Imagine you're walking through a forest. I'm guessing you're thinking of a collection of trees, what we foresters call a stand, with their rugged stems and their beautiful crowns. Yes, trees are the foundation of forests, but a forest is much more than what you see, and today I want to change the way you think about forests. You see, underground there is this other world, a world of infinite biological pathways that connect trees and allow them to communicate and allow the forest to behave as though it's a single organism. It might remind you of a sort of intelligence.
Hãy tưởng tượng bạn đang đi trong một khu rừng Tôi đoán rằng bạn đang nghĩ đến một tập hợp rất nhiều cây, cái mà chúng ta những người đi rừng gọi là rừng cây, với những thân cây xù xì và những vòm cây xinh đẹp. Đúng vậy, cây chính là nền móng của những khu rừng nhưng một khu rừng thì ẩn chứa nhiều hơn các bạn có thể nhìn thấy bên ngoài nó và hôm nay tôi muốn thay đổi cách mà các bạn vẫn luôn nghĩ về những khu rừng Các bạn thấy đấy, ở bên dưới đất ngầm là một thế giới hoàn toàn khác thế giới của một tập hợp vô tận những đường mòn sinh học cái mà kết nối những cái cây và cho phép chúng trò chuyện với nhau và cho phép khu rừng cư xử như thể chúng là một sinh vật cá thể riêng biệt Nó có thể gợi cho bạn về một loại trí khôn nào đó.
How do I know this? Here's my story. I grew up in the forests of British Columbia. I used to lay on the forest floor and stare up at the tree crowns. They were giants. My grandfather was a giant, too. He was a horse logger, and he used to selectively cut cedar poles from the inland rainforest. Grandpa taught me about the quiet and cohesive ways of the woods, and how my family was knit into it. So I followed in grandpa's footsteps.
Làm thế nào mà tôi biết điều này? Sau đây là câu chuyện của tôi Tôi sinh ra và lớn lên ở những khu rừng thuộc vùng British Columbia Tôi thích nằm dài trên tầng đáy rừng và nhìn lên những vòm cây Chúng thật là khổng lồ Và ông nội của tôi cũng vậy. Ông là một tiều phu, ông thường chọn chặt những cây tuyết tùng từ khu rừng nhiệt đới nội địa. Ông dạy cho tôi về cái cách những khu rừng yên ắng và gắn kết với nhau, và làm thế nào mà gia đình tôi cũng gắn chặt với điều đó. Thế là tôi theo những bước chân của ông.
He and I had this curiosity about forests, and my first big "aha" moment was at the outhouse by our lake. Our poor dog Jigs had slipped and fallen into the pit. So grandpa ran up with his shovel to rescue the poor dog. He was down there, swimming in the muck. But as grandpa dug through that forest floor, I became fascinated with the roots, and under that, what I learned later was the white mycelium and under that the red and yellow mineral horizons. Eventually, grandpa and I rescued the poor dog, but it was at that moment that I realized that that palette of roots and soil was really the foundation of the forest.
Ông và tôi có một sự tò mò đối với những khu rừng, và cái thời khắc mà tôi thốt lên "aha" lần đầu tiên đó là ở ngôi nhà phụ bên hồ của chúng tôi. Con chó tội nghiệp Jigs của chúng tôi bị trượt chân ngã vào một cái hố Thế là ông nội chạy vào cùng một cái xẻnh để cứu con chó đáng thương. Nó ở dưới đó, lặn ngụp trong đống bùn lầy. Nhưng lúc mà ông nội đào sâu vào tầng đáy rừng, ngay lập tức tôi bị mê hoặc bởi những cái rễ, và ở dưới đó, sau này tôi khám phá ra rằng chúng là những khuẩn ti thể màu trắng và ở dưới nữa là những tầng khoáng sản đỏ và vàng. Rốt cuộc,ông nội và tôi cũng cứu được con chó, nhưng chính vào thời khắc đó tôi nhận ra rằng màu sắc của rễ và đất mới thật sự là nền móng của khu rừng
And I wanted to know more. So I studied forestry. But soon I found myself working alongside the powerful people in charge of the commercial harvest. The extent of the clear-cutting was alarming, and I soon found myself conflicted by my part in it. Not only that, the spraying and hacking of the aspens and birches to make way for the more commercially valuable planted pines and firs was astounding. It seemed that nothing could stop this relentless industrial machine.
