Just after Christmas last year, 132 kids in California got the measles by either visiting Disneyland or being exposed to someone who'd been there. The virus then hopped the Canadian border, infecting more than 100 children in Quebec. One of the tragic things about this outbreak is that measles, which can be fatal to a child with a weakened immune system, is one of the most easily preventable diseases in the world. An effective vaccine against it has been available for more than half a century, but many of the kids involved in the Disneyland outbreak had not been vaccinated because their parents were afraid of something allegedly even worse: autism.
Ngay sau Giáng sinh năm ngoái, 132 trẻ em ở California đã nhiễm sởi vì hoặc là đến Disneyland hoặc là tiếp xúc với người đã từng ở đó. Vi rút sau đó đã lan đến biên giới với Canada, lây nhiễm tới hơn 100 trẻ em ở Quebec. Một trong những bi kịch đối với sự bùng phát này là bệnh sởi, với khả năng gây tử vong cho trẻ em có hệ miễn dịch yếu, lại là một trong những bệnh dễ dàng phòng tránh nhất trên thế giới. Liều vắc xin hiệu quả phòng chống bệnh đã có từ hơn một nửa thế kỷ nay, nhưng rất nhiều trẻ em trong vụ dịch ở Disneyland đã không được chủng ngừa bởi vì cha mẹ các em e ngại một chuyện được cho là tồi tệ hơn: tự kỷ.
But wait -- wasn't the paper that sparked the controversy about autism and vaccines debunked, retracted, and branded a deliberate fraud by the British Medical Journal? Don't most science-savvy people know that the theory that vaccines cause autism is B.S.? I think most of you do, but millions of parents worldwide continue to fear that vaccines put their kids at risk for autism.
Nhưng đợi chút -- không phải là báo chí đã khơi mào tranh luận về tự kỷ và vắc xin đã bị vạch trần, đính chính, và bị gọi là một sự gian lận có chủ ý của Tạp chí Y khoa Anh Quốc? Không phải hầu hết người hiểu biết khoa học biết rằng giả thuyết về vắc xin gây tự kỷ là điều nhảm nhí chứ? Tôi nghĩ rằng hầu hết bạn biết điều đó, nhưng hàng triệu bậc cha mẹ trên thế giới vẫn tiếp tục lo sợ rằng vắc xin khiến cho con cái họ có nguy cơ bị tự kỷ.
Why? Here's why. This is a graph of autism prevalence estimates rising over time. For most of the 20th century, autism was considered an incredibly rare condition. The few psychologists and pediatricians who'd even heard of it figured they would get through their entire careers without seeing a single case. For decades, the prevalence estimates remained stable at just three or four children in 10,000. But then, in the 1990s, the numbers started to skyrocket. Fundraising organizations like Autism Speaks routinely refer to autism as an epidemic, as if you could catch it from another kid at Disneyland.
Tại sao vậy? Đây là tại sao. Đây là biểu đồ về tỉ lệ bệnh tự kỷ được ước tính tăng dần hàng năm. Hầu như trong thế kỷ 20, tự kỷ được xem là một tình trạng cực kỳ hiếm thấy. Một số nhà tâm lý học và bác sĩ nhi khoa đã từng nghe về nó cho rằng trong cả sự nghiệp của họ có thể không gặp một ca nào. Qua nhiều thập kỷ, tỷ lệ tự kỷ được xem là vẫn ổn định chỉ khoảng 3 hay 4 trẻ trên 10.000 trẻ. Nhưng sau đó, vào những năm 1990, số lượng bắt đầu tăng như tên lửa. Những tổ chức gây quỹ như là Autism Speaks thường xuyên đề cập tới tự kỷ như là một dịch bệnh, giống như là bạn có thể bị nhiễm nó từ một đứa trẻ khác trong Disneyland.
So what's going on? If it isn't vaccines, what is it? If you ask the folks down at the Centers for Disease Control in Atlanta what's going on, they tend to rely on phrases like "broadened diagnostic criteria" and "better case finding" to explain these rising numbers. But that kind of language doesn't do much to allay the fears of a young mother who is searching her two-year-old's face for eye contact. If the diagnostic criteria had to be broadened, why were they so narrow in the first place? Why were cases of autism so hard to find before the 1990s?
