Here's a classic thought experiment that's designed to trick your brain into thinking long-term and getting out of the daily news cycle. And it goes like this: if a newspaper came out once a century, what would the front page banner headline be? “We defeated the Nazis,” or “landed on the moon,” or "built the Internet"? I would argue that it would be the story of a single number, maybe the most elemental measure of progress that we have. Life expectancy at birth. The length of time that the average person can expect to live in a given place at a given time.
Đây là thí nghiệm tưởng tượng kinh điển được thiết kế để đánh lừa bộ não của bạn suy nghĩ lâu dài và thoát khỏi chu kỳ tin tức hàng ngày. Nó thế này: nếu một tờ báo được xuất bản mỗi thế kỷ một lần, tiêu đề biểu ngữ tại trang nhất sẽ là gì? “Đã đánh bại Đức Quốc Xã”, hoặc “đặt chân lên mặt trăng”. hay “xây dựng Internet”? Tôi cho rằng đó sẽ là câu chuyện về một con số duy nhất, có thể đó là thước đo quan trọng nhất về sự tiến bộ mà chúng ta có. Tuổi thọ bình quân. Khoảng thời gian một người bình thường có thể sống ở một nơi nhất định tại thời điểm nhất định.
One hundred years ago, as best as we can measure, the average global life expectancy stood somewhere in the mid 30s. Today, it's just over 70. So in one century, we doubled global life expectancy. And to give a sense of what this looks like geographically, take a look at this image, these maps. This is data courtesy of the great organization, Our World in Data. This is the world in 1950. And in blue are the countries where life expectancy is more than 70. You can see it's just five countries in northern Europe. That's it. And in red, these are the countries where life expectancy is below 45. It's about a third of the planet. So fast-forward to more recent history. 2015 -- in blue the countries where life expectancy is above 70. Look at all that life. And in red, the countries where it's below 45. There's no red on the map because there are no countries where life expectancy is below 45. In fact, there are very few where it's below 60.
Một trăm năm trước, theo số liệu đáng tin nhất có thể, tuổi thọ trung bình toàn cầu rơi vào khoảng giữa độ tuổi 30. Còn bây giờ, con số đó là hơn 70. Vậy trong vòng một thế kỷ, chúng ta đã nhân đôi tuổi thọ trung bình toàn cầu. Và để dễ hình dung về mặt địa lý, hãy nhìn vào hình ảnh, các bản đồ này. Đây là dữ liệu được cấp phép của một tổ chức lớn, có tên là Our World in Data. Đây là thế giới vào năm 1950. Màu xanh lam chỉ các quốc gia có tuổi thọ lớn hơn 70. Có thể thấy rằng chỉ có 5 quốc gia Bắc Âu. Chỉ có vậy. Còn màu đỏ thể hiện những quốc gia có tuổi thọ trung bình dưới 45. Chiếm gần 1/3 Trái Đất. Giờ tua nhanh đến thời điểm gần đây hơn, năm 2015. Màu xanh là những quốc gia có tuổi thọ lớn hơn 70. Hãy nhìn tất cả chỗ đó đi. Còn màu đỏ là những quốc gia có tuổi thọ dưới 45. Không có màu đỏ nào cả bởi vì không còn quốc gia nào có tuổi thọ thấp hơn 45 tuổi. Trên thực tế, có rất ít quốc gia có tuổi thọ dưới 60.
This is an extraordinary achievement. And you'll sometimes hear people say that life expectancy and this kind of progress is actually just a statistical illusion. That we got better at reducing infant mortality, but the rest of our lives are actually not all that different. And it is true that infant mortality has been dramatically reduced over the last hundred years. But the story is much richer and more intense than that. If you take a look at this early infographic by the great Victorian statistician William Farr, which is attempting to show mortality rates by age group in London in the early 1840s. I find something incredibly heroic about this chart. I mean, here's a guy without computers, without the Internet, without Excel, trying to do something that is incredibly hard and incredibly important. He's trying to look at broad patterns in life and death in a great city, trying to make sense of what is going on. And what the chart reveals is that there is a tragic amount of death among children, not just infants, but five-year-olds and 10-year-olds are dying at an alarming rate. But almost nobody makes it to 85 or 90. And more than half of the population is dead by the age of 45. How many people in this room are older than 45? Right? And think about that: half of you would not be here. We talk about optimism. That is the most fundamental form of good news there is.
