox priest before rounding up the boys and men and killing them.
Đây là những tài sản cá nhân, đào lên từ một ngôi mộ tập thể đang chờ để nhận dạng với người thân trong gia đình và những tranh graffity tại nhà máy năng lượng Potochari nơi mà lính Liên hiệp quốc Hà Lan đóng quân và sau đó là lính Serbia trong khoảng thời gian xảy ra cuộc hành quyết. Đây là một đoạn video được sử dụng tại phiên toà Milosevic từ đầu tới cuối cho thấy một đơn vị lính bọ cạp Serbia đang được ban phước bởi một linh mục Chính thống giáo trước khi trói những người đàn ông và trẻ em trai và giết họ.
Chapter 15 is more of a performance piece. I solicited China's State Council Information Office in 2009 to select a multi-generational bloodline to represent China for this project. They chose a large family from Beijing for its size, and they declined to give me any further reasoning for their choice. This is one of the rare situations where I have no empty portraits. Everyone showed up. You can also see the evolution of the one-child-only policy as it travels through the bloodline.
Chương 15 thiên về trình bày hơn. Tôi nài xin Văn phòng thông tin Hội đồng Nhà nước Trung Quốc vào năm 2009 để chọn ra một huyết thống nhiều hế hệ để đại diện cho Trung Quốc trong dự án này. Họ chọn một đại gia đình từ Bắc Kinh vì độ lớn của nó, và họ từ chối đưa cho tôi lí do cho sự lựa chọn của họ. Đây là một trong những trường hợp hiếm có vì tôi không thiếu bất cứ chân dung nào của đại gia đình trên. Ai cũng có mặt. Bạn có thể thấy sự phát triển của chính sách một con duy nhất theo từ đời này qua đời khác trong dòng họ.
Previously known as the Department of Foreign Propaganda, the State Council Information Office is responsible for all of China's external publicity operations. It controls all foreign media and image production outside of China from foreign media working within China. It also monitors the Internet and instructs local media on how to handle any potentially controversial issues, including Tibet, ethnic minorities, Human Rights, religion, democracy movements and terrorism. For the footnote panel in this work, this office instructed me to photograph their central television tower in Beijing. And I also photographed the gift bag they gave me when I left.
Được biết đến trước đó với tên Bộ Ngoại giao Tuyên truyền Văn phòng Thông tin Nhà nước chịu trách nhiệm cho toàn bộ phát ngôn ngoại giao của Trung Quốc. Nó kiểm soát toàn bộ phương tiện truyền thông nước ngoài và phim ảnh được sản xuất bên ngoài Trung Quốc khỏi những công ty truyền thông của nước ngoài làm việc tại Trung Quốc. Nó còn kiểm soát Internet và thúc đẩy truyền thông trong nước làm cách nào để xử lý bất kì vấn đề nào gây tranh cãi, có thể kể đến Tây Tạng, dân tộc thiểu số, nhân quyền, tôn giáo phong trào dân chủ và khủng bố. Với việc ghi chú thích cho chương này, văn phòng này hướng tôi chụp ảnh tháp truyền hình Bắc Kinh. Và tôi cũng chụp lại túi quà họ tặng tôi khi tôi rời khỏi đó.
These are the descendants of Hans Frank who was Hitler's personal legal advisor and governor general of occupied Poland. Now this bloodline includes numerous empty portraits, highlighting a complex relationship to one's family history. The reasons for these absences include people who declined participation. There's also parents who participated who wouldn't let their children participate because they thought they were too young to decide for themselves. Another section of the family presented their clothing, as opposed to their physical presence, because they didn't want to be identified with the past that I was highlighting. And finally, another individual sat for me from behind and later rescinded his participation, so I had to pixelate him out so he's unrecognizable.
Đây là hậu duệ của Hans Frank cố vấn pháp lý riêng của Hitler và Toàn quyền Ba Lan. Dòng họ này có rất nhiều chỗ trống tô đậm lên mối quan hệ phức tạp của lịch sử một gia đình. Những lí do cho sự vắng mặt này bao gồm những người từ chối tham gia. Cũng có những bậc cha mẹ tham gia nhưng lại không cho con cái mình tham gia bởi vì họ nghĩ con cái họ còn quá nhỏ để có thể tự ra quyết định. Một phần khác của gia đình hiện diện qua trang phục của họ thay vì cả cơ thể bởi vì họ không muốn bị nhận ra với quá khứ mà tôi đang tô đậm lên. Và cuối cùng, một người khác đến tham gia và ngồi xoay lưng lại với tôi nhưng sau đó lại hủy, nên tôi phải làm mờ anh ấy để anh ấy không bị nhận ra
In the footnote panel that accompanies this work I photographed an official Adolph Hitler postage stamp and an imitation of that stamp produced by British Intelligence with Hans Frank's image on it. It was released in Poland to create friction between Frank and Hitler, so that Hitler would imagine Frank was trying to usurp his power.
