Images like this, from the Auschwitz concentration camp, have been seared into our consciousness during the 20th century and have given us a new understanding of who we are, where we've come from and the times we live in. During the 20th century, we witnessed the atrocities of Stalin, Hitler, Mao, Pol Pot, Rwanda and other genocides, and even though the 21st century is only seven years old, we have already witnessed an ongoing genocide in Darfur and the daily horrors of Iraq. This has led to a common understanding of our situation, namely, that modernity has brought us terrible violence, and perhaps that native peoples lived in a state of harmony that we have departed from, to our peril.
Những hình ảnh sau đây, được chụp tại trại tập trung Auschwitz, đã hằn sâu vào trong tâm thức của chúng ta trong suốt thế kỷ hai mươi và đã cung cấp cho ta một góc nhìn mới về bản thân ta, về nơi ta bắt đầu, và về thời đại mà ta đang sống. Vào thế kỷ hai mươi, ta đã được chứng kiến những hành động tàn ác của Stalin, Hitler, Mao, Pol Pot, Rwanda và các tội ác diệt chủng khác, và dù rằng thế kỷ hai mươi mốt mới ở năm tuổi thứ bảy, ta cũng đã chứng kiến tội ác diệt chủng đang diễn ra ở Darfur và cả những nỗi kinh hoàng đang được gieo rắc mỗi ngày ở I-rắc. Điều này đã dẫn đến sự hiểu biết chung về tình cảnh của chúng ta, ấy là tính hiện đại đã mang lại cho ta tình trạng bạo lực khủng khiếp, và có lẽ ta đã rời bỏ trạng thái hòa hợp mà người bản địa đã từng sống trong đó để tự đi đến tình cảnh nguy hiểm hiện nay.
Here is an example from an op-ed on Thanksgiving, in the "Boston Globe" a couple of years ago, where the writer wrote, "The Indian life was a difficult one, but there were no employment problems, community harmony was strong, substance abuse unknown, crime nearly nonexistent. What warfare there was between tribes was largely ritualistic and seldom resulted in indiscriminate or wholesale slaughter." Now you're all familiar with this treacle. We teach it to our children. We hear it on television and in storybooks. Now, the original title of this session was, "Everything You Know is Wrong," and I'm going to present evidence that this particular part of our common understanding is wrong, that, in fact, our ancestors were far more violent than we are, that violence has been in decline for long stretches of time, and that today, we are probably living in the most peaceful time in our species's existence.
Đây là một ví dụ được trích dẫn từ một ý kiến công luận trên tờ Boston Globe phát hành vào lễ Tạ ơn vài năm về trước. Tại đây, tác giả viết "Người Ấn Độ sống một cuộc sống khó khăn, nhưng ở đây không có các vấn đề lao động, tính gắn kết cộng đồng mạnh, không biết đến lạm dụng chất gây nghiện, tội phạm gần như không xuất hiện, xung đột giữa các bộ lạc phần lớn là liên quan tới nghi lễ và hiếm khi dẫn đến thảm sát bừa bãi hay hàng loạt." Giờ đây, các bạn đã quá quen với những lời đường mật này. Ta dạy những điều này cho con cái ta. Ta đọc được chúng từ TV, qua sách vở. Tên gốc của buổi nói chuyện hôm nay là "Mọi Điều Bạn Biết Đều Không Chuẩn Xác". và bây giờ tôi sẽ đưa ra các chứng cứ để chứng minh ta chưa thực sự hiểu rõ về vấn đề này, và rằng, trên thực tế, tổ tiên ta còn tàn bạo hơn ta rất nhiều lần, và rằng trong một khoảng thời gian dài, tình trạng bạo lực đã có sự sụt giảm, và ta đang sống ở thời kỳ yên bình nhất kể từ khi tổ tiên ta đặt chân lên mặt đất. Khi ta đang ở trong thập niên của thảm họa ở Darfur và I-rắc,
Now in the decade of Darfur and Iraq, a statement like that might seem somewhere between hallucinatory and obscene, but I'm going to try to convince you that that is the correct picture. The decline of violence is a fractal phenomenon. You can see it over millennia, over centuries, over decades and over years, although there seems to have been a tipping point at the onset of the Age of Reason in the 16th century. One sees it all over the world, although not homogeneously. It's especially evident in the West, beginning with England and Holland around the time of the Enlightenment.
lời phát biểu như trên có vẻ không thực và khó nghe. Nhưng tôi sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng đây chính là bức tranh thực tế, chính xác. Sự sụt giảm của tình trạng bạo lực là một hiện tượng kiểu mẫu lặp lại. Bạn có thể thấy được nó qua hàng thiên niên kỷ, qua nhiều thế kỷ, qua các thập kỷ và qua nhiều năm, dù rằng dường như có một điểm bùng phát xuất hiện vào đầu Thời đại Lý tính ở thế kỷ mười sáu. Điều này có thể được nhìn thấy từ khắp mọi nơi, tuy không cùng một lúc. Điều này cũng hiển hiện rõ ràng ở vùng phía Đông, bắt đầu với nước Anh và Hà Lan tại Thời kỳ Khai sáng.
