Fifty years ago, when I began exploring the ocean, no one -- not Jacques Perrin, not Jacques Cousteau or Rachel Carson -- imagined that we could do anything to harm the ocean by what we put into it or by what we took out of it. It seemed, at that time, to be a sea of Eden, but now we know, and now we are facing paradise lost.
Năm mươi năm trước, khi tôi bắt đầu khám phá đại dương, không một ai, kể cả Jacques Perrin, Jacques Cousteau hay Rachel Carson, có thể tưởng tượng rằng chúng ta có thể làm hại tới biển cả bởi những thứ chúng ta đổ vào hay lấy đi từ nó. Vào thời điểm đó, nó như là một vùng biển trên vườn địa đàng nhưng giờ chúng ta biết tới, và chúng ta đang phải đối mặt với sự mất mát của "vùng biển trên thiên đường" ấy.
I want to share with you my personal view of changes in the sea that affect all of us, and to consider why it matters that in 50 years, we've lost -- actually, we've taken, we've eaten -- more than 90 percent of the big fish in the sea; why you should care that nearly half of the coral reefs have disappeared; why a mysterious depletion of oxygen in large areas of the Pacific should concern not only the creatures that are dying, but it really should concern you. It does concern you, as well.
Tôi muốn chia sẻ với các bạn quan điểm cá nhân về những thay đổi trong lòng đại dương đang ảnh hưởng tới tất cả chúng ta để xem xét tại sao nó lại quan trọng khi trong 50 năm chúng ta đã mất đi -- thực ra là chúng ta đã lấy đi, đã tiêu thụ -- hơn 90% số lượng cá lớn ngoài đại dương, tại sao bạn nên quan tâm tới việc gần một nửa lượng san hô đã biến mất, tại sao sự biến mất bí ẩn của khí oxi trên một vùng rộng lớn ở Thái Bình Dương nên khiến không chỉ các loài vật đang chết dần chết mòn phải lo lắng mà nó thực sự cũng nên khiến bạn bận tâm. Và nó có làm bạn bận tâm.
I'm haunted by the thought of what Ray Anderson calls "tomorrow's child," asking why we didn't do something on our watch to save sharks and bluefin tuna and squids and coral reefs and the living ocean while there still was time. Well, now is that time. I hope for your help to explore and protect the wild ocean in ways that will restore the health and, in so doing, secure hope for humankind. Health to the ocean means health for us.
Tôi bị ám ảnh bởi suy nghĩ về cái mà Ray Anderson gọi là "đứa trẻ của ngày mai," tự hỏi rằng tại sao chúng ta không làm gì đó ở thời đại của chúng ta để bảo vệ những con cá mập và cá ngừ và mực ống và những rặng san hô và cả sự sống ngoài đại dương khi thời gian vẫn còn đó. Vâng, bây giờ chính là thời khắc ấy. Tôi mong muốn sự giúp đỡ từ các bạn để khám phá và bảo vệ biển cả hoang sơ theo cách mà sức khỏe được phục hồi, và cùng với đó, gìn giữ hi vọng cho loài người. Sức khỏe của đại dương là sức khỏe của chúng ta.
And I hope Jill Tarter's wish to engage Earthlings includes dolphins and whales and other sea creatures in this quest to find intelligent life elsewhere in the universe. And I hope, Jill, that someday we will find evidence that there is intelligent life among humans on this planet.
Và tôi hi vọng mong muốn của Jill Tarter, làm cho tất cả các sinh vật sống trên Trái đất, bao gồm những con cá voi và cá heo và những sinh vật biển khác tham gia vào cuôc tìm kiếm sự sống thông minh ngoài vũ trụ, sẽ trở thành hiện thực. Và tôi hi vọng rằng, Jill, một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm ra những bằng chứng cho thấy có sự thông minh giữa những con người sống trên hành tinh này.
(Laughter)
(Tiếng Cười)
Did I say that? I guess I did.
Tôi đã nói điều đó sao? Tôi đoán là vậy.
For me, as a scientist, it all began in 1953 when I first tried scuba. It's when I first got to know fish swimming in something other than lemon slices and butter. I actually love diving at night; you see a lot of fish then that you don't see in the daytime. Diving day and night was really easy for me in 1970, when I led a team of aquanauts living underwater for weeks at a time -- at the same time that astronauts were putting their footprints on the moon. In 1979 I had a chance to put my footprints on the ocean floor while using this personal submersible called Jim. It was six miles offshore and 1,250 feet down. It's one of my favorite bathing suits.