Đây là một thành tích rất phi thường. Và đôi khi bạn sẽ nghe người ta nói rằng tuổi thọ và sự tiến bộ này thực ra chỉ là một loại ảo tưởng thống kê. Rằng chúng ta đã làm tốt trong việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, nhưng phần còn lại của cuộc đời thật sự vẫn không khác là bao. Và đúng là tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã được giảm đáng kể trong hơn một trăm năm qua. Nhưng chuyện còn phong phú và gay cấn hơn nhiều. Nếu chúng ta nhìn vào biểu đồ của thời kỳ trước được tạo ra bởi nhà thống kê lỗi lạc thời Victoria - William Farr, thể hiện tỷ lệ tử vong theo nhóm tuổi ở London vào đầu những năm 1840. Tôi phát hiện điều cực kỳ phi thường về biểu đồ này. Ý tôi là, một anh chàng không có máy tính, không Internet, không Excel, đang cố làm một điều cực kì khó và cực kì quan trọng. Anh ta cố xem xét các mô hình chung về sự sống và cái chết ở một thành phố lớn, cố gắng tìm hiểu việc gì đang diễn ra. Và những gì biểu đồ tiết lộ chính là số lượng bi thảm về số ca tử vong ở trẻ em, không chỉ trẻ sơ sinh, kể cả trẻ 5 tuổi và 10 tuổi số lượng đó tăng ở mức đáng báo động. Nhưng gần như không ai có thể sống đến 85 hay 90 tuổi. Và hơn một nửa dân số lúc bấy giờ qua đời ở tuổi 45. Có bao nhiêu người trong phòng này lớn hơn 45 tuổi? Đúng không? Nếu nghĩ về điều đó: một nửa các bạn đã không thể có mặt ở đây. Nói về sự lạc quan. Đó là một dạng thức cơ bản của tin tức tốt lành.
(Laughter)
(Tiếng cười)
You are not dead. Right?
Các bạn vẫn còn sống. Đúng không?
(Laughter)
(Tiếng cười)
So I want to stress here that this good news is not uncomplicated. 100 years ago, there were less than two billion people on earth. Today there's almost eight billion and counting. And we have that runaway population growth not because people started having more babies, but rather because people stopped dying and the generations stacked up. And we have problems like climate change because of these underlying trends as well. If we had kept mortality rates where they were in 1920, we wouldn't have anywhere near the magnitude of the climate crisis we're facing now because there simply wouldn't have been enough people on the planet to emit enough carbon into the atmosphere to make a meaningful difference. In a weird sense, climate change is the unintended consequence of industrialization and increased longevity. So all this extra life is a mixed blessing, like any change this momentous.
Nhưng ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng dấu hiệu đáng mừng này chẳng hề đơn giản. 100 năm trước, Trái Đất có ít hơn 2 tỉ người. Giờ đây, con số đó là gần 8 tỉ và vẫn đang tăng lên. Sự gia tăng dân số nhanh chóng đó không phải vì ta bắt đầu sinh sản nhiều hơn, mà là vì con người ngừng tử vong và các thế hệ nối tiếp nhau. Và ta đối mặt với các vấn đề như biến đổi khí hậu vì những xu hướng phát triển tiềm ẩn như thế này. Nếu chúng ta giữ tỷ lệ tử vong như vào năm 1920, ta đã không phải đối mặt với khủng hoảng lớn như khủng hoảng khí hậu hiện nay đơn giản là vì không có đủ người trên hành tinh để thải đủ cacbon vào khí quyển và tạo ra sự khác biệt quá rõ rệt. Theo một cách kỳ lạ, thay đổi khí hậu là hậu quả ngoài ý muốn của quá trình công nghiệp hóa và tăng tuổi thọ. Vì vậy, việc kéo dài tuổi thọ con người mang buồn vui lẫn lộn, hệt như mọi thay đổi với tầm quan trọng tương tự.