Let me take you on a journey of several powers of 10 -- from the millennium scale to the year scale -- to try to persuade you of this. Until 10,000 years ago, all humans lived as hunter-gatherers, without permanent settlements or government. And this is the state that's commonly thought to be one of primordial harmony. But the archaeologist Lawrence Keeley, looking at casualty rates among contemporary hunter-gatherers, which is our best source of evidence about this way of life, has shown a rather different conclusion.
Hãy để tôi đưa bạn đi du hành ngược dòng thời gian theo cấp mũ 10 -- từ thước tỷ lệ tính theo thiên niên kỷ tới thước tỷ lệ theo năm -- để thuyết phục bạn tin điều này. Cho tới 10.000 năm trước, nhân loại sống chủ yếu nhờ săn bắt và hái lượm, sống nay đây mai đó, không có chính quyền lãnh đạo. Và tình trạng này thường được nhìn nhận như một sự hòa hợp thời nguyên thủy. Nhưng khi nhà khảo cổ học Lawrence Keeley xem xét các tỷ lệ thương vong giữa những người săn bắt, hái lượm đương thời, nguồn chứng cứ tuyệt nhất của chúng ta về phương thức sống này, thì lại cho thấy kết quả hoàn toàn khác.
Here is a graph that he put together, showing the percentage of male deaths due to warfare in a number of foraging or hunting and gathering societies. The red bars correspond to the likelihood that a man will die at the hands of another man, as opposed to passing away of natural causes, in a variety of foraging societies in the New Guinea highlands and the Amazon rain forest. And they range from a rate of almost a 60 percent chance that a man will die at the hands of another man to, in the case of the Gebusi, only a 15 percent chance. The tiny little blue bar in the lower left-hand corner plots the corresponding statistic from the United States and Europe in the 20th century, and it includes all the deaths of both World Wars. If the death rate in tribal warfare had prevailed during the 20th century, there would have been two billion deaths rather than 100 million.
Đây là biểu đồ mà ông ấy đã tổng hợp lại, biểu thị tỷ lệ phần trăm tử vong ở nam giới do các cuộc xung đột diễn ra ở các cộng đồng tìm kiếm, hoặc săn bắt và hái lượm. Các thanh đỏ phản ánh khả năng tử vong của một người nam dưới tay một người nam khác, so với tử vong vì các nguyên do tự nhiên, trong các cộng đồng hái lượm ở cao nguyên New Guinea và rừng rậm nhiệt đới Amazon. Và tỷ lệ một nam nhân tử vong dưới tay một nam nhân khác lên xuống từ 60 phần trăm đến 15 phần trăm, đối với trường hợp người Gebusi. Thanh nhỏ màu xanh ở góc dưới bên tay phải đánh dấu số liệu tương ứng từ Hoa Kỳ và Châu Âu trong thế kỷ hai mươi, bao gồm cả số người tử vong trong hai cuộc Thế chiến. Nếu xung đột bộ tộc còn thịnh hành ở thế kỷ hai mươi, thì con số tử vong sẽ lên đến hai tỷ, thay vì dừng ở 100 triệu người,
Also on the millennium scale, we can look at the way of life of early civilizations, such as the ones described in the Bible. And in this supposed source of our moral values, one can read descriptions of what was expected in warfare, such as the following, from Numbers 31: "And they warred against the Midianites as the Lord commanded Moses, and they slew all the males. And Moses said unto them, 'Have you saved all the women alive? Now, therefore, kill every male among the little ones and kill every woman that hath known man by lying with him, but all the women children that have not known a man by lying with him, keep alive for yourselves.'" In other words: kill the men, kill the children. If you see any virgins, then you can keep them alive so that you can rape them. And you can find four or five passages in the Bible of this ilk. Also in the Bible, one sees that the death penalty was the accepted punishment for crimes such as homosexuality, adultery, blasphemy, idolatry, talking back to your parents --
Đồng thời, ở thước đo thiên niên kỷ, ta có thể xem xét phương thức sống của các nền văn minh sơ khai, qua sự miêu tả trong Kinh thánh. Và trong chính nguồn tư liệu về các giá trị đạo đức này của chúng ta, ta có thể đọc được những miêu tả về những điều sẽ xảy ra ở cuộc xung đột, như trích đoạn chương 31 của Dân-Số Ký sau đây: "Và họ giao chiến với người Midianites như Chúa đã phán dặn Moses, và họ tàn sát tất cả nam giới. Và Moses nói với họ "Các ngươi giữ lại mạng cho tất cả những người phụ nữ ư? Vậy giờ hãy giết hết các bé trai và những người nữ đã thành đôi với một người nam, chỉ giữ lại bên các ngươi những người nữ chưa thành đôi với người nam nào." Nghĩa là, giết tất cả đàn ông và trẻ trai, giữ trinh nữ sống để có thể cưỡng bức họ. Bạn có thể tìm được bốn hoặc năm đoạn văn tương tự như thế này trong Kinh thánh. Cũng từ Kinh thánh, tử hình là hình phạt được công nhận cho các tội phạm như đồng tính, ngoại tình, nói lời báng bổ, thờ lạy hình tượng, cãi lời mẹ cha, --
(Laughter)
(Cười) -- và tội lượm củi trong ngày lễ Sabbath.