Đối với tôi, một nhà khoa học, mọi thứ bắt đầu từ năm 1953 khi tôi lặn lần đầu tiên. Đó là lần đầu tiên tôi thấy cá bơi trong một thứ khác với những lát chanh và bơ. Tôi thực sự yêu thích lặn vào buổi đêm. Bạn có thể thấy rất nhiều loài cá mà bạn không thể thấy vào ban ngày. Lặn cả ngày lẫn đêm rất dễ dàng đối với tôi vào năm 1970 khi tôi chỉ huy một đội nghiên cứu sống dưới biển hàng tuần mỗi lần cùng lúc những nhà du hành vũ trụ đang đặt chân lên mặt trăng. Vào năm 1979 tôi có cơ hội được đặt chân xuống đáy đại dương bằng việc sử dụng chiếc tàu lặn cá nhân mà tôi gọi là Jim. Vị trí lặn cách bờ biển sáu dặm và ở độ sâu 1,250 feet. Đây là một trong những bộ quần áo tắm ưa thích của tôi.
Since then, I've used about 30 kinds of submarines and I've started three companies and a nonprofit foundation called Deep Search to design and build systems to access the deep sea. I led a five-year National Geographic expedition, the Sustainable Seas expeditions, using these little subs. They're so simple to drive that even a scientist can do it. And I'm living proof. Astronauts and aquanauts alike really appreciate the importance of air, food, water, temperature -- all the things you need to stay alive in space or under the sea. I heard astronaut Joe Allen explain how he had to learn everything he could about his life support system and then do everything he could to take care of his life support system; and then he pointed to this and he said, "Life support system." We need to learn everything we can about it and do everything we can to take care of it.
Kể từ đó, tôi đã sử dụng khoảng 30 loại tàu lặn và tôi đã thành lập ba công ti cùng với một tổ chức phi lợi nhuận mang tên Deep Search với mục tiêu thiết kế và xây dựng các hệ thống để kết nối với biển sâu. Tôi đã dẫn đầu cuộc thám hiểm kéo dài năm năm của kênh National Geographic, có tên là Đại Dương Bền Vững, bằng việc sử dụng những chiếc tàu nhỏ đó. Việc điều khiển chúng dễ đến mức một nhà khoa học cũng có thể làm được. Và tôi là một nhân chứng sống. Các nhà du hành vũ trụ và các nhà hải dương học đều hiểu rất rõ tầm quan trọng của không khí, thức ăn, nước, nhiệt độ, những thứ mà bạn cần để sống ngoài không gian hay dưới đại dương. Tôi đã từng nghe nhà du hành vũ trụ Joe Allen nói về việc ông đã phải học tất cả mọi thứ có thể về hệ thống dưỡng sinh của ông và sau đó làm tất cả mọi thứ có thể để bảo vệ cho cái hệ thống ấy. Rồi ông đã chỉ vào cái này và nói:"Hệ thống dưỡng sinh". Chúng ta cần phải học tất cả mọi thứ có thể về nó và làm mọi thứ có thể để bảo vệ nó.
The poet Auden said, "Thousands have lived without love; none without water." Ninety-seven percent of Earth's water is ocean. No blue, no green. If you think the ocean isn't important, imagine Earth without it. Mars comes to mind. No ocean, no life support system. I gave a talk not so long ago at the World Bank and I showed this amazing image of Earth and I said, "There it is! The World Bank!" That's where all the assets are! And we've been trawling them down much faster than the natural systems can replenish them.
Nhà thơ Auden nói, "Hàng ngàn người sống không có tình yêu. Nhưng không một ai sống mà không có nước." 97 phần trăm lượng nước trên Trái đất là ở ngoài biển khơi. Không có màu xanh của biển cả thì sẽ không có màu xanh của cây lá. Nếu bạn nghĩ rằng biển cả chẳng hề quan trọng, hãy tưởng tượng đến một Trái đất không có nó. Sao Hỏa hiện ra. Không biển cả. Không một hệ thống duy trì sự sống. Mới đây, tôi có một bài nói tại Ngân hàng Thế giới và tôi đã trình chiếu bức ảnh chụp Trái đất tuyệt đẹp này và tôi nói, "Nó ở kia kìa! Ngân hàng Thế giới!" Đó là nơi tất cả của cải được cất giữ! Và chúng ta đã và đang vơ vét từ nó nhanh hơn khả năng tái tạo của môi trường tự nhiên rất nhiều.