Và tôi muốn biết về chúng nhiều hơn nữa. Nên tôi nghiên cứu về lâm nghiệp Nhưng tôi sớm nhận ra bản thân đang làm việc cùng những con người quyền lực điều hành việc thu hoạch vì thương mại. Mức độ của việc chặt trắng rừng đang ở mức báo động. tôi sớm nhận ra rằng bản thân mâu thuẫn bởi một phần trong đó. Không chỉ thế, việc phun tưới và chặt những cây bạch dương và cây roi để dọn đường cho việc trồng những cây thông và linh sam có giá trị thương mại hơn cũng trở thành một ác mộng kinh hoàng. Dường như chẳng điều gì có thể ngăn chặn cái cỗ máy công nghiệp tàn nhẫn này lại nữa.
So I went back to school, and I studied my other world. You see, scientists had just discovered in the laboratory in vitro that one pine seedling root could transmit carbon to another pine seedling root. But this was in the laboratory, and I wondered, could this happen in real forests? I thought yes. Trees in real forests might also share information below ground. But this was really controversial, and some people thought I was crazy, and I had a really hard time getting research funding. But I persevered, and I eventually conducted some experiments deep in the forest, 25 years ago. I grew 80 replicates of three species: paper birch, Douglas fir, and western red cedar. I figured the birch and the fir would be connected in a belowground web, but not the cedar. It was in its own other world. And I gathered my apparatus, and I had no money, so I had to do it on the cheap. So I went to Canadian Tire --
Nên tôi đã quay trở lại trường và nghiên cứu về một thế giới khác Các bạn thấy đấy, các nhà khoa học vừa khám phá ra trong ống nghiệm rằng một rễ giống cây thông có thể truyền cacbon đến rễ giống cây thông khác Nhưng điều này xảy ra trong phòng thí nghiệm, và tôi tự hỏi, liệu nó có thể xảy ra trong một khu rừng chăng? Tôi nghĩ là có. Cây ở trong những khu rừng cũng có thể chia sẻ thông tin bên dưới đất ngầm. Nhưng điều này thực sự gây tranh cãi, và một số người nghĩ rằng tôi bị điên rồi, tôi đã có 1 khoảng thời gian khó khăn xin trợ cấp cho nghiên cứu Nhưng tôi vẫn kiên trì, và rốt cuộc tôi đã thực hiện một vài cuộc thí nghiệm trong rừng sâu, 25 năm trước. Tôi làm 80 bản tái tạo của 3 loài: cây roi, cây linh sam, và cây tuyết tùng đỏ miền Tây Tôi phát hiện cây roi và linh sam được kết nối với nhau trong 1 mạng lưới ngầm trừ cây tuyết tùng đỏ. Nó ở trong riêng thế giới của nó. Tôi tập hợp tất cả dụng cụ thí nghiệm của tôi, và tôi chẳng còn đồng nào cả, nên phải làm thí nghiệm với giá rẻ Nên tôi đến Canadian Tire --
(Laughter)
(Cười)
and I bought some plastic bags and duct tape and shade cloth, a timer, a paper suit, a respirator. And then I borrowed some high-tech stuff from my university: a Geiger counter, a scintillation counter, a mass spectrometer, microscopes. And then I got some really dangerous stuff: syringes full of radioactive carbon-14 carbon dioxide gas and some high pressure bottles of the stable isotope carbon-13 carbon dioxide gas. But I was legally permitted.
mua một vài túi nylon, băng dán và vải màn, một đồng hồ hẹn giờ, một bộ đồ bảo hộ, một mặt nạ phòng hơi độc. Sau đó mượn một vài thứ đồ công nghệ cao từ trường đại học: một máy đo phóng xạ, một máy đo tần số nháy, một khối phổ kế, kính hiển vi. Sau đó tôi lấy một vài thứ rất nguy hiểm: những ống tiêm đầy chất phóng xạ cacbon-14 khí cacbon đioxin và một vài bình cao áp đựng chất đồng bị cacbon-13 khí cacbon đioxin. Tất nhiên tôi đã được sự chấp thuận hợp pháp
(Laughter)
(Cười)
Oh, and I forgot some stuff, important stuff: the bug spray, the bear spray, the filters for my respirator. Oh well.
Ồ, tôi quên một vài thứ, một thứ cực kì quan trọng: bình diệt côn trùng bình xịt hơi cay và bộ lọc cho mặt nạ phòng hơi độc. Vậy đấy.
The first day of the experiment, we got out to our plot and a grizzly bear and her cub chased us off. And I had no bear spray. But you know, this is how forest research in Canada goes.