and picking up sticks on the Sabbath. Well, let's click the zoom lens down one order of magnitude and look at the century scale. Now, although we don't have statistics for warfare throughout the Middle Ages to modern times, we know just from conventional history that the evidence was under our nose all along that there has been a reduction in socially sanctioned forms of violence.
Nào, hãy cùng chỉnh góc nhìn xuống một mức, và xem xét thước đo thế kỷ. Dù không có số liệu thống kê các cuộc chiến tranh, xung đột diễn ra từ suốt thời kỳ Trung cổ cho đến thời hiện đại, ta hiểu được ngay từ lịch sử thường -- rằng chứng cứ chứng minh sự sụt giảm về các hình thức bạo lực được xã hội ủng hộ, chấp nhận đã xuất hiện rành rành ngay trước mắt ta.
For example, any social history will reveal that mutilation and torture were routine forms of criminal punishment. The kind of infraction today that would give you a fine, in those days, would result in your tongue being cut out, your ears being cut off, you being blinded, a hand being chopped off and so on. There were numerous ingenious forms of sadistic capital punishment: burning at the stake, disemboweling, breaking on the wheel, being pulled apart by horses and so on. The death penalty was a sanction for a long list of nonviolent crimes: criticizing the king, stealing a loaf of bread. Slavery, of course, was the preferred labor-saving device, and cruelty was a popular form of entertainment. Perhaps the most vivid example was the practice of cat burning, in which a cat was hoisted on a stage and lowered in a sling into a fire, and the spectators shrieked in laughter as the cat, howling in pain, was burned to death.
Ví dụ, bất kỳ lịch sử xã hội nào cũng sẽ cho thấy việc cắt xẻo bộ phận cơ thể người và tra tấn từng là các hình thức trừng phạt tội phạm thông thường. Nếu như ngày nay, vi phạm luật pháp chỉ bị bắt đóng phạt thì ở thời xưa, bạn sẽ bị cắt lưỡi, cắt tai, làm mù mắt, chặt tay, v..v.. Đã từng có rất nhiều các hình phạt tử hình mới lạ mà tàn bạo: thiêu sống, mổ bụng moi nội tạng, bánh xe hành hình, tứ mã phanh thây,v..v.. Án tử hình đã từng là hình phạt cho một loạt các tội phạm phi bạo lực như phê phán nhà vua, trộm một ổ bánh mì. Chiếm hữu nô lệ hẳn nhiên là phương kế tiết kiệm nhân công được ưa chuộng, và các hành vi bạo lực, tàn ác là thú vui tiêu khiển phổ biến thời xưa. Có lẽ ví dụ minh họa sống động nhất là việc thiêu sống mèo. Một con mèo sẽ được treo lên và hạ dây dần xuống biển lửa, còn người xem thì hả hê cười lớn khi nhìn con mèo kêu gào trong đau đớn tới chết.
What about one-on-one murder? Well, there, there are good statistics, because many municipalities recorded the cause of death. The criminologist Manuel Eisner scoured all of the historical records across Europe for homicide rates in any village, hamlet, town, county that he could find, and then he supplemented them with national data when nations started keeping statistics. He plotted on a logarithmic scale, going from 100 deaths per 100,000 people per year, which was approximately the rate of homicide in the Middle Ages, and the figure plummets down to less than one homicide per 100,000 people per year in seven or eight European countries. Then, there is a slight uptick in the 1960s. The people who said that rock and roll would lead to the decline of moral values actually had a grain of truth to that. But there was a decline from at least two orders of magnitude in homicide from the Middle Ages to the present, and the elbow occurred in the early 16th century.