Tim Worth says the economy is a wholly-owned subsidiary of the environment. With every drop of water you drink, every breath you take, you're connected to the sea. No matter where on Earth you live. Most of the oxygen in the atmosphere is generated by the sea. Over time, most of the planet's organic carbon has been absorbed and stored there, mostly by microbes. The ocean drives climate and weather, stabilizes temperature, shapes Earth's chemistry. Water from the sea forms clouds that return to the land and the seas as rain, sleet and snow, and provides home for about 97 percent of life in the world, maybe in the universe. No water, no life; no blue, no green.
Tim Worth nói rằng nền kinh tế là một công ti con được sinh ra hoàn toàn từ tự nhiên. Với từng giọt nước bạn uống, từng hơi bạn hít vào, bạn đều đang liên hệ với biển cả. Không quan trọng bạn sống ở đâu trên Trái đất, phần lớn lượng khí oxi trong bầu khí quyển được tạo ra ngoài biển. Qua thời gian, hầu hết lượng carbon hữu cơ trên hành hinh đều được hấp thụ và tích tụ ở đó, phần lớn là nhờ vi khuẩn. Biển cả tác động tới khí hậu và thời tiết, điều hòa nhiệt độ, cấu thành nên đặc tính hóa học của Trái đất. Nước ngoài biển bốc hơi thành mây rồi mây quay trở lại đất liền và biển ở dạng mưa và tuyết, và là nơi trú ngụ của khoảng 97 phần trăm sự sống trên Trái đất, mà thậm chí có thể là trong cả vũ trụ. Không có nước sẽ không có sự sống. Không có màu xanh của đại dương sẽ không có màu xanh của cây lá.
Yet we have this idea, we humans, that the Earth -- all of it: the oceans, the skies -- are so vast and so resilient it doesn't matter what we do to it. That may have been true 10,000 years ago, and maybe even 1,000 years ago but in the last 100, especially in the last 50, we've drawn down the assets, the air, the water, the wildlife that make our lives possible. New technologies are helping us to understand the nature of nature; the nature of what's happening, showing us our impact on the Earth. I mean, first you have to know that you've got a problem. And fortunately, in our time, we've learned more about the problems than in all preceding history. And with knowing comes caring. And with caring, there's hope that we can find an enduring place for ourselves within the natural systems that support us. But first we have to know.
Nhưng loài người chúng ta có một ý niệm rằng Trái đất -- mọi thứ thuộc về nó: những đại dương, bầu trời -- thật rộng lớn và trường tồn nên những gì ta làm với nó không quan trọng. Điều đó có thể đúng vào 10,000 năm trước đây, và có thể thậm chí chỉ 1,000 năm trước, nhưng trong vòng 100 năm trở lại đây, đặc biệt là 50 năm vừa qua, chúng ta đã làm mất đi tài sản của chính mình, bầu không khí, nước, các loài động vật hoang dã những thứ giúp chúng ta tồn tại được. Những công nghệ mới đang giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của tự nhiên, về bản chất của những gì đang diễn ra. Cho chúng ta biết ảnh hưởng của chính mình đến Trái đất. Ý tôi là, đầu tiên bạn phải biết là bạn đang có một vấn đề. Và, thật may mắn, vào thời đại của chúng ta, chúng ta đã tìm hiểu được nhiều hơn về những vấn đề so với tổ tiên của mình. Và đi cùng với hiểu biết là sự giữ gìn. Và đi cùng với sự giữ gìn là hi vọng rằng chúng ta có thể tìm được một môi trường bền vững cho bản thân trong hệ sinh thái đang nuôi nấng chúng ta. Nhưng đầu tiên chúng ta phải biết nhận thức.
Three years ago, I met John Hanke, who's the head of Google Earth, and I told him how much I loved being able to hold the world in my hands and go exploring vicariously. But I asked him: "When are you going to finish it? You did a great job with the land, the dirt. What about the water?" Since then, I've had the great pleasure of working with the Googlers, with DOER Marine, with National Geographic, with dozens of the best institutions and scientists around the world, ones that we could enlist, to put the ocean in Google Earth. And as of just this week, last Monday, Google Earth is now whole.
