When I was nine years old, I went off to summer camp for the first time. And my mother packed me a suitcase full of books, which to me seemed like a perfectly natural thing to do. Because in my family, reading was the primary group activity. And this might sound antisocial to you, but for us it was really just a different way of being social. You have the animal warmth of your family sitting right next to you, but you are also free to go roaming around the adventureland inside your own mind. And I had this idea that camp was going to be just like this, but better.
Khi tôi chín tuổi tôi đi cắm trại mùa hè lần đầu tiên và mẹ tôi đóng hành lý cho tôi đầy một va ly toàn sách với tôi đó là một việc hoàn toàn tự nhiên. Bời trong gia đình tôi đọc sách là hoạt động nhóm thiết yếu điều này nghe có vẻ rất thiếu tính giao du xã hội với các bạn, nhưng với chúng tôi đó chính là một cách khác để hòa đồng Bạn có sự gần gũi thể chất với gia đình ngồi ngay cạnh bạn. nhưng bạn lại cũng có sự tự do để rong khắp những vùng đất phiêu lưu trong tâm trí bạn và tôi đã có ý tưởng này rằng trại hè cũng sẽ diễn ra y như thế, nhưng còn hay hơn
(Laughter)
(cười)
I had a vision of 10 girls sitting in a cabin cozily reading books in their matching nightgowns.
Tôi tưởng tượng ra cảnh 10 cô bé trên mạn thuyền thoải mái đọc sách trong bộ đồ ngủ giống nhau
(Laughter)
(cười)
Camp was more like a keg party without any alcohol. And on the very first day, our counselor gathered us all together and she taught us a cheer that she said we would be doing every day for the rest of the summer to instill camp spirit. And it went like this: "R-O-W-D-I-E, that's the way we spell rowdie. Rowdie, rowdie, let's get rowdie."
Trại hè giống như một bữa tiệc không rượu Và ngay vào ngày đầu tiên cô giám thị tập hợp chúng tôi lại và cô dạy chúng tôi lời cổ vũ mà cô nói chúng tôi sẽ làm mỗi ngày trong suốt cả mùa hè để thấm nhuần tình thần trại và lời cổ vũ đó như thế này "Ồ-N À-O-O" đó là cách chúng ta đánh vần ồn àoo ồn àoo, ồn àoo, nào hãy ồn àoo
(Laughter)
Yeah. So I couldn't figure out for the life of me why we were supposed to be so rowdy, or why we had to spell this word incorrectly.
Y.eah Cả đời này tôi mãi vẫn không thể hiểu ra tại sao chúng tôi phải ồn ào, và tại sao chúng tôi phải đánh vần chữ đó sai.
(Laughter)
(cười)
But I recited a cheer. I recited a cheer along with everybody else. I did my best. And I just waited for the time that I could go off and read my books.
Nhưng tôi thuộc lòng bải cổ vũ. Tôi học thuộc cùng với mọi người. Tôi cố hết sức có thể. Và tôi đợi đến lúc tôi có thể ngồi xuống và đọc sách.
But the first time that I took my book out of my suitcase, the coolest girl in the bunk came up to me and she asked me, "Why are you being so mellow?" -- mellow, of course, being the exact opposite of R-O-W-D-I-E. And then the second time I tried it, the counselor came up to me with a concerned expression on her face and she repeated the point about camp spirit and said we should all work very hard to be outgoing.
Nhưng lần đầu tiên mà tôi cầm cuốn sách ra khỏi va ly, bé gái tuyệt nhất trong khu lại gần tôi và hỏi "sao bạn lại im lặng như thế ?"-- im lặng, dĩ nhiên rồi , đó là từ hoàn toàn trái ngược với Ồ-N À-O-O Và lần thứ hai tôi thử, giám thị đến gặp tôi với bộ mặt lo lắng và lập lại tình thần cắm trại và nói chúng ta nên cố gắng để hòa đồng.
And so I put my books away, back in their suitcase, and I put them under my bed, and there they stayed for the rest of the summer. And I felt kind of guilty about this. I felt as if the books needed me somehow, and they were calling out to me and I was forsaking them. But I did forsake them and I didn't open that suitcase again until I was back home with my family at the end of the summer.