Trong bản chú thích đi kèm tôi chụp một con tem bưu chính chính thức của Adolph Hitler và một tem giả được sản xuất bởi Tình báo Anh có hình của Hans Frank. Nó được phát hành ở Ba Lan để tạo nên sự so sánh giữa Frank và Hitler, làm Hitler tưởng rằng Frank đang cố xây dựng thế lực của riêng mình.
Again, talking about fate, I was interested in the stories and fate of particular works of art. These paintings were taken by Hans Frank during the time of the Third Reich. And I'm interested in the impact of their absence and presence through time. They are Leonardo da Vinci's "Lady With an Ermine," Rembrandt's "Landscape With Good Samaritan" and Raphael's "Portrait of a Youth," which has never been found.
Lại một lần nữa, nói tới số phận, tôi bị thu hút bởi những câu chuyện và số phận của những công trình nghệ thuật. Những bức tranh này được vẽ bởi Hans Frank trong khoảng thời gian của Đế chế thứ ba. Và tôi bị thu hút bởi sự tác động của việc vắng mặt hay có mặt của họ trong thời đó. Đây là bức tranh "Lady with an Ermine" - Leonardo da Vinci "Landscape with good Samaritan" - Rembrandt và "Portrait of a Youth" - Raphael, những bức tranh này chưa bao giờ được tìm thấy.
Chapter 12 highlights people being born into a battle that is not of their making, but becomes their own. So this is the Ferraz family and the Novaes family. And they are in an active blood feud. This feud has been going on since 1991 in Northeast Brazil in Pernambuco, and it involved the deaths of 20 members of the families and 40 others associated with the feud, including hired hit men, innocent bystanders and friends. Tensions between these two families date back to 1913 when there was a dispute over local political power. But it got violent in the last two decades and includes decapitation and the death of two mayors. Installed into a protective wall surrounding the suburban home of Louis Novaes, who's the head of the Novaes family, are these turret holes, which were used for shooting and looking.
Chương 12 tô đậm những người được sinh ra trong trận chiến không phải do họ tạo ra nhưng dần trở thành trận chiến của họ. Đây là gia đình Ferraz và gia đình Novaes. Và họ đang có mối thâm cừu đại hận. Mối thù này vẫn tiếp diễn từ năm 1991 tại vùng Đông Bắc Brazil, Pernambuco, và nó bao gồm cái chết của 20 người trong 2 gia đình và 40 người khác có liên quan, bao gồm lính đánh thuê, người vô tội đi ngang qua và bạn bè. Căng thẳng giữa hai gia đình này bắt đầu từ năm 1913 khi có tranh chấp về quyền lực chính trị tại địa phương. Nhưng nó trở nên bạo lực hơn khoảng 2 thập kỉ trở lại đây bao gồm chặt đầu và cái chết của hai thị trưởng. Gắn vào hàng rào bảo vệ xung quanh căn nhà ở ngoại ô của Louis Novaes, người đứng đầu gia đình Novaes là những lỗ tháp pháo được sử dụng để ngắm bắn và quan sát.
Brazil's northeast state of Pernambuco is one of the nation's most violent regions. It's rooted in a principle of retributive justice, or an eye for an eye, so retaliatory killings have led to several deaths in the area. This story, like many of the stories in my chapters, reads almost as an archetypal episode, like something out of Shakespeare, that's happening now and will happen again in the future. I'm interested in these ideas of repetition. So after I returned home, I received word that one member of the family had been shot 30 times in the face.
Bang đông bắc của Brazil, Pernambuco là một trong những khu vực bạo lực nhất nước. Nó bắt nguồn từ nguyên tắc "trừng phạt công bằng" hay "lấy oán trả oán", do đó việc giết người để trả thù đã dẫn tới nhiều cái chết trong vùng. Câu chuyện này, cũng như những câu chuyện khác trong những trang sách của tôi được đọc gần như nguyên mẫu, như cái gì đó được rút ra từ Shakespeare, đó là những gì xảy ra bây giờ và sẽ xảy ra lần nữa trong tương lai. Tôi bị thu hút vào những ý tưởng của việc lặp lại này. Sau đó tôi trở về nhà, nhận được tin một thành viên của gia đình bị bắn 30 lần vào mặt.