Ba năm trước, tôi gặp John Hanke, trưởng dự án Google Earth, và tôi đã nói với anh ta rằng tôi thích thú biết bao khi tôi có thể nắm lấy thế giới trong tay mình và khám phá nó một cách gián tiếp. Nhưng tôi hỏi anh ấy: "Khi nào anh định hoàn thành nó? Anh đã làm rất tốt với đất liền, với mặt đất. Thế còn các đại dương thì sao?" Kể từ đó, tôi đã rất hài lòng khi được làm việc với những nhân viên của Google, với những chiếc tàu của công ti Khám phá và Nghiên cứu Biển Sâu, với National Geographic, với hàng chục viện nghiên cứu và nhà khoa học trên toàn thế giới, tất cả những ai chúng tôi có thể tranh thủ được sự cộng tác, để đưa các đại dương vào Google Earth. Và mới tuần này thôi, thứ Hai vừa qua, Google Earth giờ đây đã hoàn chỉnh.
Consider this: Starting right here at the convention center, we can find the nearby aquarium, we can look at where we're sitting, and then we can cruise up the coast to the big aquarium, the ocean, and California's four national marine sanctuaries, and the new network of state marine reserves that are beginning to protect and restore some of the assets We can flit over to Hawaii and see the real Hawaiian Islands: not just the little bit that pokes through the surface, but also what's below. To see -- wait a minute, we can go kshhplash! -- right there, ha -- under the ocean, see what the whales see. We can go explore the other side of the Hawaiian Islands. We can go actually and swim around on Google Earth and visit with humpback whales. These are the gentle giants that I've had the pleasure of meeting face to face many times underwater. There's nothing quite like being personally inspected by a whale.
Hãy nghĩ về điều này: Ngay tại trung tâm hội nghị này, chúng ta có thể tìm thấy những công viên hải dương gần đây, chúng ta có thể nhìn thấy nơi mà chúng ta đang ngồi, và sau đó chúng ta có thể căng buồm đi ra công viên hải dương vĩ đại nhất, biển cả, và bốn khu bảo tồn biển quốc gia tại California, và hệ thống mới các khu bảo tồn biển liên bang, nhưng nơi đang bắt đẩu để bảo vệ và lấy lại một phần những của cải đã mất. Chúng ta có thể vút bay qua Hawaii và ngắm nhìn tận mắt những hòn đảo Hawaii... không chỉ là một phần nhỏ bé nhô lên trên mặt nước, mà cả những gì ẩn bên dưới. để thấy -- đợi một chút, chúng ta có thể chơi trò té nước! -- ngay tại đó, ha -- những gì ở trong lòng đại dương, thấy được những gì những con cá voi vẫn thường thấy. Chúng ta có thể khám phá phần bên kia của quần đảo Hawaii. Trên thực tế chúng ta có thể đi và bơi vòng quanh Google Earth và chơi đùa với cá voi lưng gù. Chúng là những con vật khổng lồ lịch sự mà tôi đã có vinh hạnh được mặt đối mặt rất nhiều lần dưới nước. Không có chuyện bạn bị dò xét bởi một chú cá voi.
We can pick up and fly to the deepest place: seven miles down, the Mariana Trench, where only two people have ever been. Imagine that. It's only seven miles, but only two people have been there, 49 years ago. One-way trips are easy. We need new deep-diving submarines. How about some X Prizes for ocean exploration? We need to see deep trenches, the undersea mountains, and understand life in the deep sea.
Chúng ta có thể bắt đầu lại và bay tới những nơi sâu nhất: bảy dặm sâu, Vực Mariana, nơi mà mới chỉ có hai người từng đến. Thử tưởng tượng xem. Chỉ có bảy dặm, mà mới chỉ có hai người xuống được tới đó, 49 năm trước. Đi một chiều rất đơn giản. Chúng ta cần những tàu lặn tân tiến. Bạn nghĩ sao về một số giải thưởng X Prizes cho những khám phá về đại dương? Chúng ta cần thấy được những vực sâu, những ngọn núi dưới biển, và hiểu được cuộc sống dưới biển sâu.
