Today I want to talk to you about ethnic conflict and civil war. These are not normally the most cheerful of topics, nor do they generally generate the kind of good news that this conference is about. Yet, not only is there at least some good news to be told about fewer such conflicts now than two decades ago, but what is perhaps more important is that we also have come to a much better understanding of what can be done to further reduce the number of ethnic conflicts and civil wars and the suffering that they inflict. Three things stand out: leadership, diplomacy and institutional design. What I will focus on in my talk is why they matter, how they matter, and what we can all do to make sure that they continue to matter in the right ways, that is, how all of us can contribute to developing and honing the skills of local and global leaders to make peace and to make it last. But let's start at the beginning.
Hôm nay, tôi muốn nói chuyện với các bạn về vấn đề xung đột sắc tộc và nội chiến. Những điều này không phải là những chủ đề vui vẻ gì và chúng cũng không đem lại những tin tức gì mới lạ mà cuộc thảo luận này muốn hướng đến. Tuy nhiên, không những có chí ít một vài tin tốt lành để nói rằng xung đột bây giờ đã ít hơn so với hai thập kỷ trước, mà quan trọng hơn là việc chúng ta đã nhận thức rõ hơn về những điều chúng ta có thể làm để giảm thiểu hơn nữa con số những cuộc xung đột sắc tộc và nội chiến và những thương đau mà chúng tạo nên. Xin nêu ra ba yếu tố nổi bật: lãnh đạo, ngoại giao và tạo lập thiết chế Điều tôi chú trọng trong bài nói chuyện của mình là tại sao những yếu tố đó là quan trọng, quan trọng ra sao, và tất cả chúng ta có thể làm gì để đảm bảo rằng chúng duy trì được tầm quan trọng đó theo chiều hướng tốt. có nghĩa là, bằng cách nào để tât cả chúng ta góp phần phát triển và cải thiện những kỹ năng dành cho các cấp lãnh đạo ở khu vực và thế giới để đem lại hòa bình và duy trì nền hòa bình đó. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu từ đầu.
Civil wars have made news headlines for many decades now, and ethnic conflicts in particular have been a near constant presence as a major international security threat. For nearly two decades now, the news has been bad and the images have been haunting. In Georgia, after years of stalemate, we saw a full-scale resurgence of violence in August, 2008. This quickly escalated into a five-day war between Russia and Georgia, leaving Georgia ever more divided. In Kenya, contested presidential elections in 2007 -- we just heard about them -- quickly led to high levels of inter-ethnic violence and the killing and displacement of thousands of people. In Sri Lanka, a decades-long civil war between the Tamil minority and the Sinhala majority led to a bloody climax in 2009, after perhaps as many as 100,000 people had been killed since 1983. In Kyrgyzstan, just over the last few weeks, unprecedented levels of violence occurred between ethnic Kyrgyz and ethnic Uzbeks. Hundreds have been killed, and more than 100,000 displaced, including many ethnic Uzbeks who fled to neighboring Uzbekistan. In the Middle East, conflict between Israelis and Palestinians continues unabated, and it becomes ever more difficult to see how, just how a possible, sustainable solution can be achieved. Darfur may have slipped from the news headlines, but the killing and displacement there continues as well, and the sheer human misery that it creates is very hard to fathom. And in Iraq, finally, violence is on the rise again, and the country has yet to form a government four months after its last parliamentary elections.