Vậy còn tội phạm giết người thì sao? Có nhiều số liệu thống kê đáng tin về điều này, bởi có nhiều chính phủ tự trị đã ghi chép lại được nguyên nhân tử vong. Nhà tội phạm học Manuel Eisner đã lùng khắp Châu Âu các ghi chép lịch sử về tỷ lệ giết người ở bất kỳ làng, thôn xóm, thị trấn, tỉnh nào mà ông có thể tìm được, và còn bổ sung thêm các dữ liệu quốc gia từ số liệu thống kê lưu trữ của các nước. Ông đã vẽ biểu đồ trên thước đo logarit, bắt đầu từ tỷ lệ cứ 100.000 người thì có 100 vụ tử vong mỗi năm, tỷ lệ này xấp xỉ với tỷ lệ giết người ở thời kỳ Trung cổ. Và ở bảy hoặc tám nước Châu Âu, con số này còn giảm mạnh xuống thấp hơn mức cứ 100.000 người thì có một vụ giết người mỗi năm. Sau đó đã có một sự tăng nhẹ vào thập niên 1960. Những người cho rằng nhạc rock n' roll sẽ dẫn đến sự suy giảm các giá trị đạo đức thực ra lại có phần đúng. Nhưng từ thời kỳ Trung cổ đến nay, tỷ lệ giết người đã có sự sụt giảm mạnh, và trên biểu đồ xuất hiện đường uốn khúc vào đầu thế kỷ mười sáu.
Let's click down now to the decade scale. According to nongovernmental organizations that keep such statistics, since 1945, in Europe and the Americas, there has been a steep decline in interstate wars, in deadly ethnic riots or pogroms and in military coups, even in South America. Worldwide, there's been a steep decline in deaths in interstate wars. The yellow bars here show the number of deaths per war per year from 1950 to the present. And, as you can see, the death rate goes down from 65,000 deaths per conflict per year in the 1950s to less than 2,000 deaths per conflict per year in this decade, as horrific as it is. Even in the year scale, one can see a decline of violence. Since the end of the Cold War, there have been fewer civil wars, fewer genocides -- indeed, a 90 percent reduction since post-World War II highs -- and even a reversal of the 1960s uptick in homicide and violent crime. This is from the FBI uniform crime statistics. You can see that there's a fairly low rate of violence in the '50s and the '60s, then it soared upward for several decades and began a precipitous decline, starting in the 1990s, so that it went back to the level that was last enjoyed in 1960. President Clinton, if you're here: thank you.
Giờ hãy cùng chuyển sang thước đo thời gian theo thập kỷ. Theo số liệu thống kê được lưu trữ bởi các tổ chức phi chính phủ, kể từ năm 1945, ở Châu Âu và Châu Mỹ, đã có sự giảm mạnh về số lượng các cuộc chiến tranh liên tiểu bang, các cuộc bạo loạn và tàn sát sắc tộc, và các cuộc đảo chính quân sự, ngay cả ở vùng Nam Mỹ. Số lượng người tử vong trên thế giới do chiến tranh liên tiểu bang cũng giảm mạnh. Các thanh vàng phản ánh số người chết mỗi năm trong các cuộc chiến diễn ra từ năm 1950 đến thời điểm hiện tại. Và như bạn thấy, tỷ lệ tử vong mỗi năm trong mỗi vụ xung đột giảm từ 65.000 người trong thập niên 1950, xuống dưới 2000 người trong thập kỷ này. Sự sụt giảm khủng khiếp. Ngay ở thước đo năm, ta cũng có thể thấy sự sụt giảm của tình trạng bạo lực. Sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các cuộc nội chiến và các vụ diệt chủng ngày càng ít xảy ra -- thật vậy, nó đã giảm 90 phần trăm kể từ hậu Thế chiến thứ hai -- và các vụ giết người và tội phạm bạo lực cũng có sự giảm nhẹ. Đây là số liệu thống kê của FBI Uniform Crime Statistics. Bạn có thể thấy tỷ lệ bạo lực ở thập niên 50 và 60 là khá thấp, sau đó tăng mạnh trong vài thập kỷ, và rồi bắt đầu tụt dốc từ thập niên 1990, rồi lại trở lại mức đã đạt được vào năm 1960. Nếu Tổng thống Clinton có mặt ở đây, thì cho tôi được gửi lời cảm ơn tới ngài.
(Laughter)
(Cười)
So the question is: Why are so many people so wrong about something so important? I think there are a number of reasons. One of them is we have better reporting. The Associated Press is a better chronicler of wars over the surface of the earth than 16th-century monks were.
Câu hỏi là: Tại sao một điều quan trọng như vậy lại không có mấy người hiểu đúng? Tôi nghĩ là vì một số lý do sau. Một trong số đó là vì ta giỏi tường thuật hơn. Liên đoàn Báo chí giỏi ghi chép lại các cuộc chiến tranh xảy ra trên thế giới hơn bất cứ vị thầy tu nào sống ở thế kỷ mười sáu.
(Laughter)
Có một sự ảo tưởng về nhận thức.
There's a cognitive illusion. We cognitive psychologists know that the easier it is to recall specific instances of something, the higher the probability that you assign to it. Things that we read about in the paper with gory footage burn into memory more than reports of a lot more people dying in their beds of old age. There are dynamics in the opinion and advocacy markets; no one ever attracted advocates and donors by saying, "Things just seem to be getting better and better."