We can now go to the Arctic. Just ten years ago I stood on the ice at the North Pole. An ice-free Arctic Ocean may happen in this century. That's bad news for the polar bears. That's bad news for us too. Excess carbon dioxide is not only driving global warming, it's also changing ocean chemistry, making the sea more acidic. That's bad news for coral reefs and oxygen-producing plankton. Also it's bad news for us. We're putting hundreds of millions of tons of plastic and other trash into the sea. Millions of tons of discarded fishing nets, gear that continues to kill. We're clogging the ocean, poisoning the planet's circulatory system, and we're taking out hundreds of millions of tons of wildlife, all carbon-based units. Barbarically, we're killing sharks for shark fin soup, undermining food chains that shape planetary chemistry and drive the carbon cycle, the nitrogen cycle, the oxygen cycle, the water cycle -- our life support system. We're still killing bluefin tuna; truly endangered and much more valuable alive than dead. All of these parts are part of our life support system. We kill using long lines, with baited hooks every few feet that may stretch for 50 miles or more. Industrial trawlers and draggers are scraping the sea floor like bulldozers, taking everything in their path.
Giờ chúng ta có thể đi đến Bắc Cực. Mới 10 năm trước tôi còn đứng trên những tảng băng ở Cực Bắc. Một Đại dương Bắc Cực không có băng có thể sẽ xuất hiện trong thế kỉ này. Đó là một tin xấu với những chú gấu. Và cũng là một tin xấu với chúng ta. Quá nhiều khí Cacbonic không chỉ đang làm cho Trái đất ấm dần lên, nó còn đang thay đổi đặc tính hóa học của nước biển, khiến nước biển ngày càng chua. Đó là tin xấu với những rặng san hô và những sinh vật phù du tạo oxi. Và cũng là tin xấu đối với chúng ta. Chúng ta đang thải ra hàng trăm triệu tấn chất dẻo và những loại rác thải khác ra ngoài biển khơi. Hàng triệu tấn lưới đánh cá vứt xuống biển vẫn tiếp tục là công cụ gây hại. Chúng ta đang "đeo còng" vào biển cả, làm tổn thương hệ tuần hoàn của Trái đất, và chúng ta đang xóa sổ hàng trăm triệu tấn động vật hoang dã, tất cả đều là đơn vị sống cấu thành bởi cacbon. Thật dã man, chúng ta đang giết cá mập để làm súp vây cá, hủy hoại các chuỗi thức ăn quyết định tới đặc tính hóa học của hành tinh. và làm thay đổi chu kì chuyển hóa cacbon, chu kì chuyển hóa nitơ, chu kì chuyển hóa oxi, chu kì nước, hệ thống dưỡng sinh của chúng ta. Chúng ta vẫn đang giết chết cá ngừ vây xanh, một loài đang có nguy cơ tuyệt chủng, và có giá trị khi sống nhiều hơn là khi chết. Tất cả chúng đều là những thành phần của hệ thống dưỡng sinh của chúng ta. Chúng ta săn bắt bằng lưới, cứ vài feet lại có lưỡi câu mắc mồi, có thể dài tới 50 dặm hoặc hơn. Thuyền cá công nghiệp dùng lưới rà và lưới kéo đang nạo vét đáy đại dương như những chiếc máy ủi, quét sạch mọi thứ trên đường đi của chúng.
Using Google Earth you can witness trawlers -- in China, the North Sea, the Gulf of Mexico -- shaking the foundation of our life support system, leaving plumes of death in their path. The next time you dine on sushi -- or sashimi, or swordfish steak, or shrimp cocktail, whatever wildlife you happen to enjoy from the ocean -- think of the real cost. For every pound that goes to market, more than 10 pounds, even 100 pounds, may be thrown away as bycatch. This is the consequence of not knowing that there are limits to what we can take out of the sea. This chart shows the decline in ocean wildlife from 1900 to 2000. The highest concentrations are in red. In my lifetime, imagine, 90 percent of the big fish have been killed. Most of the turtles, sharks, tunas and whales are way down in numbers.