Những cuộc nội chiến đã trở thành tiêu đề cho các bản tin từ nhiều thập kỷ trước đến nay, và đặc biệt là những cuộc xung đột sắc tộc liên tục hiện diện như một nỗi đe dọa an ninh thế giới. Khoảng gần hai thập niên trở lại đây, tình hình trở nên tồi tệ và những hình ảnh ghi được đã và đang là nỗi ám ảnh. Ở Georgia, sau nhiều năm bế tắc, chúng ta đã thấy bạo động trỗi dậy hàng loạt vào tháng 8 năm 2008. Nó nhanh chóng leo thang thành một cuộc chiến kéo dài 5 ngày giữa Nga và Georgia, làm cho Georgia bị chia cắt nhiều hơn trước. Ở Kenya, cuộc tranh cử Tổng Thống năm 2007 mà chúng ta đã nghe nói đến nhanh chóng dẫn đến tình trạng bạo lực căng thẳng hơn giữa các sắc tộc cùng sự chém giết và di tản của hàng ngàn con người. Ở Sri Lanka, cuộc nội chiến kéo dài mấy chục năm giữa đồng bào thiểu số Tamil với dân tộc số đông Sinhala dẫn đến một cao trào đẫm máu năm 2009 sau khi khoảng 100 nghìn người đã thiệt mạng kể từ năm 1983. Ở Kyrgyzstan, chỉ mới hơn vài tuần trước đây, bạo lực xảy ra với mức độ chưa từng có giữa hai dân tộc Kyrgyz và Uzbeks. Hàng trăm người thiệt mạng, và hơn 100 ngàn người phải sơ tán, bao gồm nhiều người Uzbeks phải chạy sang nước láng giềng Uzbekistan. Ở Trung Đông, xung đột giữa người Israel và Palestin vẫn không hề suy giảm và lúc nào người ta cũngcthấy khó khăn hơn để tìm thấy một giải pháp hòa bình khả dĩ và bền vững để có thể đạt được. Darfur đã ít xuất hiện trên các tiêu đề tin tức, nhưng sự giết chóc và sơ tán ở nơi đây vẫn tiếp diễn, và thật khó để đong đếm những nỗi thống khổ cho con người mà nó gây nên. Và cuối cùng, ở Iraq, bạo lực lại tiếp tục gia tăng, và chính phủ mới, 4 tháng sau lần tiến hành bầu cử Quốc Hội gần đây nhất, vẫn chưa được thiết lập.
But hang on, this talk is to be about the good news. So are these now the images of the past? Well, notwithstanding the gloomy pictures from the Middle East, Darfur, Iraq, elsewhere, there is a longer-term trend that does represent some good news. Over the past two decades, since the end of the Cold War, there has been an overall decline in the number of civil wars. Since the high in the early 1990s, with about 50 such civil wars ongoing, we now have 30 percent fewer such conflicts today. The number of people killed in civil wars also is much lower today than it was a decade ago or two. But this trend is less unambiguous. The highest level of deaths on the battlefield was recorded between 1998 and 2001, with about 80,000 soldiers, policemen and rebels killed every year. The lowest number of combatant casualties occurred in 2003, with just 20,000 killed. Despite the up and down since then, the overall trend -- and this is the important bit -- clearly points downward for the past two decades.
Nhưng hãy tạm gác chuyện đó lại, vì tôi muốn đề cập đến tin tốt lành. Vậy thì hiện nay, chúng phải chăng đã trở thành hình ảnh của quá khứ? Ồ, dù cho có những bức tranh ảm đạm ở Trung Đông, Dafur, Iraq, hay những nơi khác, thì vẫn có một xu hướng lâu dài thật sự cho thấy được những tin tức tốt đẹp. Hơn hai thập niên trước kể từ sau khi Chiến Tranh lạnh kết thúc, nhìn chung, con số những cuộc nội chiến đã giảm. Kể từ đầu những năm 90, với khoảng 50 cuộc nội chiến xảy ra, thì giờ đây chúng ta đã giảm được 30% những xung đột như vậy. Con số những người thiệt mạng do nội chiến nay đã thuyên giảm so với một hoặc hai thập kỷ trước. Tuy nhiên xu hướng này vẫn không rõ ràng. Mức độ thiệt mạng trên chiến trường đạt kỷ lục trong khoảng từ năm 1998 đến năm 2001, với khoảng 80 nghìn binh lính, cảnh sát và phiến quân tử trận mỗi năm. Năm 2003, số lượng binh sĩ thương vong là thấp nhất, với chỉ 20 nghìn người vong trận. Kể từ đó, dù có những sự tăng giảm, song xu hướng chung- - và đây mới là điều quan trọng - đó là sự giảm xuống so với 2 thập niên trước.