Vào ngày đầu tiên của cuộc thí nghiệm, chúng tôi đến vùng đất đó và bị một con gấu xám và con của nó rượt đuổi. Tôi đã không mang theo bình xịt hơi cay. Và các bạn biết đấy, đây là cách mà những cuộc nghiên cứu rừng ở Canada diễn ra.
(Laughter)
(Cười)
So I came back the next day, and mama grizzly and her cub were gone. So this time, we really got started, and I pulled on my white paper suit, I put on my respirator, and then I put the plastic bags over my trees. I got my giant syringes, and I injected the bags with my tracer isotope carbon dioxide gases, first the birch. I injected carbon-14, the radioactive gas, into the bag of birch. And then for fir, I injected the stable isotope carbon-13 carbon dioxide gas. I used two isotopes, because I was wondering whether there was two-way communication going on between these species. I got to the final bag, the 80th replicate, and all of a sudden mama grizzly showed up again. And she started to chase me, and I had my syringes above my head, and I was swatting the mosquitos, and I jumped into the truck, and I thought, "This is why people do lab studies."
Nên tôi quay lại vào ngày hôm sau, con gấu xám và gấu con đã bỏ đi. Lúc đó, chúng tôi mới thật sự bắt đầu, tôi mặc bộ đồ bảo hộ màu trắng, đeo mặt nạ phòng hơi độc, sau đó trùm túi nylon lên những cái cây. Tôi lấy ra những ống tiêm khổng lồ, tiêm vào mấy cái túi cùng với máy dò chất đồng vị bền khí cacbon đioxin, bắt đầu với cây bạch dương. Tôi tiêm cacbon-14, khí phóng xạ, vào cái bao của cây bạch dương. Sau đó đến cây linh sam, tôi tiêm chất đồng vị bền cacbon-13 khí cacbon đioxin. Tôi sử dụng hai chất đồng vị, bởi vì tôi băn khoăn liệu có thể có hai cách giao tiếp đang diễn ra giữa những loài này hay không. Sau đó tôi chuyển sang cái túi cuối cùng, mẫu tái tạo thứ 80, và vụ con gấu xám mẹ lại tái diễn. Con gấu bắt đầu rượt đuổi tôi, và lần này tôi đã cất mấy cái ống tiêm trên đầu mình, tôi đập mấy con muỗi và nhảy lên xe tải, và tôi nghĩ, "Đây chính là lí do tại sao người ta làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm."
(Laughter)
(Cười)
I waited an hour. I figured it would take this long for the trees to suck up the CO2 through photosynthesis, turn it into sugars, send it down into their roots, and maybe, I hypothesized, shuttle that carbon belowground to their neighbors. After the hour was up, I rolled down my window, and I checked for mama grizzly. Oh good, she's over there eating her huckleberries. So I got out of the truck and I got to work. I went to my first bag with the birch. I pulled the bag off. I ran my Geiger counter over its leaves. Kkhh! Perfect. The birch had taken up the radioactive gas. Then the moment of truth. I went over to the fir tree. I pulled off its bag. I ran the Geiger counter up its needles, and I heard the most beautiful sound. Kkhh! It was the sound of birch talking to fir, and birch was saying, "Hey, can I help you?" And fir was saying, "Yeah, can you send me some of your carbon? Because somebody threw a shade cloth over me." I went up to cedar, and I ran the Geiger counter over its leaves, and as I suspected, silence. Cedar was in its own world. It was not connected into the web interlinking birch and fir.
Tôi đợi khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi phát hiện ra rằng mấy cái cây mất chừng này thời gian để hút khí CO2 bằng cách quang hợp, biến nó thành đường, và đưa xuống rễ, và có lẽ là, tôi giả định, vận chuyển chất cacbon ngầm đó đến hàng xóm của chúng. Sau khi thời gian một tiếng đồng hồ kết thúc, tôi kéo cửa kính xuống, để thăm dò con gấu xám mẹ Ồ tốt, nó đang ở đằng kia chén mấy chùm việt quất. Tôi xuống xe và tiếp tục công việc đang dang dở. Tôi đi đến cái túi đầu tiên có cây roi và mở cái bao ra. Tôi chạy máy đo phóng xạ trên mấy cái lá. Kkhh! Tuyệt vời. Cái cây bạch dương đã hấp thu khí phóng xạ. Sau đó là đến khoảng khắc sự thật được hé lộ. Tôi đi đến cái cây linh sam Dỡ cái bao ra. Tôi cho chạy máy đo phóng xạ trên mấy cái lá kim, và tôi đã nghe thấy âm thanh tuyệt vời nhất thế gian. Kkhh! Đó là âm thanh của cây roi đang nói chuyện với cây linh sam, và cây bạch dương nói, "Chào, tôi có thể giúp gì cho bạn không?" Và cây linh sam đáp, "Tuyệt, bạn có thể chuyển cho tôi một ít cacbon không? Bởi vì có ai đó đang trùm vải màn lên khắp cơ thể tôi." Tôi đi đến cây tuyết tùng, và cho chạy máy đo phóng xạ lên mấy cái lá, và đúng như tôi đã nghi ngờ, chỉ là một sự im ắng. Cây tuyết tùng có thể giới riêng của nó. Nó không kết nối được với mạng lưới nối cây roi và cây linh sam.