Sử dụng Google Earth bạn có thể chứng kiến tàu cá, ở Trung Quốc, Biển Bắc, Vịnh Mexico, đang làm chao đảo nền tảng hệ thống dưỡng sinh của chúng ta, để lại những hàng loạt những cái chết trên đường chúng đi qua. Khi bạn thưởng thức sushi, hay sashimi, hay thịt cá kiếm nướng, hay cốc-tai tôm, bất kể thứ gì hoang dã từ đại dương mà bạn thưởng thức, hãy nghĩ về cái giá thực sự phải trả. Cho mỗi pound thực phẩm trên thị trường, thì hơn 10 pound, thậm chí 100 pound, có thể bị vứt đi bởi bắt nhầm. Đây là hậu quả của việc không nhận thức được đâu là giới hạn của những gì chúng ta có thể lấy đi từ đại dương. Biểu đồ này cho thấy sự sụt giảm của động vật biển hoang dã từ năm 1900 đến năm 2000. Màu đỏ thể hiện những sự sụt giảm đáng kể nhất. Trong cuộc đời tôi, thử tưởng tượng xem, 90 phần trăm số lượng cá lớn đã bị giết. Phần lớn rùa, cá mập, cá ngừ, và cá voi đang mất dần về số lượng.
But, there is good news. Ten percent of the big fish still remain. There are still some blue whales. There are still some krill in Antarctica. There are a few oysters in Chesapeake Bay. Half the coral reefs are still in pretty good shape, a jeweled belt around the middle of the planet. There's still time, but not a lot, to turn things around. But business as usual means that in 50 years, there may be no coral reefs -- and no commercial fishing, because the fish will simply be gone. Imagine the ocean without fish. Imagine what that means to our life support system. Natural systems on the land are in big trouble too, but the problems are more obvious, and some actions are being taken to protect trees, watersheds and wildlife.
Nhưng, cũng có những tín hiệu tốt. 10 phần trăm số cá lớn vẫn còn tồn tại. Vẫn còn đó một số con cá voi xanh, và một số loài nhuyễn thể sống ở Nam Cực. Một lượng nhỏ hàu vẫn còn tồn tại ở Vịnh Chesapeake. Một nửa các rặng san hô vẫn đang ở trong tình trạng tốt, như một vòng trang sức quấn quanh xích đạo của hành tinh. Chúng ta vẫn còn thời gian, tuy không nhiều nữa, để làm thay đổi nhiều thứ. Nhưng nếu mọi việc vẫn cứ tiếp diễn thì trong 50 năm tới, sẽ không còn rặng san hô nào cả, và sẽ không còn đánh bắt cá thương mại, bởi vị đơn giản là không còn cá nữa. Thử nghĩ về biển cả mà không có cá. Nghĩ xem điều đó nghĩa là gì đối với hệ sinh thái của chúng ta. Những hệ thống tự nhiên trên cạn cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng các vấn đề ở đó rõ ràng hơn, và một số hành động đang được thực hiện để bảo vệ cây, đường phân nước, và động vật hoang dã.
And in 1872, with Yellowstone National Park, the United States began establishing a system of parks that some say was the best idea America ever had. About 12 percent of the land around the world is now protected: safeguarding biodiversity, providing a carbon sink, generating oxygen, protecting watersheds. And, in 1972, this nation began to establish a counterpart in the sea, National Marine Sanctuaries. That's another great idea. The good news is that there are now more than 4,000 places in the sea, around the world, that have some kind of protection. And you can find them on Google Earth. The bad news is that you have to look hard to find them. In the last three years, for example, the U.S. protected 340,000 square miles of ocean as national monuments. But it only increased from 0.6 of one percent to 0.8 of one percent of the ocean protected, globally. Protected areas do rebound, but it takes a long time to restore 50-year-old rockfish or monkfish, sharks or sea bass, or 200-year-old orange roughy. We don't consume 200-year-old cows or chickens. Protected areas provide hope that the creatures of Ed Wilson's dream of an encyclopedia of life, or the census of marine life, will live not just as a list, a photograph, or a paragraph.