Thế thì điều gì sẽ sảy ra? Nếu không phải là vắc xin, thì là cái gì? Nếu bạn hỏi một nhân viên của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh tại Atlanta Điều gì đang diễn ra, họ có thể dựa vào những câu đại loại như "mở rộng tiêu chuẩn chẩn đoán" và "định bệnh tốt hơn" để giải thích những con số tăng vọt này. Nhưng lời nói đó không làm gì nhiều để giảm đi nỗi sợ hãi của một người mẹ trẻ người đang tìm kiếm sự giao tiếp bằng mắt trên khuôn mặt của đứa con 2 tuổi. Nếu các tiêu chuẩn chẩn đoán được mở rộng hơn, thì tại sao lúc đầu chúng lại quá thu hẹp? Tại sao những trường hợp tự kỷ lại quá khó tìm trước những năm 1990?
Five years ago, I decided to try to uncover the answers to these questions. I learned that what happened has less to do with the slow and cautious progress of science than it does with the seductive power of storytelling. For most of the 20th century, clinicians told one story about what autism is and how it was discovered, but that story turned out to be wrong, and the consequences of it are having a devastating impact on global public health. There was a second, more accurate story of autism which had been lost and forgotten in obscure corners of the clinical literature. This second story tells us everything about how we got here and where we need to go next.
Năm năm trước đây, tôi quyết định cố gắng trả lời những câu hỏi này. Tôi thấy là những gì diễn ra ít liên quan hơn đến sự phát triển chậm và thận trọng của khoa học bằng nó liên quan đến sức mạnh ảo tưởng của tài kể chuyện. Gần như hết thế kỷ 20, các bác sĩ đã kể một câu chuyện về tự kỷ là gì và nó được phát hiện sao, nhưng câu chuyện đó thực tế là không đúng, và hậu quả của nó là tạo ra một tác động to lớn với y tế công cộng toàn cầu. Có một câu chuyện thứ hai đúng đắn hơn về tự kỷ đã bị mất đi và bị lãng quên trong góc khuất của y văn lâm sàng. Chuyện thứ hai này kể cho chúng ta mọi điều về cách chúng ta đã tới đây và nơi chúng ta cần đi tiếp.
The first story starts with a child psychiatrist at Johns Hopkins Hospital named Leo Kanner. In 1943, Kanner published a paper describing 11 young patients who seemed to inhabit private worlds, ignoring the people around them, even their own parents. They could amuse themselves for hours by flapping their hands in front of their faces, but they were panicked by little things like their favorite toy being moved from its usual place without their knowledge. Based on the patients who were brought to his clinic, Kanner speculated that autism is very rare. By the 1950s, as the world's leading authority on the subject, he declared that he had seen less than 150 true cases of his syndrome while fielding referrals from as far away as South Africa. That's actually not surprising, because Kanner's criteria for diagnosing autism were incredibly selective. For example, he discouraged giving the diagnosis to children who had seizures but now we know that epilepsy is very common in autism. He once bragged that he had turned nine out of 10 kids referred to his office as autistic by other clinicians without giving them an autism diagnosis.
Chuyện thứ nhất bắt đầu bằng một nhà tâm lý học trẻ em tại bệnh viện Johns Hopkins tên là Leo Kanner. Vào năm 1943, Kanner đã đăng một bài báo mô tả 11 bệnh nhân trẻ mà họ dường như sống trong những thế giới riêng, không để ý những người xung quanh họ, thậm chí cả cha mẹ của chính họ. Họ có thể tự làm vui hàng giờ liền bằng cách phe phẩy tay trước mặt họ, nhưng họ lại hoảng hốt vì chuyện nhỏ nhặt như món đồ chơi yêu thích của họ bị di chuyển khỏi nơi thường thấy mà họ không biết trước. Dựa trên những bệnh nhân được đưa đến phòng khám của mình, Kanner tự biện, tự xướng tự kỷ cực kỳ hiếm thấy. Đến những năm 1950, là người đứng đầu thế giới về chủ đề này, ông tuyên bố rằng ông đã thấy gần 150 ca thực sự là triệu chứng ông mô tả trong khi đi thực tế những trường hợp nhờ tham vấn ở tận Nam Phi. Điều đó thực sự không có gì đáng ngạc nhiên. bởi vì tiêu chuẩn của Kanner chuẩn đoán bệnh Tự kỷ cực kỳ giới hạn. Ví dụ ông không khuyến khích đưa chẩn đoán đối với trẻ đã có những cơn co giật nhưng giờ đây chúng ta biết rằng động kinh rất phổ biến với bệnh tự kỷ. Ông từng nói rằng ông đã trả về 9 trong 10 đứa trẻ được giới thiệu đến phòng mạch của ông vì bệnh tự kỷ từ những bác sĩ khác mà không đưa ra chẩn đoán tự kỷ.