But I want to stress not just that we did it, but I think the more interesting question is how we did it. That's what's been obsessing me over the last years, that's the investigation I've been on, trying to figure out what are the prime movers when we see change this momentous. What is really driving that change? And I think we should say, given everything that's happening in the world, we should point out that, you know, one of those prime movers, which we should shout from the rooftops, is vaccines. Right? We doubled --
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh không chỉ là chúng ta đã làm được, mà câu hỏi thú vị hơn là chúng ta đã làm như thế nào. Đó là thứ đã thôi thúc tôi nhiều năm qua, là cuộc điều tra mà tôi tham gia, cố gắng tìm ra đâu là nguồn lực chính trong sự thay đổi quan trọng này. Điều gì đang thúc đẩy sự thay đổi đó? Và tôi nghĩ ta có thể nói, với mọi thứ diễn ra trên thế giới, chúng ta nên thừa nhận rằng, một trong những nguồn lực then chốt, mà ta nên nói cho mọi người cùng biết, là vắc xin. Phải không? Ta nhân đôi--
(Applause)
(Vỗ tay)
Yes, right? Thank you. I did invent vaccines, so I appreciate that.
Đúng không? Xin cảm ơn. Tôi tạo ra vắc xin, nên tôi đánh giá cao nó.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I mean, for smallpox to polio, influenza, TB and measles, and covid. I mean, if we celebrated the eradication of smallpox the way we celebrate the moon landing, we would have a lot less vaccine hesitancy in the world right now. But I also think it's a mistake to focus exclusively on the march of science and the kind of tangible objects, like vaccines and antibiotics or X-rays. And to explain what I mean by that, I think it's useful to look at the story of how we conquered one of the most terrifying threats of the 19th century. Milk.
Dành cho đậu mùa đến bại liệt, cúm, lao, sởi, và covid. Nếu ta ăn mừng việc xóa sổ bệnh đậu mùa như cách ta ăn mừng cuộc đổ bộ lên mặt trăng, hiện tại thế giới sẽ ít có do dự về vắc xin hơn. Nhưng tôi cũng nghĩ đó là sai lầm khi dựa dẫm hoàn toàn vào các thành tựu khoa học và các loại vật hữu hình, như là vắc-xin, thuốc kháng sinh hay X-quang. Và để hiểu ý tôi muốn nói, sẽ rất hiệu quả khi nhìn vào câu chuyện về cách chúng ta chinh phục một trong những mối đe dọa đáng sợ nhất của thế kỷ 19. Sữa.
Now, we think of milk as this kind of emblem of health and vitality, but in fact, in the middle of the 19th century, milk was a serious health threat, particularly to children. We had no mechanical refrigeration and so there was a lot of spoilage problems. People could get tuberculosis from milk. They figured out this thing for urban cattle where they couldn't feed them grass so they would feed them slop from whiskey distilleries -- instead of grass, brilliant idea -- which produced this kind of blue-tinted milk that was very dangerous, called swill milk. In 1850, more than half of all the deaths recorded in New York City were young children, many of them killed by contaminated milk. And look, I know what you're thinking. You're thinking, "I know how we solved this problem. We solved it with science. We solved it with chemistry." Right? I mean, the solution is so famous. It's sitting there printed on every carton of milk in every grocery store in the country, right? Pasteurization. But actually, the story of pasteurization is a case study in the limits of science because Louis Pasteur came up with his technique for sterilizing milk in 1865, but we didn't actually have pasteurized milk as a standard on American grocery stores’ shelves until 1915, a full 50 years later. And that's because science and chemistry on its own wasn't enough to make a meaningful change. You also needed persuasion.
Hiện tại, chúng ta xem sữa như biểu tượng của sức khỏe và sức sống, nhưng thực tế, giữa thế kỷ 19, sữa là mối đe dọa sức khỏe nghiêm trọng, đặc biệt là với trẻ em. Thời đó chúng ta chưa cơ điện lạnh nên sữa rất dễ bị hư. Con người có thể bị nhiễm khuẩn từ sữa. Họ phát hiện việc này từ gia súc ở đô thị vì không thể cho chúng ăn cỏ nên họ dùng bã rượu từ các nhà máy chưng cất rượu whisky-- thay cho cỏ, quả là một ý tưởng tuyệt vời-- từ đó sản sinh ra loại sữa loãng màu xanh một thứ rất nguy hiểm, được gọi là sữa bẩn. Vào năm 1850, hơn một nửa số ca tử vong được ghi nhận ở Thành phố New York là trẻ nhỏ, đa số là do sữa nhiễm khuẩn. Và nhìn này, tôi biết bạn đang nghĩ gì. Bạn nghĩ, “Tôi biết cách giải quyết rồi. Ta giải quyết bằng khoa học, bằng hóa học.” Những giải pháp như thế rất nổi tiếng. Nó được in trên mỗi hộp sữa trong mọi cửa hàng tạp hóa trên cả nước, nhỉ? Tiệt trùng. Trên thực tế, tiệt trùng là một nghiên cứu điển hình cho sự giới hạn của khoa học bởi vì Louis Pasteur đã nghĩ ra kỹ thuật khử trùng sữa vào năm 1865, nhưng lúc đó chưa có mẫu sữa tiệt trùng nào đủ làm tiêu chuẩn trong các tạp hóa ở Mỹ cho đến năm 1915, tròn 50 năm sau. Lý do là vì chỉ dựa vào khoa học và hóa học là chưa đủ để tạo ra sự thay đổi lớn. Mà còn cần sự thuyết phục.