Và thế là tôi cất sách đi, vào va ly và nhét dưới gầm giường, và đó là nơi những quyển sách ở cả mùa hè. Tôi cảm thấy hơi tội lỗi về điều này. Tôi cảm thấy như thể những quyển sách cần tôi, và chúng kêu gọi tôi mà tôi lại bỏ rơi chúng. nhưng tôi bỏ rơi chúng thật và tôi đã không mở vali lần nào nữa cho đến khi tôi quay về nhà
Now, I tell you this story about summer camp. I could have told you 50 others just like it -- all the times that I got the message that somehow my quiet and introverted style of being was not necessarily the right way to go, that I should be trying to pass as more of an extrovert. And I always sensed deep down that this was wrong and that introverts were pretty excellent just as they were. But for years I denied this intuition, and so I became a Wall Street lawyer, of all things, instead of the writer that I had always longed to be -- partly because I needed to prove to myself that I could be bold and assertive too. And I was always going off to crowded bars when I really would have preferred to just have a nice dinner with friends. And I made these self-negating choices so reflexively, that I wasn't even aware that I was making them.
vào cuối mùa hè. Giờ tôi mới chỉ kể cho các bạn nghe một câu chuyện về lần cắm trại hè. Tôi có thể kể cho bạn 50 câu chuyện khác nữa như thế-- tôi chỉ toàn nhận được những thông điệp rằng bằng cách nào đó, tính cách im lặng và hướng nội của tôi không phải là cách đúng, rằng tôi nên cố để trở nên hướng ngoại hơn. Và sâu trong tâm khảm, tôi luôn cảm thấy rằng điều này sai rằng những người hướng nội rất tuyệt khi họ là chính họ Nhưng nhiều năm tôi từ chối trực giác này và, trong tất cả các nghề, tôi trở thành một luật sư của phố Wall, thay vì trở thành một nhà văn như tôi hằng mong muốn-- một phần vì tôi cần chứng tỏ với bản thân rằng tôi cũng táo bạo và quả quyết. Tôi luôn đi đến những quán bar đông đúc trong khi tôi thực sự muốn một bữa tối với những người bạn. và tôi lựa chọn những hành động tự phủ định bản thân mình như thế một một phản xạ tự nhiên, đến nỗi tôi không phát hiện ra mình đang làm như thế.
Now this is what many introverts do, and it's our loss for sure, but it is also our colleagues' loss and our communities' loss. And at the risk of sounding grandiose, it is the world's loss. Because when it comes to creativity and to leadership, we need introverts doing what they do best. A third to a half of the population are introverts -- a third to a half. So that's one out of every two or three people you know. So even if you're an extrovert yourself, I'm talking about your coworkers and your spouses and your children and the person sitting next to you right now -- all of them subject to this bias that is pretty deep and real in our society. We all internalize it from a very early age without even having a language for what we're doing.
Đây cũng là điều nhiều người hướng nội làm và đó chính là chắc chắn là sự thiệt thòi của chúng tôi nhưng đó cũng là sự thiệt thòi đối với cả đồng nghiệp và sự thiệt thòi của cả cộng đồng chúng ta. Và tuy mạo hiểm với việc dùng những từ khoa trương sáo rỗng, tôi cho đó là thiệt thòi của cả thế giới Bởi vì khi nói đến sự sáng tạo và khả năng lãnh đạo chúng ta cần những người hướng nội làm điều mà họ làm tốt nhất một phần ba đến một nửa thế giới là những người hướng nội-- một phần ba đến một nửa. Có nghĩa là cứ trong hai hay ba người thì sẽ có một người hướng nội. Vì thế ngay cả bạn là người hướng ngoại, Tôi đang nói về bạn đồng nghiệp của bạn bạn đời hay con cái bạn và người ngồi cạnh bạn ngay lúc này-- tất cả đều có thành kiến này nó rất sâu sắc và tồn tại thực trong xã hội chúng ta. Tất cả chúng ta đều tiếp thu nó từ rất sớm khi không có cả cái để diễn đạt cho điều chúng ta đang làm.
Now, to see the bias clearly, you need to understand what introversion is. It's different from being shy. Shyness is about fear of social judgment. Introversion is more about, how do you respond to stimulation, including social stimulation. So extroverts really crave large amounts of stimulation, whereas introverts feel at their most alive and their most switched-on and their most capable when they're in quieter, more low-key environments. Not all the time -- these things aren't absolute -- but a lot of the time. So the key then to maximizing our talents is for us all to put ourselves in the zone of stimulation that is right for us.
Giờ hãy cùng tôi xem xét thành kiến này một cách rõ ràng bạn cần phải hiểu sự hướng nội là gì. Nó khác với việc e dè xấu hổ Xấu hổ là sự sợ hãi bị xã hội đánh giá. Hướng nội thiên về cách bạn phản ứng với kích thích, bao gồm kích thích xã hội. Nhũng người hướng ngoại khao khát một số lượng lớn kích thích, trái lại những người hướng nội cảm thấy họ sôi nổi nhất và hào hứng nhất và có năng lực nhất là khi họ yên tĩnh và trong môi trường ít kích thích. Không phải là lúc nào cũng thế--những điều này không tuyệt đối-- nhưng phần lớn là thế. Vì thế chìa khóa để tối đa tài năng của chúng ta là đặt chúng ta vào
But now here's where the bias comes in. Our most important institutions, our schools and our workplaces, they are designed mostly for extroverts and for extroverts' need for lots of stimulation. And also we have this belief system right now that I call the new groupthink, which holds that all creativity and all productivity comes from a very oddly gregarious place.
vùng kích thích thích hợp Nhưng đây là lúc thành kiến đó tồn tại. Những tổ chức có tầm quan trọng nhất, như trường học và nơi làm việc của chúng ta, được thiết kế hầu hết là cho những con người hướng ngoại và cho nhu cầu nhiều kích thích của những con người hướng ngoại. Và ngay lúc này chúng ta cũng có một hệ niềm tin mà tôi gọi là cách suy nghĩ mang tính cộng đồng, gây kìm hãm tính sáng tạo và tính sản xuất đến từ một nơi mang tính xã hội lạ thường.