Kanner was a smart guy, but a number of his theories didn't pan out. He classified autism as a form of infantile psychosis caused by cold and unaffectionate parents. These children, he said, had been kept neatly in a refrigerator that didn't defrost. At the same time, however, Kanner noticed that some of his young patients had special abilities that clustered in certain areas like music, math and memory. One boy in his clinic could distinguish between 18 symphonies before he turned two. When his mother put on one of his favorite records, he would correctly declare, "Beethoven!" But Kanner took a dim view of these abilities, claiming that the kids were just regurgitating things they'd heard their pompous parents say, desperate to earn their approval. As a result, autism became a source of shame and stigma for families, and two generations of autistic children were shipped off to institutions for their own good, becoming invisible to the world at large.
Kanner là một người thông minh, nhưng một số điều trong các lý thuyết của ông đã không đúng. Ông phân loại tự kỷ là một dạng của rối loạn tâm lý trẻ nhỏ nguyên nhân từ sự lạnh nhạt và thiếu tình cảm của cha mẹ. Những em này, theo ông, đã được giữ kín trong tủ lạnh và không được rã đông. Tuy nhiên, cùng thời điểm đó Kanner cũng đã chỉ ra rằng một số bệnh nhân nhỏ tuổi của ông có những khả năng đặc biệt tập trung trong những lĩnh vực nhất định như là âm nhạc, toán học hoặc trí nhớ. Một cậu bé tại phòng khám của ông có thể phân biệt 18 bản giao hưởng trước khi được 2 tuổi. Khi mẹ cậu bé bật một bản nhạc ưa thích, cậu bé tuyên bố chính xác: "Beethoven!" Nhưng Kanner có một cái nhìn mơ hồ về những khả năng này, nói rằng những đứa trẻ chỉ nhai lại những điều chúng nghe cha mẹ khoa trương của chúng nói, cầu mong để được sự đồng tình. Kết quả là, tự kỷ trở thành nguồn gốc của xấu hổ và vết nhơ đối với các gia đình và hai thế hệ trẻ em tự kỷ được chuyển tới những cơ sở để tự họ sống, rồi biến mất khỏi thế giới trên diện rộng.
Amazingly, it wasn't until the 1970s that researchers began to test Kanner's theory that autism was rare. Lorna Wing was a cognitive psychologist in London who thought that Kanner's theory of refrigerator parenting were "bloody stupid," as she told me. She and her husband John were warm and affectionate people, and they had a profoundly autistic daughter named Susie. Lorna and John knew how hard it was to raise a child like Susie without support services, special education, and the other resources that are out of reach without a diagnosis. To make the case to the National Health Service that more resources were needed for autistic children and their families,
Thú vị thay, cho tới những năm 1970 các nhà nghiên cứu bắt đầu kiểm nghiệm lý thuyết Kanner cho rằng tự kỷ là bệnh hiếm. Lorna Wing là một nhà tâm lý học về nhận thức ở London người cho rằng lý thuyết Kanner về cha mẹ lạnh lùng là "ngớ ngẩn từ trong máu," khi bà nói chuyện với tôi Bà và John chồng bà là những người nồng hậu và tình cảm, và họ có một cô con gái bị tự kỷ nặng tên là Suise. Lorna và John biết được vất vả thế nào để nuôi dạy được một đứa trẻ như Susie khi không có các dịch vụ trợ giúp, giáo dục đặc biệt, và những nguồn khác ngoài tầm với nếu không được chẩn đoán. Để tác động tới Dịch vụ Y tế Quốc gia mà có nhiều nguồn hơn cần cho những trẻ bị tự kỷ và gia đình chúng,
Lorna and her colleague Judith Gould decided to do something that should have been done 30 years earlier. They undertook a study of autism prevalence in the general population. They pounded the pavement in a London suburb called Camberwell to try to find autistic children in the community. What they saw made clear that Kanner's model was way too narrow, while the reality of autism was much more colorful and diverse. Some kids couldn't talk at all, while others waxed on at length about their fascination with astrophysics, dinosaurs or the genealogy of royalty. In other words, these children didn't fit into nice, neat boxes, as Judith put it, and they saw lots of them, way more than Kanner's monolithic model would have predicted.