You had to convince people to drink pasteurized milk, you had to convince the dairy industry to make pasteurized milk, and that took a whole other cast of characters. It took muckraking journalists. It took crusading lawmakers. There was a whole subculture of pasteurization activists back then. Maybe the most unlikely one was a department store magnate named Nathan Straus, who got obsessed with the pasteurization cause and he funded all these milk depots all around New York City where pasteurized milk was sold at cost to low-income residents so that they would develop a taste for it. So in a sense, the way to think about it is that Pasteur solved the problem on the level of chemistry, but Straus and his allies solved it on the level of society. And you need both fronts to effect change on that scale.
Bạn phải thuyết phục mọi người uống sữa tiệt trùng, bạn phải thuyết phục ngành công nghiệp sữa sản xuất sữa tiệt trùng, và cần có nhiều nhân vật khác nữa. Các nhà báo dám đào bới bê bối. Các nhà lập pháp dám cải cách. Thời đó có cả một nhóm nhỏ ủng hộ việc tiệt trùng này. Và nổi bật nhất trong số đó là một ông trùm cửa hàng bách hóa tên là Nathan Straus, người bị ám ảnh bởi nguyên nhân tiệt trùng nên đã tài trợ cho tất cả các kho sữa ở quanh thành phố New York nơi sữa tiệt trùng đã được bán với giá gốc cho người dân có thu nhập thấp để họ dần hứng thú với nó. Vì vậy, hiểu theo một cách nào đó, Pasteur giải quyết được vấn đề ở cấp độ hóa học, nhưng Straus và nhóm người chung chí hướng đã giải quyết nó trên phương diện xã hội. Và bạn cần kết hợp cả hai để tạo ra sự thay đổi trên quy mô lớn.
And there's another prime mover that we don't talk about enough, which seems a little bit unlikely in the context of disruptive innovation, and that is large bureaucratic institutions. Now, if that seems contradictory to you, I suggest that you flip through the pages of any pharmaceutical drug catalog from the early 20th century. I mean, these things are just a laundry list of deadly poisons, one after another: arsenic, mercury, belladonna, not to mention all the heroin and cocaine. A lot of medical historians believe that all-in pharmaceutical drugs were a net negative in terms of human health until the invention of antibiotics in the 1940s. That's what life was like.
Và còn nguồn lực chính khác chưa được chú ý tới đủ nhiều, điều này có vẻ hơi khó xảy ra trong bối cảnh đổi mới đột phá, và đó chính là các thể chế quan liêu lớn. Bây giờ, nếu bạn thấy mâu thuẫn, tôi đề xuất bạn đọc qua thành phần trong bất kỳ danh mục dược phẩm nào từ đầu thế kỷ 20. Chúng chỉ là một danh sách dài các chất độc chết người, lần lượt là: asen, thủy ngân, belladonna, chưa kể đến tất cả heroin và cocaine. Rất nhiều nhà y sử học tin rằng các loại dược phẩm toàn phần đều có hại đến sức khỏe con người cho đến khi ta phát minh ra kháng sinh vào những năm 1940. Cuộc sống đã từng như thế.