So if you picture the typical classroom nowadays: When I was going to school, we sat in rows. We sat in rows of desks like this, and we did most of our work pretty autonomously. But nowadays, your typical classroom has pods of desks -- four or five or six or seven kids all facing each other. And kids are working in countless group assignments. Even in subjects like math and creative writing, which you think would depend on solo flights of thought, kids are now expected to act as committee members. And for the kids who prefer to go off by themselves or just to work alone, those kids are seen as outliers often or, worse, as problem cases. And the vast majority of teachers reports believing that the ideal student is an extrovert as opposed to an introvert, even though introverts actually get better grades and are more knowledgeable, according to research.
Nếu bạn mường tượng một lớp học điển hình ngày nay: Hồi tôi đi học chúng tôi ngồi theo dãy. Chúng tôi ngồi trên những dãy bàn thế này, và chúng tôi làm mọi việc một cách thật tự lập. Nhưng ngày nay, lớp học điển hình của các bạn là có những bàn quay vào nhau bốn hay năm hay sáu đứa trẻ đối mặt với nhau. và bọn trẻ sẽ thực hành một đống những bài tập không đếm xuể. Ngay cả trong môn toán hay viết văn sáng tạo, những môn mà bạn nghĩ mình sẽ tự chiến đấu một mình, giới trẻ được cho rằng chúng phải hoạt động với vai trò là một thành viên của nhóm. Và với những đứa trẻ thích ra ngoài một mình và làm việc độc lập hơn, những đứa trẻ đó thường bị xem là những người tách khỏi nhóm hay tệ hơn là những trường hợp có vấn đề. Và đa số những báo cáo của các giáo viên tin rằng học sinh lý tưởng là những đứa trẻ hướng ngoại trái ngược với những đứa trẻ hướng nội, mặc dù những đứa trẻ hướng nội thực chất đạt được điểm số cao hơn và hiểu biết nhiều hơn theo nghiên cứu cho biết.
(Laughter)
(cười)
Okay, same thing is true in our workplaces. Now, most of us work in open plan offices, without walls, where we are subject to the constant noise and gaze of our coworkers. And when it comes to leadership, introverts are routinely passed over for leadership positions, even though introverts tend to be very careful, much less likely to take outsize risks -- which is something we might all favor nowadays. And interesting research by Adam Grant at the Wharton School has found that introverted leaders often deliver better outcomes than extroverts do, because when they are managing proactive employees, they're much more likely to let those employees run with their ideas, whereas an extrovert can, quite unwittingly, get so excited about things that they're putting their own stamp on things, and other people's ideas might not as easily then bubble up to the surface.
Và điều tương tự xảy ra trong nơi làm việc của chúng ta. Hầu hết chúng ta làm việc trong những văn phòng mở, không có những bức tường, nơi mà chúng ta luôn phải nghe những tiếng ồn và chịu sự dòm ngó của đồng nghiệp. Và khi nói đến lãnh đạo, những người hướng nội theo lệ là không được xem xét cho những vị trí lãnh đạo dù những người hướng nội có xu hướng cẩn thận hơn, ít có khả năng đưa ra những lựa chọn quá mạo hiểm-- điều mà ngày nay tất cả chúng ta cho là một đặc điểm quan trọng của vị trí lãnh đạo. Và một nghiên cứu thú vị của Adam Grant ở trường Wharton cho biết rằng những nhà lãnh đạo mang tính cách hướng nội thường mang đến những thành quả tốt hơn những nhà lãnh đạo hướng ngoại bới nếu họ quản lý những nhân viên hoạt bát họ thường để cho những nhân viên đó tự do chạy theo những ý tưởng của họ trong khi những nhà lãnh đạo hướng ngoại có thể, nhiều lúc quá hưng phấn về mọi thứ đến nỗi họ áp đặt ý tưởng của họ lên tất cả mọi thứ, và ý tường của những người khác không thể dễ dàng
Now in fact, some of our transformative leaders in history have been introverts.
mà nổi lên được bề mặt.