Chúng tôi, các nhà tâm lý học nhận thức, hiểu rằng bạn càng dễ liên tưởng cụ thể về một điều gì đó bao nhiêu, thì bạn càng tin vào sự chân thực của sự việc đó bấy nhiêu. Những câu chữ đi kèm hình ảnh bạo lực, đẫm máu mà ta thường đọc trên sách báo dễ hằn sâu vào trong tâm trí ta hơn là những báo cáo về số lượng lớn các ca tử vong do tuổi cao sức yếu. Động lực trong thị trường tư vấn và vận động chính sách cho rằng: sẽ không thể nào thu hút được những người quan tâm, ủng hộ và quyên góp chỉ bằng câu nói rằng mọi chuyện sẽ trở nên ngày một tốt đẹp hơn.
(Laughter)
(Cười)
There's guilt about our treatment of native peoples in modern intellectual life, and an unwillingness to acknowledge there could be anything good about Western culture. And, of course, our change in standards can outpace the change in behavior. One of the reasons violence went down is that people got sick of the carnage and cruelty in their time. That's a process that seems to be continuing, but if it outstrips behavior by the standards of the day, things always look more barbaric than they would have been by historic standards. So today, we get exercised -- and rightly so -- if a handful of murderers get executed by lethal injection in Texas after a 15-year appeal process. We don't consider that a couple of hundred years ago, they may have been burned at the stake for criticizing the king after a trial that lasted 10 minutes, and indeed, that that would have been repeated over and over again. Today, we look at capital punishment as evidence of how low our behavior can sink, rather than how high our standards have risen.
Có mặc cảm tội lỗi về cách ta đối xử với dân bản địa ở đời sống tri thức hiện đại, và sự không thừa nhận những điều tốt đẹp trong văn hóa phương Tây. Dĩ nhiên, sự thay đổi chuẩn mực có thể tiến triển nhanh hơn sự thay đổi hành vi. Một lý do khác cho sự sụt giảm bạo lực là mọi người đã quá chán ghét các cuộc tàn sát và sự tàn bạo diễn ra ở thời đại của họ. Quá trình này có lẽ sẽ còn tiếp diễn, nhưng nếu quá trình đó bỏ xa các hành vi theo chuẩn mực đương thời, mọi thứ sẽ trông man rợ hơn so với cách nhìn nhận theo các chuẩn mực cũ. Vậy nên hôm nay, ta sẽ luyện tập -- đúng vậy -- ví dụ có một số ít kẻ sát nhân bị xử tử bằng phương pháp tiêm thuốc độc tại Texas, sau khi trải qua quá trình kháng cáo dài 15 năm. Ta sẽ không xem xét xem nếu là vài trăm năm về trước, họ có thể bị đem lên giàn hỏa thiêu vì tội phê phán nhà vua sau phiên tòa dài 10 phút, và quả thật, điều này sẽ diễn ra lặp đi lặp lại. Giờ đây, ta nhìn nhận án tử hình như một bằng cớ cho thấy việc ta làm tệ đến đâu, hơn là làm bằng cớ chứng minh chuẩn mực của ta đã được nâng cao ra sao.
Well, why has violence declined? No one really knows, but I have read four explanations, all of which, I think, have some grain of plausibility. The first is: maybe Thomas Hobbes got it right. He was the one who said that life in a state of nature was "solitary, poor, nasty, brutish and short."
Vậy tại sao tình trạng bạo lực giảm? Không ai thực sự biết câu trả lời, nhưng tôi đã đọc bốn bài phân tích, mà theo tôi, bài nào cũng có phần đúng. Ở bài phân tích đầu tiên, có lẽ lý giải của Thomas Hobbes là đúng. Ông là người cho rằng cuộc sống trong trạng thái tự nhiên, vô chính phủ là một cuộc sống "cô độc, nghèo nàn, bẩn thỉu, tàn bạo và ngắn ngủi".
(Laughter)
Ông chỉ rõ nguyên nhân không phải do con người có sự khát máu thời nguyên thủy,
Not because, he argued, humans have some primordial thirst for blood or aggressive instinct or territorial imperative, but because of the logic of anarchy. In a state of anarchy, there's a constant temptation to invade your neighbors preemptively, before they invade you.
hay bản năng hung hăng, hay nhu cầu khẳng định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà là vì triết lý về sự vô chính phủ. Trong tình trạng vô chính phủ, các quốc gia vì lo sợ mối nguy bị xâm lăng mà chọn cách tấn công phủ đầu lẫn nhau.
More recently, Thomas Schelling gives the analogy of a homeowner who hears a rustling in the basement. Being a good American, he has a pistol in the nightstand, pulls out his gun, walks down the stairs. And what does he see but a burglar with a gun in his hand? Now, each one of them is thinking, "I don't really want to kill that guy, but he's about to kill me. Maybe I had better shoot him before he shoots me, especially since, even if he doesn't want to kill me, he's probably worrying right now that I might kill him before he kills me." And so on. Hunter-gatherer peoples explicitly go through this train of thought and will often raid their neighbors out of fear of being raided first.