And in 1937, there was this Tennessee pharma startup that hit upon this idea for a new cough syrup, a cure for strep throat actually, targeted at children. At the time, there was a new drug called sulfa drugs that were kind of a forerunner of antibiotics. But they were generally packaged in this bulky pill format, very difficult for kids to swallow. So a chemist at this startup came up with the brilliant idea of dissolving the sulfa drug in diethylene glycol and then adding some raspberry flavoring to make it more palatable for the kids. Seemed like a brilliant idea, except that diethylene glycol is toxic to human beings. It's basically antifreeze. And so almost immediately, weeks after, there were dozens of deaths around the United States from this terrible concoction, and the crazy thing is that putting diethylene glycol in your medicine was not a problem, given the existing regulations of the day. The only thing that the FDA was really interested in was whether you were actually listing the ingredients of your potion on the label. So if you wanted to put antifreeze in your cough syrup, go ahead, as long as you list ingredients on the label. That's what life was like.
Vào năm 1937, một công ty khởi nghiệp dược phẩm ở Tennessee đã nảy ra ý tưởng cho một loại siro ho mới, phương pháp chữa trị viêm họng khuẩn liên cầu, cho đối tượng là trẻ em. Vào thời điểm đó, có một loại thuốc mới được gọi là thuốc sulfa đại loại là tiền thân của thuốc kháng sinh. Nhưng chúng thường được đóng gói ở dạng viên nén to, trẻ em rất khó nuốt được. Vậy nên một nhà hóa học tại công ty này đã nảy ra một ý tưởng tuyệt vời, đó là hòa tan thuốc sulfa trong diethylene glycol và sau đó thêm một ít hương liệu mâm xôi để tạo cảm giác ngon miệng hơn cho trẻ em. Thoạt nghe thì có vẻ tuyệt vời, nhưng diethylene glycol lại là một hóa chất độc hại cho con người. Về cơ bản, nó là chất chống đông. Và gần như ngay lập tức, vài tuần sau, có hàng tá người chết quanh khu vực nước Mỹ vì sự điều chế kinh khủng này, và điều điên rồ là việc cho diethylene glycol vào thuốc không phải là vấn đề, khi xét đến các luật hiện hành thời đó. Điều duy nhất mà FDA thực sự quan tâm đến là liệu bạn có thực sự liệt kê các thành phần của thuốc lên nhãn. Vì vậy, nếu muốn bỏ chất chống đông vào sirô ho, cứ tự nhiên, miễn là các thành phần được liệt kê đủ. Việc như thế đã từng xảy ra.
But because of this tragedy, laws were changed. And for the first time, the FDA mandated the pharma companies show that their drugs were not harmful to consumers, which seems kind of obvious, but somebody had to figure that out. And so what we needed at that point was not just kind of new miracle drugs. We needed new institutions. We needed new medi-innovations, like three phase trials and randomized controlled experiments, and regulatory bodies, like the FDA, to separate out the fake cures from the real thing. And that kind of institutional innovation is going to be increasingly important in the decades to come, because all around the world right now, there are well-funded scientists and serious labs that are working on tackling the problem of aging itself.
Nhưng nhờ vào bi kịch này, luật đã được thay đổi. Lần đầu tiên, FDA yêu cầu các công ty dược phẩm chứng minh rằng thuốc của họ không gây hại cho người dùng, chuyện có vẻ hiển nhiên, nhưng ai đó đã phải ngộ ra điều đó. Và những gì chúng ta cần tại thời điểm đó không chỉ là một loại thuốc hữu hiệu mới. Mà ta cần các tổ chức mới. Ta cần những cải tiến mới về y học, như là thử nghiệm ba giai đoạn và các thí nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên, và các cơ quan quản lý, như FDA, có trách nhiệm phân biệt thuốc rởm với thuốc thật. Và sự đổi mới mang tính cải cách đó sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong những thập kỷ tới, bởi vì trên toàn thế giới hiện nay, các nhà khoa học được hậu thuẫn tốt và các phòng thí nghiệm nghiêm túc đang hoạt động để giải quyết vấn đề lão hóa.
I mean, currently the outer boundary of human life is somewhere around 110 and 115. It's very hard to live past that. But there is serious research out there that suggests that we can just blow past that boundary and live for decades longer, maybe even indefinitely. I'm not saying this is going to happen, but it is on the table. And the thing about it is, if we did do that, it would be the most momentous change in the history of our species, right? Initially, it would intensely -- increase the health inequalities in the world because people could -- only rich people could afford these treatments originally. It would greatly exacerbate our runaway population growth problem and it would fundamentally alter the definition of the arc of a human life. And when you ask people, do you think we should mess around with immortality, ordinary people, most of them say no. But the problem is we don't have collectively a decision-making body that can help us wrestle with changes this immense. We're like the FDA back in 1930, like, go ahead and make your immortality pill. Just make sure the ingredients are right on the label. That's where we are. So the kinds of innovations we need are going to be on the level of oversight and decision making, and I think we can make these innovations if we if we work at it.