I'll give you some examples. Eleanor Roosevelt, Rosa Parks, Gandhi -- all these people described themselves as quiet and soft-spoken and even shy. And they all took the spotlight, even though every bone in their bodies was telling them not to. And this turns out to have a special power all its own, because people could feel that these leaders were at the helm not because they enjoyed directing others and not out of the pleasure of being looked at; they were there because they had no choice, because they were driven to do what they thought was right.
Thực tế, một số nhà lãnh đạo cải cách của chúng ta trong lịch sử là những người hướng nội Tôi sẽ cho bạn vài ví dụ Eleanor Roosevelt, Rosa Parks, Gandhi tất cả những người này đều miêu tả chính mình là hay im lặng, ăn nói mềm mỏng và thậm chí có tính hay xấu hổ. Và rồi tất cả họ đều đứng ở trung tâm chú ý nhất, dù từng tế bào trong cơ thể họ kêu gào họ đừng làm thế và điều này hóa ra chính nó lại có một sức mạnh đặc biệt bời con người có thể cảm thấy những nhà lãnh đạo này đang cầm lái, không phải vì họ thích chỉ đạo người khác và không phải họ thích được nhìn ngắm; họ lãnh đạo vì họ không có cách nào khác, bởi họ bị thúc đẩy làm điều họ nghĩ là đúng.
Now I think at this point it's important for me to say that I actually love extroverts. I always like to say some of my best friends are extroverts, including my beloved husband. And we all fall at different points, of course, along the introvert/extrovert spectrum. Even Carl Jung, the psychologist who first popularized these terms, said that there's no such thing as a pure introvert or a pure extrovert. He said that such a man would be in a lunatic asylum, if he existed at all. And some people fall smack in the middle of the introvert/extrovert spectrum, and we call these people ambiverts. And I often think that they have the best of all worlds. But many of us do recognize ourselves as one type or the other.
Tôi nghĩ lúc này tôi muốn nói một điều quan trọng là tôi thực chất thích những người hướng ngoại. Tôi luôn nói rằng vài người bạn tôi là người hướng ngoại, bao gồm cả người chồng yêu quý của tôi. Dĩ nhiên tất cả chúng ta rơi vào những điểm khác nhau giữa hai vùng hướng nội hay hướng ngoại. Ngay cả Carl Jung, nhà tâm lý người đả làm phổ biến những cụm từ này đã nói không có cái gọi là hoàn toàn hướng nội hay hoàn toàn hướng ngoại Ông nói nếu tồn tại một ngừơi như thế chăng nữa có lẽ ông ta là một người già mất trí. Có một số người sẽ rơi ngay chính giữa vùng hướng nội và hướng ngoại, chúng ta gọi những người đó là ambivert (vừa hướng nội vừa hướng ngoại) Và tôi thường nghĩ họ có được những điều hay ho nhất của hai thế giới. Nhưng nhiều người trong chúng ta cho mình là một trong hai loại.
And what I'm saying is that culturally, we need a much better balance. We need more of a yin and yang between these two types. This is especially important when it comes to creativity and to productivity, because when psychologists look at the lives of the most creative people, what they find are people who are very good at exchanging ideas and advancing ideas, but who also have a serious streak of introversion in them.
Điều tôi muốn nói ởi đây là chúng ta cần sự cân bằng tốt hơn. Chúng ta cần có cả âm và dương giữa hai loại này. Điều này đặc biệt quan trọng bởi nó liên quan mật thiết đến sáng tạo và năng suất làm việc, bới khi các nhà tâm lý học nhìn vào cuộc sống của những người sáng tạo nhất, và cái họ tìm thấy là những con người giỏi trao đổi ý tưởng và tiến hành ý tưởng nhưng cũng là những con người có nét hướng nội rõ ràng trong họ
And this is because solitude is a crucial ingredient often to creativity. So Darwin, he took long walks alone in the woods and emphatically turned down dinner-party invitations. Theodor Geisel, better known as Dr. Seuss, he dreamed up many of his amazing creations in a lonely bell tower office that he had in the back of his house in La Jolla, California. And he was actually afraid to meet the young children who read his books for fear that they were expecting him this kind of jolly Santa Claus-like figure and would be disappointed with his more reserved persona. Steve Wozniak invented the first Apple computer sitting alone in his cubicle in Hewlett-Packard where he was working at the time. And he says that he never would have become such an expert in the first place had he not been too introverted to leave the house when he was growing up.
Và điều này là bởi tính đơn độc là yếu tố không thể thiếu với sự sáng tạo. Vì thế mà Darwin, ông hay tản bộ trong rừng mạnh mẽ từ chối những lời mời ăn tối. Theodor Geisel, được biết đến nhiều hơn với cái tên giáo sư Seuss ông ấy nằm mơ về những tác phẩm kỳ diệu của mình trong văn phòng gác chuông lẻ lôi mà ông ấy có phía sau nhà ở La Jolla bang California Ông ấy thực chất sợ gặp những người đọc nhỏ tuổi của ông ấy sợ rằng chúng sẽ trông mong thấy một người như ông già noel dạng như ông già noel thế này và sẽ thất vọng với tính cách dè dặt của ông ấy. Steve Woznial sáng tạo ra chiếc máy tính Apple đầu tiên ngồi một mình trong chiếc hộp của mình ở Hewlett-Packard nơi ông ấy làm việc. Và ông ấy nói rằng ông ấy sẽ không bao giờ trở thành nhà chuyên môn ngay từ đầu nếu ông ấy không quá hướng nội đến mức không rời khỏi nhà mình trong quãng thời gian khi ông lớn lên.