I was so excited, I ran from plot to plot and I checked all 80 replicates. The evidence was clear. The C-13 and C-14 was showing me that paper birch and Douglas fir were in a lively two-way conversation. It turns out at that time of the year, in the summer, that birch was sending more carbon to fir than fir was sending back to birch, especially when the fir was shaded. And then in later experiments, we found the opposite, that fir was sending more carbon to birch than birch was sending to fir, and this was because the fir was still growing while the birch was leafless. So it turns out the two species were interdependent, like yin and yang.
Tôi đã rất hào hứng, Tôi chạy tới chạy lui giữa các mảnh đất và kiểm tra tất cả 80 mẫu tái tạo. Kết quả đã trở nên hoàn toàn rõ ràng. C-13 và C-14 đã chỉ cho tôi thấy rằng cây tuyết tùng và cây linh sam đã thực hiện một cuộc đối thoại hai chiều sống động. Và hóa ra ở thời điểm đó, vào mùa hè, cây bạch dương đã chuyển nhiều cacbon đến cây linh sam hơn là cây linh sam chuyển cho cây bạch dương, đặc biệt là khi cây linh sam được phủ màn. Trong những cuộc thí nghiệm sau này, chúng tôi lại khám phá ra điều ngược lại, rằng cây linh sam chuyển nhiều cacbon cho cây bạch dương hơn, bởi vì cây linh sam vẫn lớn lên trong khi cây bạch dương rụng hết lá. Và hóa ra rằng hai loài này phụ thuộc lẫn nhau, như là yin và yang.
And at that moment, everything came into focus for me. I knew I had found something big, something that would change the way we look at how trees interact in forests, from not just competitors but to cooperators. And I had found solid evidence of this massive belowground communications network, the other world.
Và lúc đó, mọi chuyện đã trở nên rõ ràng với tôi Tôi biết rằng tôi đã có một phát hiện lớn, cái mà sẽ thay đổi cách mà chúng ta nhìn nhận về cách thức mà những cái cây sử dụng để tương tác với nhau không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn có cả hợp tác. Và tôi đã tìm ra bằng chứng vững chắc cho mạng lưới giao tiếp ngầm đồ sộ này, và một thế giới khác.
Now, I truly hoped and believed that my discovery would change how we practice forestry, from clear-cutting and herbiciding to more holistic and sustainable methods, methods that were less expensive and more practical. What was I thinking? I'll come back to that.
Bây giờ, tôi thật sự hy vọng và tin rằng khám phá của tôi sẽ thay đổi cách chúng ta sử dụng lâm nghiệp, từ chặt phá và phun chất hóa học trở thành những phương pháp toàn diện và bền vững hơn, những phương pháp mà ít đắt đỏ hơn và thực tế hơn. Lúc đó tôi đang nghĩ gì? Tôi sẽ quay lại thời điểm đó.
So how do we do science in complex systems like forests? Well, as forest scientists, we have to do our research in the forests, and that's really tough, as I've shown you. And we have to be really good at running from bears. But mostly, we have to persevere in spite of all the stuff stacked against us. And we have to follow our intuition and our experiences and ask really good questions. And then we've got to gather our data and then go verify. For me, I've conducted and published hundreds of experiments in the forest. Some of my oldest experimental plantations are now over 30 years old. You can check them out. That's how forest science works.