The news about civilian casualties is also less bad than it used to be. From over 12,000 civilians deliberately killed in civil wars in 1997 and 1998, a decade later, this figure stands at 4,000. This is a decrease by two-thirds. This decline would be even more obvious if we factored in the genocide in Rwanda in 1994. But then 800,000 civilians were slaughtered in a matter of just a few months. This certainly is an accomplishment that must never be surpassed. What is also important is to note that these figures only tell part of the story. They exclude people that died as a consequence of civil war, from hunger or disease, for example. And they also do not properly account for civilian suffering more generally. Torture, rape and ethnic cleansing have become highly effective, if often non-lethal, weapons in civil war. To put it differently, for the civilians that suffer the consequences of ethnic conflict and civil war, there is no good war and there is no bad peace. Thus, even though every civilian killed, maimed, raped, or tortured is one too many, the fact that the number of civilian casualties is clearly lower today than it was a decade ago, is good news.
Những tin tức về tổn thất dân tình cũng ít đi so với trước đây. Từ hơn 12 nghìn người dân thường bị giết hại có chủ ý trong những cuộc nội chiến năm 1997 và 1998, mười năm sau, con số này dừng lại ở 4 nghìn người. Thương vong đã giảm 2/3. Sự suy giảm này thậm chí có thể thấy rõ ràng hơn nếu chúng ta đối chiếu với cuộc diệt chủng ở Rwanda năm 1994. Nhưng sau đó 800 nghìn dân thường đã bị tàn sát trong một vụ việc chỉ trong một vài tháng. Đây là một sự mất mát không gì sánh được. Một điều cũng không kém quan trọng là cần lưu ý rằng những con số này chỉ phản ánh một phần của sự việc. Những con số đó chưa tính đến những người đã chết do nội chiến, hay do nạn đói, dịch bệnh chẳng hạn. Và chúng cũng không thể giải thích thỏa đáng những đau thương của dân tình nói chung. Tra tấn, cưỡng bức và thanh lọc sắc tộc lại trở nên hiệu quả một cách khốc liệt nếu như trong nội chiến không có cảnh sát thương và vũ khí. Nói cách khác, đối với những người dân phải gánh chịu hậu quả của xung đột sắc tộc và nội chiến, thì không có cuộc chiến tranh nào mang lại kết quả tốt đẹp, và không hề có loại hòa bình nào là xấu xa cả. Vì vậy, dù cho việc người dân bị thiệt mạng, bị thương, bị cưỡng bức hay tra tấn vẫn còn nhiều, trên thực tế, con số dân bị thương vong ngày nay giảm rõ rệt so với một thập kỷ trước, đó là điều đáng mừng.
So, we have fewer conflicts today in which fewer people get killed. And the big question, of course, is why? In some cases, there is a military victory of one side. This is a solution of sorts, but rarely is it one that comes without human costs or humanitarian consequences. The defeat of the Tamil Tigers in Sri Lanka is perhaps the most recent example of this, but we have seen similar so-called military solutions in the Balkans, in the South Caucasus and across most of Africa. At times, they are complimented by negotiated settlements, or at least cease-fire agreements, and peacekeepers are deployed. But hardly ever do they represent a resounding success -- Bosnia and Herzegovina perhaps more so than Georgia. But for many parts of Africa, a colleague of mine once put it this way, "The cease-fire on Tuesday night was reached just in time for the genocide to start on Wednesday morning."
Cho nên, ngày nay, khi chúng ta có ít xung đột hơn số người bị chết do những xung đột đó cũng sẽ ít đi và tất nhiên, câu hỏi lớn đặt ra là tại sao? Trong một số trường hợp, quân đội của một bên sẽ giành chiến thắng. Đây đại loại cũng là một giải pháp cho hòa bình, nhưng hiếm khi là một giải pháp mà không đánh đổi sinh mạng hay những hệ lụy về mặt nhân đạo Sự thất bại của đội quân Tamil ở Sri Lanka có lẽ là một dẫn chứng gần đây nhất về điều này, tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy những cái gọi là giải pháp quân sự tương tự như vậy ở khu vực Balkans, ở nam Caucasus và khắp hầu hết Phi châu. Đôi khi, những giải pháp đó được tán thưởng nhờ những khu tái thiết thông qua đàm phán hoặc chí ít là những thỏa thuận ngừng bắn, và triền khai lực lượng gìn giữ hòa bình. Nhưng hầu như không bao giờ chúng thể hiện một thành công vang dội - Bosnia và Herzegovina có lẽ ở tình cảnh như vậy nhiều hơn so với Georgia. Nhưng đối với nhiều nơi ở Châu Phi, một đồng nghiệp của tôi đã một lần nói theo cách này, "Việc ngừng bắn vào đêm Thứ Ba đã đạt được vừa đúng thời điểm để cuộc diệt chủng bắt đầu vào sáng thứ Tư."