Chapter 17 is an exploration of the absence of a bloodline and the absence of a history. Children at this Ukrainian orphanage are between the ages of six and 16. This piece is ordered by age because it can't be ordered by blood. In a 12-month period when I was at the orphanage, only one child had been adopted. Children have to leave the orphanage at age 16, despite the fact that there's often nowhere for them to go. It's commonly reported in Ukraine that children, when leaving the orphanage are targeted for human trafficking, child pornography and prostitution. Many have to turn to criminal activity for their survival, and high rates of suicide are recorded.
Chương 17 là sự khám phá về sự vắng mặt của 1 huyết thống và sự vắng mặt của một lịch sử. Những đứa trẻ tại viện mồ côi ở Ukraina này có độ tuổi từ 6 tới 16. Những tấm ảnh này được sắp xếp theo tuổi vì nó không thể sắp xếp theo huyết thống. Trong khoảng thời gian 12 tháng tôi ở viện mồ côi này, chỉ có 1 đứa trẻ được nhận nuôi. Những đứa trẻ này phải rời khỏi đây khi chúng đủ 16 tuổi mặc cho sự thật rằng chúng không có chỗ khác để đi. Chuyện thường được báo cáo ở Ukraina là trẻ em, khi rời khỏi viện mồ côi thường bị để ý bởi bọn buôn người, ấu dâm và mại dâm. Nhiều đứa trẻ phải làm những việc phạm pháp để sống sót và tỉ lệ giết người đáng ghi nhận.
This is a boys' bedroom. There's an insufficient supply of beds at the orphanage and not enough warm clothing. Children bathe infrequently because the hot water isn't turned on until October. This is a girls' bedroom. And the director listed the orphanage's most urgent needs as an industrial size washing machine and dryer, four vacuum cleaners, two computers, a video projector, a copy machine, winter shoes and a dentist's drill. This photograph, which I took at the orphanage of one of the classrooms, shows a sign which I had translated when I got home. And it reads: "Those who do not know their past are not worthy of their future."
Đây là căn phòng của một bé trai. Không có đủ giường tại viện mồ côi và không đủ quần áo ấm. Những đứa trẻ này không được tắm thường xuyên bởi vì nước nóng chỉ mở từ tháng 10 trở đi. Đây là phòng cho bé gái. Và người đứng đầu liệt kê ra thứ cần nhất cho viện mồ côi là máy giặt công nghiệp và máy sấy, 4 máy hút bụi, 2 máy vi tính, 1 máy tính, 1 máy copy, giày mùa đông và khoan của nha sĩ. Tấm ảnh này tôi chụp ở 1 phòng học của viện, cho thấy một dấu hiệu mà tôi đã dịch ra khi tôi về tới nhà. Và nó ghi rằng: "Những người không biết quá khứ của họ không đáng có được tương lai."
There are many more chapters in this project. This is just an abridged rendering of over a thousand images. And this mass pile of images and stories forms an archive. And within this accumulation of images and texts, I'm struggling to find patterns and imagine that the narratives that surround the lives we lead are just as coded as blood itself. But archives exist because there's something that can't necessarily be articulated. Something is said in the gaps between all the information that's collected. And there's this relentless persistence of birth and death and an unending collection of stories in between. It's almost machine-like the way people are born and people die, and the stories keep coming and coming. And in this, I'm considering, is this actual accumulation leading to some sort of evolution, or are we on repeat over and over again?
Vẫn còn nhiều chương nữa trong dự án này. Đây chỉ là một bản tóm tắt của hàng ngàn tấm ảnh. Đống ảnh đồ sộ và những câu chuyện này tạo nên một kho lưu trữ. Và trong tập hợp những hình ảnh và chữ viết này, tôi đang tìm những biểu tượng và hình ảnh mà những câu chuyện xung quanh cuộc sống chúng ta cũng chỉ được mã hóa như huyết thống vậy. Nhưng những kho lưu trữ này thật sự tồn tại bởi vì có cái gì đó không nhất thiết phải ăn khớp. Cái gì đó được nói tới giữa những khoảng trống trong các thông tin được thu thập. Và cái vòng luẩn quẩn giữa sinh và tử giữa nó là những câu chuyện chưa kể. Nó giống như một cái máy, con người được sinh ra và chết đi và câu chuyện cứ tiếp diễn. Và ở đây, tôi quan ngại rằng sự tích tụ này có dẫn tới một kiểu tiến hóa nào hay không, hay chúng ta lặp lại chúng hết lần này tới lần khác?
Thank you.
Cảm ơn!
(Applause)
(Vỗ tay)