Làm cách nào mà chúng tôi làm thí nghiệm trong một môi trường phức tạp như rừng cây? Là những nhà khoa học về rừng, chúng tôi phải thực hiện nghiên cứu trong những khu rừng Và điều đó thực sự rất khó khăn, như tôi đã chỉ cho các bạn thấy. Và chúng tôi phải thực sự giỏi trong việc chạy trốn khỏi lũ gấu. Nhưng hơn cả, chúng tôi phải kiên trì Mặc cho tất cả những thứ chồng chất lên chúng tôi. Và chúng tôi phải nghe theo trực giác và kinh nghiệm của mình và biết đặt ra những câu hỏi. Sau đó chúng tôi phải thu thập dữ liệu và xác nhận chúng. Đối với tôi, tôi đã thực hiện và công bố hàng trăm cuộc thí nghiệm trong rừng. Một vài trong số những vườn ươm lâu đời nhất của tôi hiện nay đã 30 năm tuổi rồi. Bạn có thể đến đến thăm chúng. Đó là cách mà khoa học rừng hoạt động.
So now I want to talk about the science. How were paper birch and Douglas fir communicating? Well, it turns out they were conversing not only in the language of carbon but also nitrogen and phosphorus and water and defense signals and allelochemicals and hormones -- information. And you know, I have to tell you, before me, scientists had thought that this belowground mutualistic symbiosis called a mycorrhiza was involved. Mycorrhiza literally means "fungus root." You see their reproductive organs when you walk through the forest. They're the mushrooms. The mushrooms, though, are just the tip of the iceberg, because coming out of those stems are fungal threads that form a mycelium, and that mycelium infects and colonizes the roots of all the trees and plants. And where the fungal cells interact with the root cells, there's a trade of carbon for nutrients, and that fungus gets those nutrients by growing through the soil and coating every soil particle. The web is so dense that there can be hundreds of kilometers of mycelium under a single footstep. And not only that, that mycelium connects different individuals in the forest, individuals not only of the same species but between species, like birch and fir, and it works kind of like the Internet.
Bây giờ tôi muốn nói về khoa học. Bằng cách nào mà cây roi và cây linh sam trò chuyện với nhau? Sự thật là chúng đã trao đổi không chỉ bằng ngôn ngữ cacbon và còn thông qua ni-tơ và và phốt-pho nước, những dấu hiệu phòng ngự, những hóa chất Alen và kích thích tố -- những thông tin. Và bạn biết rồi đấy, tôi phải nói rằng, trước tôi, những nhà khoa học đã nghĩ rằng trong quá trình cộng sinh dưới đất ngầm này có một loài gọi là Mycorrhiza đã tham gia vào. Mycorrhiza nghĩa là "nấm rễ cộng sinh". Các bạn sẽ thấy chúng sinh sôi nảy nở khi các bạn đi xuyên qua khu rừng. Chúng là nấm. Những cây nấm, thế nhưng, chỉ là bề nổi của tảng băng trôi mà thôi, bởi vì lấy ra từ những thân cây đó là những sợi nấm cấu tạo nên khuẩn ty thể và khuẩn ty thể đó ăn sâu và chiếm đóng rễ của toàn bộ cây cối. Và ở nơi mà tế bào nấm tương tác với tế bào rễ, diễn ra một sự trao đổi cacbon để lấy dinh dưỡng, và nấm sẽ lấy chất dinh dưỡng đó bằng cách phát triển qua đất và bao phủ lên mọi mẩu đất. Mạng lưới đó dày đặc đến nỗi mà có thể có hàng trăm ki-lô-mét khuẩn ty thể chỉ bên dưới một bước chân. Và không chỉ thế, khuẩn ty thể đó còn kết nối những cá thể khác trong khu rừng, những cá thể đó không chỉ cùng loài, mà còn là giữa các loài, như roi và linh sam và nó hoạt động tương tự như mạng Internet.
You see, like all networks, mycorrhizal networks have nodes and links. We made this map by examining the short sequences of DNA of every tree and every fungal individual in a patch of Douglas fir forest. In this picture, the circles represent the Douglas fir, or the nodes, and the lines represent the interlinking fungal highways, or the links.
Các bạn thấy đấy, như tất cả mạng lưới khác, mạng lưới nấm rễ cộng sinh cũng có những điểm giao và đường dẫn. Chúng tôi vẽ ra sơ đồ này bằng cách nghiên cứu những chuỗi DNA ngắn của mọi cái cây và mọi cá thể nấm trong một mảnh rừng linh sam Trong bức hình này, những vòng tròn đại diện cho cây linh sam, hay những điểm giao và những đường thẳng đại diện cho những con đường nấm nối nhau, hay những đường dẫn
The biggest, darkest nodes are the busiest nodes. We call those hub trees, or more fondly, mother trees, because it turns out that those hub trees nurture their young, the ones growing in the understory. And if you can see those yellow dots, those are the young seedlings that have established within the network of the old mother trees. In a single forest, a mother tree can be connected to hundreds of other trees. And using our isotope tracers, we have found that mother trees will send their excess carbon through the mycorrhizal network to the understory seedlings, and we've associated this with increased seedling survival by four times.