Và vào năm 1872, với Vườn Quốc Gia Yellowstone, Hoa Kì bắt đầu lập ra một hệ thống các vườn quốc gia, điều mà một số ngưới coi là ý tưởng tốt nhất mà Hoa Kì từng có. Khoảng 12% diện tích đất trên trái đất giờ đang được bảo vệ, giữ gìn đa dạng sinh thái, tạo ra những môi trường hấp thụ và dự trữ carbon, sản sinh ra khí Oxi, bảo vệ các đường phân nước. Và, vào năm 1972, đất nước này bắt đầu làm điều tương tự trên biển, với các Khu Bảo Tồn Biển Quốc Gia. Đó cũng là một ý tưởng lớn. Và tin tốt là hiện giờ có hơn 4000 địa điểm trên biển, xung quanh thế giới, có được những sự bảo vệ nhất định. Và bạn có thể tìm thấy chúng trên Google Earth. Tin xấu là bạn phải nhìn rất kĩ mới thấy được chúng. Ví dụ như, trong ba năm trở lại đây, Hoa Kì đã bảo tồn 340,000 dặm vuông trên biển như những di tích quốc gia. Nhưng đó chỉ là sự tăng từ 0.6% lên 0.8% diện tích biển được bảo vệ trên thế giới. Những khu vực được bảo vệ đang hồi sinh, nhưng sẽ phải mất một thời gian dài để tái sinh nhưng con cá quân hay cá nhám, cá mập hay cá mú 50 năm tuổi, hay một con cá orange roughy 200 năm tuổi. Chúng ta không sử dụng nhưng con bò hay gà 200 năm tuổi. Những khu vực bảo tồn cho ta hi vọng rằng những sinh vật trong giấc mơ của Ed Wilson về một cuốn bách khoa cuộc sống, hay một bảng thống kê về sự sống dưới biển, sẽ không chỉ tồn tại ở dạng một danh sách, một bức ảnh, hay một đoạn văn.
With scientists around the world, I've been looking at the 99 percent of the ocean that is open to fishing -- and mining, and drilling, and dumping, and whatever -- to search out hope spots, and try to find ways to give them and us a secure future. Such as the Arctic -- we have one chance, right now, to get it right. Or the Antarctic, where the continent is protected, but the surrounding ocean is being stripped of its krill, whales and fish. Sargasso Sea's three million square miles of floating forest is being gathered up to feed cows. 97 percent of the land in the Galapagos Islands is protected, but the adjacent sea is being ravaged by fishing. It's true too in Argentina on the Patagonian shelf, which is now in serious trouble. The high seas, where whales, tuna and dolphins travel -- the largest, least protected, ecosystem on Earth, filled with luminous creatures, living in dark waters that average two miles deep. They flash, and sparkle, and glow with their own living light.
Cùng với những nhà khoa học trên toàn thế giới, tôi đã xem xét 99% diện tích biển dùng cho đánh bắt cá, và khai khoáng, và khoan dầu, và thải rác, và bất cứ hành động nào, để tìm ra những tia hi vọng, và cố gắng tìm ra những cách để cho chúng và chúng ta một tương lai vững chắc. Ví dụ như Bắc Cực -- chúng ta có một cơ hội duy nhất, ngay bây giờ, để làm những điều đúng. Hay tại Nam Cực, nơi mà lục địa đang được bảo vệ, thì những vùng biển xung quanh đang bị lột sạch đi những con tôm, cá voi và những loài cá khác. Biển Sargasso là một khu rừng nổi rộng ba triệu dặm vuông giờ đang bị khai thác để chăn nuôi cừu. 97% diện tích đất trên Quần đảo Galapagos đang được bảo vệ, nhưng những vùng biển xung quanh thì đang bị tàn phá bởi đánh bắt cá. Điều này cũng đúng với Argentina, trên thềm lục địa Patagonian, giờ đang ở trong tình trạng nghiêm trọng. Những vùng biển khơi, nơi mà cá voi, cá ngừ và cá heo di cư -- hệ sinh thái lớn nhất và cũng ít được bảo vệ nhất trên Trái Đất, với đầy những sinh vật tỏa sáng, sống trong dưới nước trong bóng tối ở độ sâu trung bình 2 dặm. Chúng nhấp nháy, và lấp lánh, và tỏa sáng với những chiếc đèn sống của riêng chúng.
There are still places in the sea as pristine as I knew as a child. The next 10 years may be the most important, and the next 10,000 years the best chance our species will have to protect what remains of the natural systems that give us life. To cope with climate change, we need new ways to generate power. We need new ways, better ways, to cope with poverty, wars and disease. We need many things to keep and maintain the world as a better place. But, nothing else will matter if we fail to protect the ocean. Our fate and the ocean's are one. We need to do for the ocean what Al Gore did for the skies above.