Gần đây, Thomas Schelling có kể một câu chuyện tương tự về một người đàn ông nghe thấy tiếng động lạ ở tầng hầm nhà mình. Là công dân Mỹ, anh ta có một khẩu súng lục ở tủ đầu giường. Người chủ nhà rút súng rồi đi xuống cầu thang. Nhưng anh ta thấy tên trộm cũng mang theo súng. Lúc này, cả hai đều nghĩ rằng: "Mình không có ý định giết hắn, nhưng hắn sẽ giết mình. Có lẽ nếu mình nổ súng bắn hắn trước, nhất là vào lúc này, kể cả nếu hắn không định bóp cò, hắn hẳn đang lo sợ mình sẽ hạ hắn trước.", v..v.. Những người săn bắt - hái lượm thường xem xét luồng suy nghĩ này cẩn thận, và thường sẽ tấn công người kia trước do quá lo sợ việc bị tấn công trước.
Now, one way of dealing with this problem is by deterrence. You don't strike first, but you have a publicly announced policy that you will retaliate savagely if you are invaded. The only thing is that it's liable to having its bluff called, and therefore can only work if it's credible. To make it credible, you must avenge all insults and settle all scores, which leads to the cycles of bloody vendetta. Life becomes an episode of "The Sopranos." Hobbes's solution, "Leviathan," was that if authority for the legitimate use of violence was vested in a single democratic agency -- a leviathan -- then such a state can reduce the temptation of attack, because any kind of aggression will be punished, leaving its profitability zero. That would remove the temptation to invade preemptively out of fear of them attacking you first. It removes the need for a hair trigger for retaliation to make your deterrent threat credible, and therefore, it would lead to a state of peace. Eisner -- the man who plotted the homicide rates that you failed to see in the earlier slide -- argued that the timing of the decline of homicide in Europe coincided with the rise of centralized states. So that's a bit of a support for the leviathan theory. Also supporting it is the fact that we today see eruptions of violence in zones of anarchy, in failed states, collapsed empires, frontier regions, mafias, street gangs and so on.
Một trong những cách giải quyết vấn đề này là sử dụng biện pháp răn đe. Bạn sẽ không tấn công trước, nhưng bạn phải công khai tuyên bố rằng bạn sẽ chống trả quyết liệt nếu bạn bị tấn công. Vấn đề là những lời này thường dễ bị bóc mẽ là những lời lừa bịp, nên cách này chỉ có hiệu quả khi người kia tin vào chúng. Để chúng trở nên đáng tin cậy, bạn phải tiến hành trả đũa lại các lời nói và hành vi xúc phạm bạn, dẫn đến hận thù nối tiếp hận thù. Mỗi ngày trôi qua sẽ như một tập phim "Gia Đình Sopranos". Phương án "Quái vật Leviathan" của Hobbes cho rằng nếu trao quyền lực sử dụng bạo lực hợp pháp cho một cơ quan dân chủ đơn lẻ -- ẩn dụ bởi hình ảnh Quái vật Leviathan -- thì đất nước ấy sẽ giảm thiểu được nguy cơ bị tấn công, vì xâm lược dưới hình thức nào cũng sẽ chịu sự trừng phạt, dẫn đến việc triệt tiêu mọi khả năng xảy ra của các cuộc tấn công. Điều này giúp loại bỏ hoàn toàn nỗi lo sợ phải tấn công phủ đầu để ngăn chặn các cuộc tấn công sắp sửa xảy ra của địch. Nhu cầu lắp hệ thống đáp trả nhạy bén để đảm bảo sự tin cậy của biện pháp răn đe cũng trở nên không còn cần thiết nữa. Và vì thế dẫn đến trạng thái hòa bình. Eisner -- tác giả biểu đồ tỷ lệ giết người bạn không xem được ở slide trước -- chỉ ra rằng sự sụt giảm của tỷ lệ giết người ở Châu Âu diễn ra trùng với sự xuất hiện nhiều hơn các nhà nước tập quyền. Lập luận này là sự ủng hộ cho thuyết Leviathan. Có một thực tế ngày nay cũng ủng hộ cho thuyết này. Tình trạng bạo lực bùng nổ ở các khu vực vô chính phủ, các quốc gia thất bại, các đế chế sụp đổ, các vùng biên giới, các băng đảng xã hội đen, các băng đảng đường phố, v..v..
The second explanation is that in many times and places, there is a widespread sentiment that life is cheap. In earlier times, when suffering and early death were common in one's own life, one has fewer compunctions about inflicting them on others. And as technology and economic efficiency make life longer and more pleasant, one puts a higher value on life in general. This was an argument from the political scientist James Payne.