Những điểm giao lớn nhất, tối màu nhất là những điểm giao bận rộn nhất. Chúng tôi gọi chúng là những cây trung tâm, hoặc trìu mến hơn, những cây mẹ, bởi vì hóa ra những cây trung tâm đó nuôi dưỡng cây con, những cây sinh trưởng ở tầng dưới tán. Và nếu các bạn có thể thấy những chấm màu vàng ở kia, chúng là những cây con thành lập bên trong mạng lưới của những cây mẹ già hơn. Trong mỗi khu rừng, một cây mẹ có thể được kết nối đến hàng trăm cây khác Và bằng việc sử dụng máy dò chất đồng vị, chúng tôi khám phá ra rằng những cây mẹ sẽ chuyển lượng cacbon thừa qua mạng lưới nấm rễ cộng sinh đến những cây giống con ở tầng dưới tán, và chúng tôi lên kết điều này với vệc khả năng sống sót của cây con tăng đến bốn lần.
Now, we know we all favor our own children, and I wondered, could Douglas fir recognize its own kin, like mama grizzly and her cub? So we set about an experiment, and we grew mother trees with kin and stranger's seedlings. And it turns out they do recognize their kin. Mother trees colonize their kin with bigger mycorrhizal networks. They send them more carbon below ground. They even reduce their own root competition to make elbow room for their kids. When mother trees are injured or dying, they also send messages of wisdom on to the next generation of seedlings. So we've used isotope tracing to trace carbon moving from an injured mother tree down her trunk into the mycorrhizal network and into her neighboring seedlings, not only carbon but also defense signals. And these two compounds have increased the resistance of those seedlings to future stresses. So trees talk.
Mà, ta nhận thấy rằng tất thảy chúng ta luôn yêu thương con cái của mình, và tôi tự hỏi, liệu cây linh sam có nhận ra họ hàng của nó, như gấu xám mẹ và gấu con không? Nên chúng tôi đã thực hiện một thí nghiệm, chúng tôi trồng cây những cây mẹ cùng với cây con của chúng và cây giống khác, Và hóa ra chúng vẫn nhận biết được họ hàng của mình. Những cây mẹ chiếm đóng họ hàng của chúng với một mạng lưới nấm rễ cộng sinh lớn hơn Chúng chuyển nhiều cacbon xuống đất ngầm hơn Chúng thậm chí còn hạn chế sự tranh giành giữa những cái rễ để tạo nên một khoảng không gian cho con của chúng. Khi cây mẹ bị thương hoặc chết đi, chúng vẫn chuyển những thông điệp trí khôn đến thế hệ cây con sau Chúng tôi lại dùng máy dò chất đồng vị để dò cacbon di chuyển từ cây mẹ đang bị thương xuống thân của nó đi vào mạng lưới nấm rễ cộng sinh và đến với cây con lân cận, không chỉ có cacbon mà còn có những tín hiệu phòng ngự. Và hai chất này đã tăng sức đề kháng của những con đối với những căng thẳng trong tương lai Vậy nên những cái cây biết nói chuyện.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you.
Cảm ơn.
Through back and forth conversations, they increase the resilience of the whole community. It probably reminds you of our own social communities, and our families, well, at least some families.
Thông qua những cuộc trò chuyện qua lại, chúng làm tăng khả năng chống chọi của toàn bộ cộng đồng. Điều này có lẽ sẽ nhắc nhở bạn về cộng đồng, và gia đình của chúng ta, à thì, ít nhất là một vài gia đình.
(Laughter)
(Cười)
So let's come back to the initial point. Forests aren't simply collections of trees, they're complex systems with hubs and networks that overlap and connect trees and allow them to communicate, and they provide avenues for feedbacks and adaptation, and this makes the forest resilient. That's because there are many hub trees and many overlapping networks. But they're also vulnerable, vulnerable not only to natural disturbances like bark beetles that preferentially attack big old trees but high-grade logging and clear-cut logging. You see, you can take out one or two hub trees, but there comes a tipping point, because hub trees are not unlike rivets in an airplane. You can take out one or two and the plane still flies, but you take out one too many, or maybe that one holding on the wings, and the whole system collapses.