Vẫn còn những địa điểm còn giữ được vẻ hoang sơ giống với khi tôi còn bé. 10 năm tới có thể trở nên cực kì quan trọng, và 10,000 năm nữa có thể là cơ hội cuối cùng mà loài người chúng ta có được để bảo vệ những gì còn lại của hệ sinh thái đã ban cho chúng ta sự sống. Để đối phó với biến đổi khí hậu, chúng ta cần những cách mới để tạo ra năng lượng. Chúng ta cần những cách mới, những cách tốt hơn, để đối phó với nghèo đói, chiến tranh và dịch bệnh. Chúng ta cần rất nhiều thứ để giữ gìn và duy trì thế giới ngày càng trở nên tươi đẹp hơn. Nhưng, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa nếu chúng ta thất bại trong việc bảo vệ biển cả. Số phận của chúng ta và biển cả là một. Chúng ta cần làm với biển những điều mà Al Gore đã từng làm với bầu trời.
A global plan of action with a world conservation union, the IUCN, is underway to protect biodiversity, to mitigate and recover from the impacts of climate change, on the high seas and in coastal areas, wherever we can identify critical places. New technologies are needed to map, photograph and explore the 95 percent of the ocean that we have yet to see. The goal is to protect biodiversity, to provide stability and resilience. We need deep-diving subs, new technologies to explore the ocean. We need, maybe, an expedition -- a TED at sea -- that could help figure out the next steps.
Một kế hoạch hành động mang tính toàn cầu với Liên Minh Bảo Tồn Thiên Nhiên Quốc Tế, viết tắt là IUCN, đang dần được thực hiển để bảo vệ sự đa dạng sinh thái, để giảm thiểu và phục hồi từ những tác động của thay đổi khí hậu. Ngoài biển khơi hay ở miền duyên hải, bất cứ nơi nào chúng ta có thể nhận ra sự nguy cấp, những công nghệ mới là rất cần thiết để vẽ bản đồ, chụp ảnh và thăm dò 95% đại dương mà chúng ta còn cần phải quan sát. Mục tiêu là bảo vệ hệ sinh thái, và thiết lập sự ổn định cũng như sự bền vững. Chúng ta cần những tàu ngầm có khả năng lặn sâu, và những công nghệ mới để khám phá đại dương. Chúng ta có thể cần tới một cuộc thám hiểm -- một hội thảo TED ở ngoài biển -- để có thể tìm ra những bước tiếp theo.
And so, I suppose you want to know what my wish is. I wish you would use all means at your disposal -- films, expeditions, the web, new submarines -- and campaign to ignite public support for a global network of marine protected areas -- hope spots large enough to save and restore the ocean, the blue heart of the planet. How much? Some say 10 percent, some say 30 percent. You decide: how much of your heart do you want to protect? Whatever it is, a fraction of one percent is not enough. My wish is a big wish, but if we can make it happen, it can truly change the world, and help ensure the survival of what actually -- as it turns out -- is my favorite species; that would be us. For the children of today, for tomorrow's child: as never again, now is the time.
Và vì vậy, tôi cho rằng các bạn đang muốn biết mong muốn của tôi là gì. Tôi mong rằng bạn sẽ sử dụng tất cả phương tiện mà bạn có -- phim ảnh, các cuộc thăm dò, mạng toàn cầu, tàu ngầm thế hệ mới -- để phát triển một chiến dịch thúc đẩy sự hỗ trợ từ cộng đồng cho một mạng lưới toàn cầu về những khu vực bảo tồn biển, những tia hi vọng đủ lớn để bảo vệ và tái sinh đại dương, trái tim xanh của hành tinh. Bao nhiêu? Một số nói 10%, một số khác nói 30%. Bạn hãy quyết định xem bạn muốn bảo vệ với bao nhiêu phần trái tim mình. Dù thế nào chăng nữa, thì một phần nhỏ của một phần trăm là không đủ. Mong muốn của tôi không hề nhỏ và đơn giản, nhưng nếu chúng ta thực hiện được, nó có thể thay đổi cả thế giới, và giúp bảo đảm sự tồn tại của một thứ mà thực tế, thành ra, lại là sinh vật mà tôi yêu thích, đó chính là chúng ta. Cho những đứa trẻ ngày hôm nay, cho đứa trẻ ngày mai, hiện tại chính là cơ hội không bao giờ trở lại.
Thank you.
Cảm ơn các bạn đã lắng nghe.
(Applause)
(Vỗ tay)