Hiện tại, giới hạn tối đa của sự sống con người là khoảng 110 và 115. Rất khó để sống lâu hơn như vậy. Nhưng vẫn có những nghiên cứu nghiêm túc chỉ ra rằng ta có thể vượt qua ranh giới đó và sống lâu hơn nhiều thập kỷ, thậm chí là bất tử. Tôi không chắc chắn nó sẽ xảy ra, nhưng rất có khả năng đó. Nhưng nếu chúng ta làm được điều đó, nó sẽ là sự thay đổi ngoạn mục nhất trong lịch sử nhân loại, đúng không? Đầu tiên, một cách ngoạn mục nó sẽ-- gia tăng sự bất bình đẳng về y tế trên toàn thế giới vì thoạt đầu, chỉ người giàu mới có thể chi trả các phương pháp điều trị này. Nó sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề gia tăng dân số nhanh chóng của ta và về cơ bản, nó sẽ thay đổi định nghĩa về lộ trình của một kiếp người. Khi được hỏi, ta có nên tốn thời gian nghiên cứu sự bất tử hay không, đa số người bình thường sẽ nói không. Nhưng vấn đề là không có tổ chức chung nào chịu trách nhiệm quản lý để giúp ta làm chủ sự thay đổi to lớn này. Chúng ta giống như FDA năm 1930, cứ tự nhiên sản xuất thuốc trường sinh đi. Chỉ cần có đủ các thành phần trên nhãn thuốc. Chúng ta bây giờ cũng thế. Vì vậy, các loại đổi mới chúng ta cần sẽ ở mức độ giám sát và ra quyết định, và tôi nghĩ ta có thể tạo ra các cải tiến này nếu ta quyết tâm.
Now, we all realize that regulatory overreach is a problem. So we're going to have to design decision-making bodies that are both sensitive to the dangers and the unintended consequences, but also genuinely open to the possibilities. But to my mind, we should be focusing less on extending life indefinitely and more on reducing the gaps that remain in health outcomes here and around the world. I mean, just look at what we've lived through in the past year and a half. On average, white Americans lost one year of expected life in 2020, thanks largely to covid. African Americans lost three years. And we should be focusing on reducing the gap between what we call health span and lifespan. The amount of time that we spend that is fundamentally healthy and full capacity. I think we all agree that these are problems that are worth solving and we have the tools at our disposal right now to solve them. If the first great revolution in human health was extending the overall average human life, the second should be about closing the gaps.
Bây giờ, tất cả chúng ta đều nhận biết việc luồn lách pháp luật là một vấn đề. Vì vậy, chúng ta cần thiết lập các cơ quan ra quyết định vừa nhạy cảm với những nguy hiểm và những hậu quả khôn lường, nhưng cũng cần thực sự cởi mở xem xét các khả năng. Nhưng theo tôi, chúng ta nên ít tập trung vào việc giúp con người trường sinh và chú trọng hơn để giảm khoảng cách tồn đọng trong thực trạng sức khỏe ở đây và toàn thế giới. Hãy nhìn vào những gì chúng ta đã trải qua trong một năm rưỡi qua. Trung bình, người Mỹ da trắng mất một năm tuổi thọ dự kiến vào năm 2020, phần lớn là vì covid. Người Mỹ gốc Phi mất ba năm. Chúng ta nên tập trung vào việc giảm khoảng cách giữa việc sống khỏe và sống lâu. Khoảng thời gian ta sử dụng trong lúc ta khỏe mạnh và đầy đủ năng lực. Tôi nghĩ ta đều đồng ý rằng đây là các vấn đề đáng được giải quyết và chúng ta có các công cụ để giải quyết chúng ngay bây giờ. Nếu cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên về sức khỏe con người đã kéo dài tuổi thọ trung bình của con người, cuộc cách mạng thứ hai nên hướng về sự bình đẳng về sức khỏe.
Thank you very much.
Cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)