Chúng ta hãy quay lại điểm xuất phát, Rừng không chỉ đơn giản là một nơi tập hợp rất nhiều cây, mà chúng là hệ thống phức tạp hơn với những trung tâm và mạng lưới chồng chéo lên nhau, kết nối những cái cây và cho phép chúng trò chuyện chúng cung cấp những con đường cho việc phản hồi và thích nghi, và điều này làm khu rừng trở nên sôi nổi Đó là bởi vì có rất nhiều cây mẹ và nhiều mạng lưới chồng chéo. Những chúng cũng rất dễ gặp nguy hiểm, nguy hiểm không chỉ từ việc bị quấy nhiễu bởi tự nhiên như những con bọ cánh cứng thích tấn công những cây cổ thụ lớn mà còn từ việc chặt chọn lọc và chặt trắng. Các bạn thấy đấy, các bạn có thể chặt một hoặc hai cây mẹ, nhưng điều gì cũng có giới hạn của nó, bởi vì cây mẹ giống như những cái đinh của một chiếc máy bay. Nếu các bạn tháo ra một hoặc hai cái, chiếc máy bay vẫn bay ngon lành, nhưng nếu bạn tháo ra quá nhiều, hoặc tóm lấy cánh của nó, toàn bộ hệ thống sẽ sụp đổ tức thì.
So now how are you thinking about forests? Differently?
Vậy bây giờ các bạn đang nghĩ gì về những khu rừng? Khác hơn rồi chứ?
(Audience) Yes.
(Khán giả) Đúng vậy.
Cool. I'm glad.
Tuyệt. Tôi rất vui.
So, remember I said earlier that I hoped that my research, my discoveries would change the way we practice forestry. Well, I want to take a check on that 30 years later here in western Canada.
Vậy, nhớ lại những gì tôi nói trước đó rằng tôi hy vọng nghiên cứu của tôi, những khám phá của ôi sẽ thay đổi cách mọi người lợi dụng lâm nghiệp. Tôi muốn kiếm tra 30 năm sau đó ở đây tại miền Tây Canada này.
This is about 100 kilometers to the west of us, just on the border of Banff National Park. That's a lot of clear-cuts. It's not so pristine. In 2014, the World Resources Institute reported that Canada in the past decade has had the highest forest disturbance rate of any country worldwide, and I bet you thought it was Brazil. In Canada, it's 3.6 percent per year. Now, by my estimation, that's about four times the rate that is sustainable.
Nơi này cách chúng ta khoảng 100 ki-lô-mét về phía Tây, ngay trên rìa Công Viên Quốc Gia Banff Toàn là đồi trọc. Nó không còn nguyên vẹn nữa. Vào năm 2014, Viện Tài nguyên Thế giới báo cáo rằng Canada trong 10 năm trở lại đây có tỉ lệ nạn phá rừng cao hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, và tôi cá rằng các bạn đã nghĩ đó là Brazil. Ở Canada, tỉ lệ là 3.6% mỗi năm. Bây giờ, theo đánh giá của tôi, nó gấp bốn lần tỉ lệ bền vững.
Now, massive disturbance at this scale is known to affect hydrological cycles, degrade wildlife habitat, and emit greenhouse gases back into the atmosphere, which creates more disturbance and more tree diebacks.
Mà sự phá hoại hàng loạt ở phạm vi này được cho rằng sẽ ảnh hưởng đến chu kỳ thủy văn, làm xuống cấp môi trường hoang dã tự nhiên, và thải ra khí nhà kính vào tầng khí quyển, cái mà sẽ gây nên nên nhiều sự tàn phá hơn và nhiều cây bị chết mầm non hơn nữa
Not only that, we're continuing to plant one or two species and weed out the aspens and birches. These simplified forests lack complexity, and they're really vulnerable to infections and bugs. And as climate changes, this is creating a perfect storm for extreme events, like the massive mountain pine beetle outbreak that just swept across North America, or that megafire in the last couple months in Alberta.
Không chỉ vậy, chúng ta vẫn tiếp tục trồng một hoặc hai loài và chặt sạch tất cả những cây dương lá rung và cây roi. Những khu rừng bị đơn giản hóa như vậy thiếu sự đa dạng, và chúng dễ bị nhiễm bệnh và côn trùng tấn công Và khi khí hậu biến đổi, sẽ gây nên một trận cuồng phong của những sự kiện kinh hoàng, như sự bùng nổ của bọ cánh cứng đục gỗ thông đã càn quét toàn bộ vùng Bắc Mỹ, hay vụ hỏa hoạn trong một vài tháng gần đây ở Alberta
So I want to come back to my final question: instead of weakening our forests, how can we reinforce them and help them deal with climate change? Well, you know, the great thing about forests as complex systems is they have enormous capacity to self-heal. In our recent experiments, we found with patch-cutting and retention of hub trees and regeneration to a diversity of species and genes and genotypes that these mycorrhizal networks, they recover really rapidly. So with this in mind, I want to leave you with four simple solutions. And we can't kid ourselves that these are too complicated to act on.