Now, of course, this does not mean that we should all stop collaborating -- and case in point, is Steve Wozniak famously coming together with Steve Jobs to start Apple Computer -- but it does mean that solitude matters and that for some people it is the air that they breathe. And in fact, we have known for centuries about the transcendent power of solitude. It's only recently that we've strangely begun to forget it. If you look at most of the world's major religions, you will find seekers -- Moses, Jesus, Buddha, Muhammad -- seekers who are going off by themselves alone to the wilderness, where they then have profound epiphanies and revelations that they then bring back to the rest of the community. So, no wilderness, no revelations.
Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không nên cộng tác-- và điểm quan trọng đó là Steve Wozniak hợp tác cùng với Steve Jobs gây dựng máy tính Apple -- nhưng nó có nghĩa là tính đơn độc quan trọng và với một số người nó như không khí cho họ thở. Và thực tế, chúng ta đã biết hàng nhiều thế kỉ nay về sức mạnh siêu việt của tính độc lập. Chỉ mới gần đây thật lạ thường là chúng ta bắt đầu quên mất nó. Nếu bạn nhìn vào hầu hết những tôn giáo phổ biến, Bạn sẽ thấy những người đi tìm Moses, Jesus, Budda,Muhammad-- người đi tìm là những người tách ra khỏi xã hội một mình đến nơi hoang vắng nơi họ tìm thấy những vị chúa và sự khai sáng rồi họ mang về phổ biến lại cho cộng đồng. Vậy nên không có sự hoang vắng ấy thì sẽ không có sự khai sáng
This is no surprise, though, if you look at the insights of contemporary psychology. It turns out that we can't even be in a group of people without instinctively mirroring, mimicking their opinions. Even about seemingly personal and visceral things like who you're attracted to, you will start aping the beliefs of the people around you without even realizing that that's what you're doing.
Không có gì đáng ngạc nhiên cả nếu bạn nhìn vào những kiến thức của tâm lý học đương đại. Hóa ra chúng ta không thể ở trong một nhóm người mà không theo bản năng, bắt chước ý kiến của những người khác. Ngay cả về những thứ riêng tư và nội tâm ví dụ như việc bạn bị cuốn hút bởi ai, bạn sẽ bắt chước niềm tin của những người xunq quanh bạn mà không hề nhận ra điều mình đang làm.
And groups famously follow the opinions of the most dominant or charismatic person in the room, even though there's zero correlation between being the best talker and having the best ideas -- I mean zero. So --
Mà tập thể nổi tiếng là làm theo những ý kiến của người nắm nhiều quyền nhất hay có sức lôi cuốn nhất trong căn phòng kia, ngay cả khi chẳng có sự liên quan gì giữa việc là một người giỏi ăn nói và việc có ý tưởng hay nhất-- ý tôi là không có một chút liên quan nào Bởi vậy...
(Laughter)
(cười)
You might be following the person with the best ideas, but you might not. And do you really want to leave it up to chance? Much better for everybody to go off by themselves, generate their own ideas freed from the distortions of group dynamics, and then come together as a team to talk them through in a well-managed environment and take it from there.
Bạn có thể cho rằng bạn đang đi theo người có những ý tưởng hay nhất, nhưng cũng có thể không. Hay bạn thực sự muốn để mặc theo tự nhiên? Sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người tách ra khơi dậy ý tưởng của riêng mình giải thoát khỏi những tác động cộng đồng và rồi sau đó mới hợp vào nhau thành một đội để tranh luận trong một môi trường được quản lý tốt và nắm quyền quản lý nó từ đó.
Now if all this is true, then why are we getting it so wrong? Why are we setting up our schools this way, and our workplaces? And why are we making these introverts feel so guilty about wanting to just go off by themselves some of the time? One answer lies deep in our cultural history. Western societies, and in particular the U.S., have always favored the man of action over the "man" of contemplation. But in America's early days, we lived in what historians call a culture of character, where we still, at that point, valued people for their inner selves and their moral rectitude. And if you look at the self-help books from this era, they all had titles with things like "Character, the Grandest Thing in the World." And they featured role models like Abraham Lincoln, who was praised for being modest and unassuming. Ralph Waldo Emerson called him "A man who does not offend by superiority."