Bài thứ hai dẫn giải rằng quan điểm cuộc sống là một điều rẻ rúng là quan điểm phổ biến ở nhiều nơi, trong nhiều thời đại. Vào thời xưa, khi mà nỗi đau khổ và chết sớm là những điều thường gặp trong đời người, người ta thường ít có cảm giác ăn năn khi tra tấn người khác. Chỉ khi công nghệ và hiệu suất kinh tế giúp kéo dài tuổi thọ và làm cuộc sống dễ chịu hơn, người ta mới coi trọng hơn giá trị của cuộc sống. Đây là nội dung bài tranh luận của nhà khoa học chính trị James Payne.
A third explanation invokes the concept of a nonzero-sum game, and was worked out in the book "Nonzero" by the journalist Robert Wright. Wright points out that, in certain circumstances, cooperation or nonviolence can benefit both parties in an interaction, such as gains in trade when two parties trade their surpluses and both come out ahead, or when two parties lay down their arms and split the so-called peace dividend that results in them not having to fight the whole time. Wright argues that technology has increased the number of positive-sum games that humans tend to be embroiled in, by allowing the trade of goods, services and ideas over longer distances and among larger groups of people. The result is that other people become more valuable alive than dead, and violence declines for selfish reasons. As Wright put it, "Among the many reasons that I think that we should not bomb the Japanese is that they built my minivan."
Bài giải thích thứ ba viện dẫn lại ý tưởng chủ đạo của trò chơi tổng khác không (các bên cùng có lợi/bị thiệt) và được trích từ cuốn "Nonzero" do nhà báo Robert Wright chắp bút viết. Ông ấy chỉ ra rằng trong các tình huống nhất định, sự hợp tác hay sự phi bạo lực có thể đem lại lợi ích cho cả hai bên khi tiến hành một cuộc giao dịch, chẳng hạn như lợi ích trong thương mại khi hai bên trao đổi thặng dư và cùng thu được lợi nhuận, hay khi hai bên ngừng chiến và tách lợi tức hòa bình có được nhờ ngừng chiến, Ông Wright cho rằng công nghệ làm gia tăng số lượng trò chơi có tổng lợi ích dương (các bên cùng có lợi) mà con người thường có xu hướng bị lôi kéo vào tham gia, bằng việc cho phép buôn bán hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng ở khoảng cách xa và trong các nhóm có quy mô lớn hơn. Sự sống của mỗi người vì thế mà trở nên có giá trị hơn, và tình trạng bạo lực sụt giảm vì các lý do ích kỷ. Như Wright nói thì: "Một trong những lý do tôi cho rằng ta không nên đánh bom Nhật là vì họ đã lắp ráp nên chiếc mini-van của tôi"
(Laughter)
(Cười)
The fourth explanation is captured in the title of a book called "The Expanding Circle," by the philosopher Peter Singer, who argues that evolution bequeathed humans with a sense of empathy, an ability to treat other people's interests as comparable to one's own. Unfortunately, by default, we apply it only to a very narrow circle of friends and family. People outside that circle are treated as subhuman and can be exploited with impunity. But, over history, the circle has expanded. One can see, in historical record, it expanding from the village, to the clan, to the tribe, to the nation, to other races, to both sexes and, in Singer's own arguments, something that we should extend to other sentient species. So the question is: If this has happened, what has powered that expansion?
Lời giải thích thứ tư được ghi ngay trên tựa cuốn "The Expanding Circle" của nhà triết học Peter Singer. Ông cho rằng sự tiến hóa đã truyền lại cho con người sự thấu cảm, tức khả năng quan tâm, chia sẻ với mối bận tâm của người khác. như thể đó là mối bận tâm của chính ta. Không may là, ta thường chỉ áp dụng khả năng ấy với số ít bạn bè và người nhà. Những người khác sẽ không được đối xử như một con người đúng nghĩa, và ta có thể bóc lột, lợi dụng họ mà không bị trừng phạt. Nhưng, trải qua các giai đoạn lịch sử, vòng tròn tình bạn ngày một mở rộng. Qua các ghi chép lịch sử, vòng tròn ấy mở rộng từ phạm vi làng tới thị tộc, rồi bộ lạc, tới quốc gia, giữa các chủng tộc, giữa các giới tính, và theo như lập luận của Singer thì nên mở rộng tới cả các loài động vật nhạy cảm. Câu hỏi là, nếu điều đó thực sự xảy ra thì điều gì đã hỗ trợ sự mở rộng ấy?
And there are a number of possibilities, such as increasing circles of reciprocity in the sense that Robert Wright argues for. The logic of the Golden Rule -- the more you think about and interact with other people, the more you realize that it is untenable to privilege your interests over theirs, at least not if you want them to listen to you. You can't say that my interests are special compared to yours any more than you can say the particular spot that I'm standing on is a unique part of the universe because I happen to be standing on it that very minute. It may also be powered by cosmopolitanism, by histories and journalism and memoirs and realistic fiction and travel and literacy, which allows you to project yourself into the lives of other people that formerly you may have treated as subhuman, and also to realize the accidental contingency of your own station in life, the sense that "There but for fortune go I."