Vậy tôi muốn quay lại câu hỏi cuối cùng: thay vì làm suy tàn những khu rừng, làm thế nào ta có thể củng cố lại chúng và giúp chúng đương đầu với sự biến đổi khí hậu? Các bạn biết đấy, điều vĩ đại ở những khu rừng và cũng là những hệ thống phức tạp đó là việc chúng có một khả năng tự chữa lành cực kì mạnh mẽ. Trong những cuộc thí nghiệm gần đây, Chúng tôi nhận ra, với việc cắt mảnh và sự duy trì của cây mẹ và sự tái sinh cho sự đa dạng loài, gen và kiểu gen rằng những mạng lưới nấm rễ cộng sinh này, phục hồi rất nhanh chóng. Với ý tưởng này, tôi muốn chỉ cho bạn 4 giải pháp đơn giản sau đây. Chúng ta không thể lừa phỉnh chính mình rằng chúng quá phức tạp để thực hiện.
First, we all need to get out in the forest. We need to reestablish local involvement in our own forests. You see, most of our forests now are managed using a one-size-fits-all approach, but good forest stewardship requires knowledge of local conditions.
Đầu tiên, ta đều cần phải đi ra khỏi những khu rừng Ta cần phải tái thiết sự can thiệp địa phương vào khu rừng của chính chúng ta. Các bạn thấy đấy, hầu hết những khu rừng bây giờ được quản lí theo phương pháp một cách áp dụng cho tất cả, nhưng khả năng quản lí rừng tốt đòi hỏi phải có kiến thức về điều kiện địa phương.
Second, we need to save our old-growth forests. These are the repositories of genes and mother trees and mycorrhizal networks. So this means less cutting. I don't mean no cutting, but less cutting.
Thứ hai, ta cần bảo vệ lấy những khu rừng già. Chúng là những kho gen, cây mẹ và mạng lưới nấm rễ cộng sinh. Đồng nghĩa với việc giảm chặt rừng. Ý tôi không phải cấm chặt, mà là hạn chế đi
And third, when we do cut, we need to save the legacies, the mother trees and networks, and the wood, the genes, so they can pass their wisdom onto the next generation of trees so they can withstand the future stresses coming down the road. We need to be conservationists.
Và thứ ba, khi chúng ta chặt cây, chúng ta phải bảo vệ di sản, những cây mẹ và mạng lưới, và gỗ, những bộ gen, để chúng có thể truyền lại trí khôn cho thế hệ cây con sau để chúng có thể chống chọi với những căng thẳng trong tương lai đang đến gần Ta cần phải trở thành những người bảo vệ môi trường thiên nhiên.
And finally, fourthly and finally, we need to regenerate our forests with a diversity of species and genotypes and structures by planting and allowing natural regeneration. We have to give Mother Nature the tools she needs to use her intelligence to self-heal. And we need to remember that forests aren't just a bunch of trees competing with each other, they're supercooperators.
Và cuối cùng, thứ tư và cũng là điều cuối cùng, ta cần phải tái tạo lại những khu rừng với sự đa dạng loài, kiểu gen và kết cấu bằng cách trồng và để cho sự tái tạo tự nhiên diễn ra. Ta cần phải cung cấp cho Mẹ Thiên Nhiên những công cụ cần thiết để sử dụng trí thông minh của bà cho việc tự chữa lành. Và ta cần phải nhớ rằng những khu rừng không chỉ là một đống cây đấu đá lẫn nhau, chúng còn là những siêu cộng tác.
So back to Jigs. Jigs's fall into the outhouse showed me this other world, and it changed my view of forests. I hope today to have changed how you think about forests.
Bây giờ quay lại với Jigs. Cú ngã của Jigs ở ngôi nhà phụ đã chỉ cho tôi thấy thế giới khác này, và nó đã thay đổi cái nhìn của tôi về những khu rừng. Tôi hy vọng ngày hôm nay đã thay đổi cách các bạn nghĩ về những khu rừng.
Thank you.
Cảm ơn các bạn.
(Applause)
(Vỗ tay)