Lorna và Judith Gould đồng nghiệp của bà đã quyết định làm một cái gì đó đáng lẽ đã phải được làm 30 năm trước. Họ tiến hành một nghiên cứu về tỷ lệ tự kỷ trong cộng đồng. Họ tìm kiếm một cách kỹ càng ở một khu ngoại ô London là Camberwell để cố gắng tìm thấy các trẻ tự kỷ trong cộng đồng. Điều mà họ tìm được đã làm sáng tỏ rằng mô hình của Kanner quá hẹp, trong khi đó sự thực tự kỷ đa dạng và phong phú hơn nhiều. Một số trẻ không nói được gì cả, trong khi những đứa khác lại huyên thuyên niềm đam mê với vật lý thiên văn, khủng long hoặc tìm hiểu về các gia tộc hoàng gia. Nói cách khác, những đứa trẻ này không vừa trong những cái hộp xinh đẹp, gọn gàng, mà Judith đã đặt vào, và họ thấy nhiều đứa trẻ, khác nhiều so với khuôn mẫu cứng nhắc của Kanner đã suy đoán.
At first, they were at a loss to make sense of their data. How had no one noticed these children before? But then Lorna came upon a reference to a paper that had been published in German in 1944, the year after Kanner's paper, and then forgotten, buried with the ashes of a terrible time that no one wanted to remember or think about. Kanner knew about this competing paper, but scrupulously avoided mentioning it in his own work. It had never even been translated into English, but luckily, Lorna's husband spoke German, and he translated it for her.
Đầu tiên, họ không biết làm gì để số liệu của họ có ý nghĩa. Làm sao mà không ai đề cập tới những đứa trẻ này trước đây? Sau đó Lorna tìm thấy nguồn tham khảo trong một bài báo được xuất bản ở Đức vào năm 1944, một năm sau bài báo của Kanner, và rồi bị quên lãng, bị chôn vùi trong đống tro của một thời khủng kiếp mà không ai muốn nhớ lại hoặc nghĩ về nó. Kanner biết về bài báo có tính cạnh tranh này, như đã thận trọng tránh nhắc tới nó trong công trình của ông. Nó thậm chí đã chưa từng được dịch sang tiếng Anh, nhưng may thay, chồng của Lorna biết tiếng Đức, và ông dịch ra cho bà.
The paper offered an alternate story of autism. Its author was a man named Hans Asperger, who ran a combination clinic and residential school in Vienna in the 1930s. Asperger's ideas about teaching children with learning differences were progressive even by contemporary standards. Mornings at his clinic began with exercise classes set to music, and the children put on plays on Sunday afternoons. Instead of blaming parents for causing autism, Asperger framed it as a lifelong, polygenetic disability that requires compassionate forms of support and accommodations over the course of one's whole life. Rather than treating the kids in his clinic like patients, Asperger called them his little professors, and enlisted their help in developing methods of education that were particularly suited to them. Crucially, Asperger viewed autism as a diverse continuum that spans an astonishing range of giftedness and disability. He believed that autism and autistic traits are common and always have been, seeing aspects of this continuum in familiar archetypes from pop culture like the socially awkward scientist and the absent-minded professor. He went so far as to say, it seems that for success in science and art, a dash of autism is essential.