Có một số khả năng, ví như sự gia tăng của các mối quan hệ tương hỗ theo như lập luận của Robert Wright. Tính logic của nguyên tắc vàng -- bạn càng nghĩ và tương tác nhiều với người khác, bạn càng nhận ra bạn không thể nâng quan điểm của mình lên trên người khác, it nhất là nếu bạn còn muốn họ lắng nghe bạn. Bạn không thể nói rằng các mối quan tâm của bạn đặc biệt hơn của người khác, nó cũng như việc bạn nói nơi bạn đang đứng là độc nhất trong vũ trụ vì nhờ có bạn đứng ngay tại chỗ đó vào thời điểm đó vậy. Điều này có thể được ủng hộ bởi chủ nghĩa thế giới, bởi lịch sử, ngành báo chí, các cuốn tự truyện, tác phẩm hiện thực, du lịch, học vấn, những điều cho phép bạn hiểu rõ hơn cuộc sống của người bạn từng ít coi trọng, và giúp bạn hiểu rõ tình huống ngẫu nhiên bất ngờ xảy ra trong mỗi chặng cuộc đời, cái cảm giác "Nếu không nhờ có sự may mắn, cuộc đời tôi có lẽ đã rẽ sang hướng khác".
Whatever its causes, the decline of violence, I think, has profound implications. It should force us to ask not just, "Why is there war?" but also, "Why is there peace?" Not just, "What are we doing wrong?" but also, "What have we been doing right?" Because we have been doing something right, and it sure would be good to find out what it is. Thank you very much.
Dù nguyên do là gì, tôi nghĩ, sự sụt giảm bạo lực có những hàm ý sâu xa. Điều đó buộc ta không chỉ dừng ở việc hỏi "Tại sao lại có chiến tranh?", mà còn phải hỏi thêm "Tại sao lại có hòa bình?". Không chỉ "Ta đang làm gì sai?" mà còn cả "Ta đã làm được điều gì đúng?". Bởi đã có một điều mà ta làm đúng, và tìm ra được điều đó là một việc đáng để làm. Cảm ơn các bạn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Chris Anderson: I loved that talk. I think a lot of people here in the room would say that that expansion you were talking about, that Peter Singer talks about, is also driven just by technology, by greater visibility of the other and the sense that the world is therefore getting smaller. I mean, is that also a grain of truth?
Chris Anderson: Tôi yêu bài phát biểu đó. Tôi nghĩ rất nhiều người ở đây sẽ nói rằng sự mở rộng của vòng tròn -- điều mà bạn và Peter Singer nhắc đến -- còn nhận được sự hỗ trợ từ công nghệ, tầm nhìn được mở rộng, cảm giác thế giới cũng vì thế mà nhỏ lại. Liệu điều này có đúng chút nào không?
Steven Pinker: Very much. It would fit both in Wright's theory, that it allows us to enjoy the benefits of cooperation over larger and larger circles. But also, I think it helps us imagine what it's like to be someone else. I think when you read of these horrific tortures that were common in the Middle Ages, you think, "How could they possibly have done it, how could they not have empathized with the person that they're disemboweling?" But clearly, as far as they're concerned, this is just an alien being that does not have feelings akin to their own. Anything, I think, that makes it easier to imagine trading places with someone else means that it increases your moral consideration to that other person.
Steven Pinker: Có chứ. Điều này cũng đúng với lý thuyết của Wright, rằng nó giúp ta tận hưởng các lợi ích của sự hợp tác các vòng tròn rộng lớn hơn, Nhưng tôi nghĩ điều đó cũng giúp ta đặt mình vào vị trí của người khác. Tôi nghĩ khi đọc về các cách thức tra tấn dã man hay được sử dụng ở thời Trung Cổ, bạn sẽ nghĩ làm sao mà họ lại có thể làm điều đó, làm sao mà họ lại có thể vô cảm đến vậy trước người mà họ đang cắt xẻo cơ thể? Nhưng rõ ràng đối với họ, người kia chỉ là kẻ xa lạ không cùng chung cảm xúc với họ. Tôi nghĩ, bất kỳ điều gì giúp ta dễ đặt mình vào vị trí của người khác hơn đều sẽ làm tăng sự cân nhắc của bạn trên phương diện đạo đức khi đối xử với người khác. CA: Steve, tôi hy vọng các cơ quan chủ quản các phương tiện truyền thông
CA: I'd love every news media owner to hear that talk at some point, it's so important.
sẽ lắng nghe bài nói chuyện này. Tôi nghĩ điều này rất quan trọng.
CA: Thank you. SP: My pleasure.
Cảm ơn anh. SP: Hân hạnh.