Nếu tất cả những điều này là thực thì tại chúng ta lại hiểu sai nó như thế? Sao chúng ta lại xây dựng trường học và công sở theo cách này? Và tại sao chúng ta lại làm nhừng con người hướng nội cảm thấy tội lỗi về việc thỉnh thoảng muốn tách biệt Câu trả lời nằm sâu trong lịch sử văn hoá của chúng ta. Nền văn hóa phương Tây và đặc biệt là nước Mĩ, luôn thiên vị con người của hành động hơn là con người trầm ngâm và người đàn ông trầm ngâm Nhưng ở những ngày đầu trên đất Mĩ, chúng ta sống trong xã hội mà những nhà sử học gọi là nền văn hoá của phẩm chất, nơi mà lúc đó chúng ta vẫn coi trọng con người về tính cách bên trong họ và đạo đức ngay thẳng của họ Và nếu bạn xem xết những cuốn sách cải thiện bản thân trong thời đại này chúng đều có những cái tựa đề thế này "Tính cách, thứ quan trọng nhất trên thế giới" và họ minh hoạ bằng những hình mẫu như là Abraham Lincoln người được ca tụng cho sự khiêm nhường và không tự phụ. Ralph Waldo Emerson gọi ông ấy là "người đàn ông không gây ra sự xúc phạm bề trên"
But then we hit the 20th century, and we entered a new culture that historians call the culture of personality. What happened is we had evolved an agricultural economy to a world of big business. And so suddenly people are moving from small towns to the cities. And instead of working alongside people they've known all their lives, now they are having to prove themselves in a crowd of strangers. So, quite understandably, qualities like magnetism and charisma suddenly come to seem really important. And sure enough, the self-help books change to meet these new needs and they start to have names like "How to Win Friends and Influence People." And they feature as their role models really great salesmen. So that's the world we're living in today. That's our cultural inheritance.
Nhưng khi chúng ta bước vào thế kỉ 20 chúng ta bước vào một nền văn hoá mới nơi mà những nhà sử học gọi là nền văn hoá của tính cách Điều xảy ra là chúng ta phát tiển từ một nền kinh tế nông nghiệp thành một thế giới các doanh nghiệp. Và đột nhiên người ta di cư từ những thị trấn nhỏ lên những thành phố. Và thay vì làm việc với những con người mà họ biết cả cuộc đời giờ họ phải chứng minh bản thân trong đám đông những người lạ Và thật dễ hiểu, những đặc điểm như tính cuốn hút và sự hấp dẫn đột nhiên trở nên thật sự quan trọng. Và hiển nhiên là những cuốn sách tự cải thiện sẽ thay đổi để đáp ứng những nhu cầu mới và họ bắt đầu có những cái tên như là "Làm thế nào để có nhiều bạn và có tầm ảnh hưởng" Và minh hoạ những hình mẫu chính là những nhà bán hàng vĩ đại. Đó chính là thế giới chúng ta đang sống ngày nay. Đó chính là di sản văn hoá của chúng ta.
Now none of this is to say that social skills are unimportant, and I'm also not calling for the abolishing of teamwork at all. The same religions who send their sages off to lonely mountain tops also teach us love and trust. And the problems that we are facing today in fields like science and in economics are so vast and so complex that we are going to need armies of people coming together to solve them working together. But I am saying that the more freedom that we give introverts to be themselves, the more likely that they are to come up with their own unique solutions to these problems.
Ý tôi không phải là kĩ năng xã hội là không quan trọng và tôi cũng không kêu gọi việc huỷ bỏ việc làm nhóm Những tôn giáo gửi những tín đồ của họ lên đỉnh những ngọn núi một mình cũng dạy chúng ta tình yêu và sự tin tưởng. Vấn đề mà chúng ta đang đối mặt ngay nay trong những lĩnh vực như khoa học và kinh tế thật nhiều và phức tạp đến nỗi chúng ta sẽ cần một rất nhiều người liên hiệp với nhau để cùng giải quyết những vấn đề. Nhưng tôi đang nói rằng nếu chúng ta cho những con người hướng nội nhiều tự do hơn họ sẽ dễ dàng khám phá ra những giải pháp ấn tượng cho những vấn đề này.
So now I'd like to share with you what's in my suitcase today. Guess what? Books. I have a suitcase full of books. Here's Margaret Atwood, "Cat's Eye." Here's a novel by Milan Kundera. And here's "The Guide for the Perplexed" by Maimonides. But these are not exactly my books. I brought these books with me because they were written by my grandfather's favorite authors.