Bài báo này đã đưa ra một câu chuyện khác về tự kỷ. Tác giả của nó là một người đàn ông tên Hans Asperger, là người điều hành một ngôi trường kết hợp giữa phòng khám và nội trú ở Vienna vào những năm 1930. Ý tưởng của Asperger về việc giáo dục trẻ em có khả năng học tập khác nhau là sự tiến bộ, thậm chí bằng các tiêu chuẩn thời đó. Buổi sáng ở phòng khám của ông bắt đầu bằng tập thể dục cả lớp với âm nhạc, và những đứa trẻ được cho chơi vào các buổi chiều Chủ Nhật Thay vì đổ lỗi cho cha mẹ gây ra tự kỷ, Asperger đóng khung nó là một tật nguyền suốt đời, do nhiều gen gây ra mà cần nhiều hình thức thương cảm trong sự hỗ trợ và giúp thích nghi trên con đường của cả cuộc đời một người. Thay vì điều trị những đứa trẻ trong phòng khám như bệnh nhân, Asperger gọi chúng là những giáo sư nhỏ bé, và chiêu mộ sự giúp đỡ của họ trong việc phát triển các phương pháp giáo dục chỉ duy phù hợp với họ. Điều quan trọng là Asperger nhìn nhận tự kỷ là một sự đa dạng liên tục bắt nhịp cho một khoảng rộng đáng kinh ngạc của thiên tài và khuyết tật. Ông tin rằng tự kỷ và các đặc điểm tự kỷ rất phổ biến và luôn như vậy, xem các khía cạnh của sự liên tục này trong nguyên mẫu quen thuộc của văn hoá nhạc pop như một nhà khoa học lúng túng về giao tiếp xã hội và một vị giáo sư hay quên. Ông ấy đã tiến một bước xa hơn để nói rằng, dường như sự thành công trong khoa học và nghệ thuật, một gạch nối cho (chữ) tự kỷ là cần thiết.
Lorna and Judith realized that Kanner had been as wrong about autism being rare as he had been about parents causing it. Over the next several years, they quietly worked with the American Psychiatric Association to broaden the criteria for diagnosis to reflect the diversity of what they called "the autism spectrum." In the late '80s and early 1990s, their changes went into effect, swapping out Kanner's narrow model for Asperger's broad and inclusive one.
Lorna và Judith nhận ra rằng Kanner đã sai lầm khi cho rằng tự kỷ là bệnh hiếm cũng như khi cho rằng cha mẹ đã gây ra nó. Nhiều năm sau đó, họ đã âm thầm làm việc với Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ để mở rộng tiêu chuẩn chẩn đoán để phản ánh sự đa dạng của cái họ gọi là "phổ tự kỷ". Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, những thay đổi của họ có hiệu lực, đã thay thế mô hình hẹp của Kanner bằng mô hình rộng và bao trùm của Asperger.
These changes weren't happening in a vacuum. By coincidence, as Lorna and Judith worked behind the scenes to reform the criteria, people all over the world were seeing an autistic adult for the first time. Before "Rain Man" came out in 1988, only a tiny, ingrown circle of experts knew what autism looked like, but after Dustin Hoffman's unforgettable performance as Raymond Babbitt earned "Rain Man" four Academy Awards, pediatricians, psychologists, teachers and parents all over the world knew what autism looked like.
Những thay đổi này đều có trước có sau. Tình cờ, khi Lorna và Judith làm việc sau hậu trường để cải cách các tiêu chuẩn, mọi người trên thế giới thấy được một người trưởng thành bị tự kỷ lần đầu tiên. Trước khi bộ phim "Rain Man" trình chiếu vào năm 1988, chỉ có một nhóm rất nhỏ vừa xuất hiện các chuyên gia biết thế nào là tự kỷ, nhưng sau sự diễn xuất khó quên của Dustin Hoffman trong vai Raymond Babbitt mang đến cho "Rain Man" bốn Giải thưởng Hàn Lâm, các bác sĩ nhi khoa, bác sĩ tâm lý, giáo viên và cha mẹ trên khắp thế giới đã biết được tự kỷ là như thế nào.
Coincidentally, at the same time, the first easy-to-use clinical tests for diagnosing autism were introduced. You no longer had to have a connection to that tiny circle of experts to get your child evaluated.
Ngẫu nhiên cùng thời điểm đó, bộ trắc nhiệm lâm sàng đơn giản đầu tiên để chẩn đoán tự kỷ được đưa vào sử dụng. Bạn không cần phải có sự liên hệ với nhóm nhỏ chuyên gia kia để cho con bạn được chẩn đoán.
The combination of "Rain Man," the changes to the criteria, and the introduction of these tests created a network effect, a perfect storm of autism awareness. The number of diagnoses started to soar, just as Lorna and Judith predicted, indeed hoped, that it would, enabling autistic people and their families to finally get the support and services they deserved.