Vì thế tôi muốn chia sẻ với các bạn hôm nay trong túi của tôi có những thứ gì. Bạn thử đoán xem là gì? Sách. Tôi mang theo cả một túi đầy sách. Đây là cuốn của Margaret Atwood "con mắt mèo" Đây là tiểu thuyết của Milan Kundera. Đà đây là cuốn "Sách hướng dẫn những con người lúng túng" của Maimonides. Nhưng đây không phải là những cuốn sách của tôi Tôi mang những cuốn sách này với tôi
My grandfather was a rabbi and he was a widower who lived alone in a small apartment in Brooklyn that was my favorite place in the world when I was growing up, partly because it was filled with his very gentle, very courtly presence and partly because it was filled with books. I mean literally every table, every chair in this apartment had yielded its original function to now serve as a surface for swaying stacks of books. Just like the rest of my family, my grandfather's favorite thing to do in the whole world was to read.
bởi chúng được viết bằng những tác giả yêu thích của ông tôi. Ông tôi là một giáo sĩ do thái và là một người goá vợ sống một mình ở căn hộ nhỏ ở Brooklyn đó là nơi yêu thích của tôi khi tôi lớn lên, một phần bởi nó bao bọc trong sự hiện diện êm đềm của ông một phần vì nó chứa đầy sách. ý tôi là từng cái bàn cái ghế trong căn hộ này chuyển chứng năng ban đầu của nó thành phục vụ như là mặt phẳng cho những cuốn sách nhảy múa như tất cả những thành viên còn lại trong gia đình tôi, việc ông tôi thích làm nhất trên thế giới này là đọc sách.
But he also loved his congregation, and you could feel this love in the sermons that he gave every week for the 62 years that he was a rabbi. He would takes the fruits of each week's reading and he would weave these intricate tapestries of ancient and humanist thought. And people would come from all over to hear him speak.
nhưng ông cũng rất thích tụ tập, và bạn có thể cảm thấy tình yêu này trong bài diễn thuyết của ông ấy mỗi tuần trong 62 năm ông ấy là giáo sĩ. Ông sẽ lấy những thành quả của mỗi tuần đọc sách và ông sẽ đan kết những tấm thảm phức tạp của những suy nghĩ xa xưa của con người Người ta đến từ khắp mọi nơi để nghe ông nói.
But here's the thing about my grandfather. Underneath this ceremonial role, he was really modest and really introverted -- so much so that when he delivered these sermons, he had trouble making eye contact with the very same congregation that he had been speaking to for 62 years. And even away from the podium, when you called him to say hello, he would often end the conversation prematurely for fear that he was taking up too much of your time. But when he died at the age of 94, the police had to close down the streets of his neighborhood to accommodate the crowd of people who came out to mourn him. And so these days I try to learn from my grandfather's example in my own way.
Và đây một điều về ông tôi. Dưới vai trò nghi lễ này ông là người rất khiêm nhường và hướng nội-- nhiều đến nỗi khi ông thuyết giảng những bài giáo xứ này ông gặp khó khăn giao tiếp bằng mắt với một giáo đoàn mà ông đã thuyết giáo suốt 62 năm. Ngay cả ra khỏi giáo đường, khi bạn goi để chào ông, ông thường kết thúc cuộc đối thoại rất sớm vì sợ rằng ông chiếm quá nhiều thời gian của bạn. Nnhưng ông mất ở tuổi 94 cảnh sát phải đóng những con đường quanh nơi ông ở để chứa đám đông những con người tới tưởng niệm ông từ những ngày đó, tôi học từ ông tôi bằng cách của mình.
So I just published a book about introversion, and it took me about seven years to write. And for me, that seven years was like total bliss, because I was reading, I was writing, I was thinking, I was researching. It was my version of my grandfather's hours of the day alone in his library. But now all of a sudden my job is very different, and my job is to be out here talking about it, talking about introversion.
Vì thế tôi xuất bản cuốn sách về tính hướng nội, tôi tốn 7 năm để viết. Và với tôi bảy năm đó thực sự là một niềm hạnh phúc hoàn toàn, bởi tôi đọc, tôi viết Tôi nghĩ, tôi nghiên cứu. Đó là phiên bản của tôi về khoảng thời gian ông tôi ở một mình trong thư viện của mình. Nhưng bất chợt công việc của tôi lại khác hoàn toàn công việc của tôi là ở đây nói về điều đó, nói về tính cách hướng nội.
(Laughter)
(cười)
And that's a lot harder for me, because as honored as I am to be here with all of you right now, this is not my natural milieu.
Và nó khó khăn hơn rất nhiều, bởi vì dù tôi rất vinh dự khi ở đây với các bạn lúc này
So I prepared for moments like these as best I could.
nhưng đây không phải là môi trường của tôi
I spent the last year practicing public speaking every chance I could get. And I call this my "year of speaking dangerously."
Vì thế tôi đã chuẩn bị cho những lúc thế này bằng khả năng tốt nhất của mình. tôi dùng cả năm ngoái để thực tập cách nói chuyện trước đám đông mỗi lần tôi có thể. Và tôi gọi năm đó là " năm của việc mạo hiểm nói"
(Laughter)
(cười)
And that actually helped a lot. But I'll tell you, what helps even more is my sense, my belief, my hope that when it comes to our attitudes to introversion and to quiet and to solitude, we truly are poised on the brink on dramatic change. I mean, we are. And so I am going to leave you now with three calls for action for those who share this vision.