Sự kết hợp giữa bộ phim "Rain Man," sự thay đổi của tiêu chuẩn chẩn đoán, và sự triển khai của bộ trắc nghiệm này đã tạo ra một hiệu quả có tính mạng lưới, một cơn bão hoàn hảo về nhận thức về tự kỷ. Số lượng được chẩn đoán bắt đầu tăng vọt, giống như là Lorna và Judith đã dự đoán, thực tế là hy vọng nó sẽ như vậy, để giúp những người tự kỷ và gia đình họ cuối cùng có được sự hỗ trợ và những dịch vụ mà họ đáng được hưởng.
Then Andrew Wakefield came along to blame the spike in diagnoses on vaccines, a simple, powerful, and seductively believable story that was as wrong as Kanner's theory that autism was rare.
Sau đó Andrew Wakefield xuất hiện quy cho sự tăng vọt của chẩn đoán từ vắc xin, một câu chuyện đơn giản, mạnh mẽ và mang niềm tin mê hoặc nhưng cũng sai lầm giống lý thuyết của Kanner rằng tự kỷ rất hiếm vậy.
If the CDC's current estimate, that one in 68 kids in America are on the spectrum, is correct, autistics are one of the largest minority groups in the world. In recent years, autistic people have come together on the Internet to reject the notion that they are puzzles to be solved by the next medical breakthrough, coining the term "neurodiversity" to celebrate the varieties of human cognition.
Nếu ước tính hiện tại của CDC, rằng một trong 68 trẻ em ở Mỹ có trong phổ tự kỷ, là đúng, thì người tự kỷ là một trong những nhóm thiểu số lớn nhất thế giới. Trong những năm gần đây, những người tự kỷ tụ họp với nhau trên internet. để phản đối khái niệm rằng họ là những mối rắc rối cần được giải quyết bằng các tiến bộ y khoa kế tiếp, đưa ra thuật ngữ "sự đa dạng thần kinh" để tôn vinh đối với sự đa dạng về sự nhận thức con người.
One way to understand neurodiversity is to think in terms of human operating systems. Just because a P.C. is not running Windows doesn't mean that it's broken. By autistic standards, the normal human brain is easily distractable, obsessively social, and suffers from a deficit of attention to detail. To be sure, autistic people have a hard time living in a world not built for them. [Seventy] years later, we're still catching up to Asperger, who believed that the "cure" for the most disabling aspects of autism is to be found in understanding teachers, accommodating employers, supportive communities, and parents who have faith in their children's potential.
Một cách để hiểu về sự đa dạng thần kinh là nghĩ về các thuật ngữ của các hệ thống vận hành của con người. Giống như việc một cái máy tính không chạy Windows không có nhĩa là nó hỏng. Theo chuẩn của tự kỷ, bộ não bình thường của con người rất dễ dàng bị chi phối, ám ảnh xã hội, và chịu đựng thiếu hụt sự chú ý vào chi tiết. Chắc rằng những người tự kỷ sẽ rất khó khăn sống trong một thế giới không xây cho họ. 70 năm sau, chúng ta vẫn làm theo Asperger, người cho rằng việc "chữa khỏi" cho hầu hết những khía cạch khiếm khuyết của tự kỷ có thể thực hiện được từ các giáo viên hiểu biết, sự điều tiết phù hợp của người quản lý, cộng đồng hỗ trợ, và cha mẹ tin tưởng vào tiềm năng của con cái họ.
An autistic [man] named Zosia Zaks once said, "We need all hands on deck to right the ship of humanity." As we sail into an uncertain future, we need every form of human intelligence on the planet working together to tackle the challenges that we face as a society. We can't afford to waste a brain.
Một người phụ nữ tự kỷ tên Zosia Zaks đã từng nói, "Chúng tôi cần tất cả mọi người trên khoang để chỉnh hướng con tàu loài người" Vì chúng ta hướng tới một tương lai bất định, chúng ta cần tất cả mọi loại hình trí tuệ con người trên hành tinh này làm việc cùng nhau để vượt qua những trở ngại mà chúng ta phải đối mặt trong xã hội. Chúng ta không thể lãng phí bất kỳ bộ não nào.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Khán giả vỗ tay)