Và việc đó thật sự có hiệu quả rất nhiều. Nhưng tôi sẽ nói với bạn rằng cái có hiệu quả hơn cả là tri giác của tôi, niềm tin của tôi ,niềm hy vọng của tôi những thứ đến với thái độ của chúng ta với tính hướng nội, với sự im lặng và đơn độc chúng ta thực sự đang bên lề những thay đổi lớn. Ý tôi là, chúng ta đang. Vì thế tôi sẽ đưa cho các bạn lúc này ba lời kêu gọi hành động
Number one: Stop the madness for constant group work. Just stop it.
cho những con người cùng chung cách nhìn này Lời kêu gọi thứ nhất là: Hãy dừng sự điên rồ của những việc làm nhóm không ngừng.
(Laughter)
Dừng lại.
Thank you.
(cười)
(Applause)
cảm ơn
And I want to be clear about what I'm saying, because I deeply believe our offices should be encouraging casual, chatty cafe-style types of interactions -- you know, the kind where people come together and serendipitously have an exchange of ideas. That is great. It's great for introverts and it's great for extroverts. But we need much more privacy and much more freedom and much more autonomy at work. School, same thing. We need to be teaching kids to work together, for sure, but we also need to be teaching them how to work on their own. This is especially important for extroverted children too. They need to work on their own because that is where deep thought comes from in part.
(vỗ tay) Tôi muốn làm cho rõ ràng điều mình đang nói bởi tôi tin tưởng sâu sắc rằng văn phòng của chúng ta nên khuyến khích sự tương tác tự nhiên như ở quán cafe-- bạn biết đấy, dạng như nơi người ta đến và trao đổi những suy nghĩ một cách tự nhiên. Điều đó thật tuyệt. tuyệt cho những cho những con người hướng nội và tuyệt cho những người hướng ngoại Nhưng chúng ta cần nhiều riêng tư và tự do hơn nhiều sự độc lập trong công việc. Trường học, cũng như thế Chắc chắn là chúng ta cần dạy những đứa trẻ làm việc chung , nhưng chúng ta cũng cần dạy chúng làm sao để làm bài tập một mình. điều này đặc biệt quan trọng với những đứa trẻ hướng ngoại. Chúng cần tự làm một mình bởi đó chính là nơi suy nghĩ sâu nhất bắt đầu.
Okay, number two: Go to the wilderness. Be like Buddha, have your own revelations. I'm not saying that we all have to now go off and build our own cabins in the woods and never talk to each other again, but I am saying that we could all stand to unplug and get inside our own heads a little more often.
Lời kêu gọi thứ hai : hãy đi đến nơi không người Như phật, có những triết lý riêng. tôi không nói là chúng ta đều tách ra, xây một nơi riêng trong rừng không bao giờ nói chuyện với nhau, nhưng tôi nói rằng chúng ta có thể đứng một mình đi vào trong đầu của minh thường xuyên hơn một chút
Number three: Take a good look at what's inside your own suitcase and why you put it there. So extroverts, maybe your suitcases are also full of books. Or maybe they're full of champagne glasses or skydiving equipment. Whatever it is, I hope you take these things out every chance you get and grace us with your energy and your joy. But introverts, you being you, you probably have the impulse to guard very carefully what's inside your own suitcase. And that's okay. But occasionally, just occasionally, I hope you will open up your suitcases for other people to see, because the world needs you and it needs the things you carry.
Lời kêu gọi thứ ba: hãy nhìn vào hành lý của bạn chứa thứ gì tại sao bạn để nó ở đó Những người hướng ngoại, có lẽ hành lý của bạn cũng đầy sách. hoặc đầy những chai rượu hay dụng cụ lặn. Dù có gì chăng nữa ,tôi hy vọng bạn dùng những thứ đó mỗi khi có cơ hội và lôi cuốn chúng tôi với năng lượng và niềm vui của bạn. Nhưng những người hướng nội, hãy là chính bạn bạn có thể có một sự thôi thúc phải bảo vệ thật cẩn thận cái có trong hành lý của chính mình. Điều đó tốt thôi Nhưng thỉnh thoảng, chỉ thỉnh thoảng thôi tôi hy vọng bạn mở va ly cho những người khác thấy, bởi thế giới cần bạn và cần những thứ bạn mang theo.
So I wish you the best of all possible journeys and the courage to speak softly.
Và tôi chúc các bạn những chuyến đi thành công nhất và sự dũng cảm để nói nhẹ nhàng.
Thank you very much.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(vỗ tay)
Thank you. Thank you.
Cảm ơn. Xin cảm ơn.
(Applause)
(vỗ tay)