But let's look at the good news again. If there's no solution on the battlefield, three factors can account for the prevention of ethnic conflict and civil war, or for sustainable peace afterwards: leadership, diplomacy and institutional design. Take the example of Northern Ireland. Despite centuries of animosity, decades of violence and thousands of people killed, 1998 saw the conclusion of an historic agreement. Its initial version was skillfully mediated by Senator George Mitchell. Crucially, for the long-term success of the peace process in Northern Ireland, he imposed very clear conditions for the participation and negotiations. Central among them, a commitment to exclusively peaceful means. Subsequent revisions of the agreement were facilitated by the British and Irish governments, who never wavered in their determination to bring peace and stability to Northern Ireland.
Nhưng một lần nữa hãy theo dõi tin tốt lành. Nếu không tìm ra giải pháp trên chiến trường, thì có 3 yếu tố có thể được tính đến cho việc ngăn ngừa xung đột sắc tộc và nội chiến, hay cho một nền hòa bình bền vững về sau: sự lãnh đạo, ngoại giao và kiến tạo thể chế. Bắc Ai-len là một ví dụ. Dù qua hàng thế kỉ với nỗi ác cảm, hàng thập kỷ với bạo lực và cướp đi sinh mệnh của hàng nghìn người, năm 1998 đã chứng kiến kết cục của sự thỏa thuận mang tính lịch sử. Phiên bản đầu tiên của thỏa thuận này đã được Nghị sĩ George Mitchell khéo léo làm trung gian. Quan trọng là, để có được sự thành công lâu dài trong tiến trình hòa bình ở Bắc Ai-len, ông đã áp đặt những điều kiện rất rõ ràng cho việc tham gia cùng nhau và những cuộc đàm phán. Trong số đó là cam kết chỉ đối với những phương cách hòa bình. Những phiên bản thỏa thuận tiếp theo được hỗ trợ bởi chính phủ Anh và Ai-len, những người không bao giờ lay chuyển quyết tâm để mang đến nền hòa bình và ổn định cho Bắc Ai-len.
The core institutions that were put in place in 1998 and their modifications in 2006 and 2008 were highly innovative and allowed all conflict parties to see their core concerns and demands addressed. The agreement combines a power-sharing arrangement in Northern Ireland with cross-border institutions that link Belfast and Dublin and thus recognizes the so-called Irish dimension of the conflict. And significantly, there's also a clear focus on both the rights of individuals and the rights of communities. The provisions in the agreement may be complex, but so is the underlying conflict. Perhaps most importantly, local leaders repeatedly rose to the challenge of compromise, not always fast and not always enthusiastically, but rise in the end they did. Who ever could have imagined Ian Paisley and Martin McGuinness jointly governing Northern Ireland as First and Deputy First Minister?
Những thiết chế cốt lõi được đưa ra năm 1998 và những sửa đổi vào những năm 2006 và 2008 đã được cách tân thực sự và cho phép tất cả các bên xung đột giải quyết những mối quan tâm và nhu cầu cốt lõi. Thỏa thuận kết hợp một sự dàn xếp việc chia sẻ quyền lực ở Bắc Ai-len với các thiết chế xuyên biên giới nối giữa Belfast và Dublin và từ đó nhận ra cái gọi là chiều kích của cuộc xung đột Ai-len. Và đáng chú ý là, người ta cũng đặt ra sự chú trọng rõ ràng về quyền lợi cá nhân và quyền lợi của các cộng đồng. Các quy định trong bản thỏa thuận có thể phức tạp, song những mầm mống mâu thuẫn cũng phức tạp như vậy. Có lẽ quan trọng nhất là, các nhà lãnh đạo ở địa phương đã liên tục vượt lên trước những thách thức cho sự thỏa hiệp, không phải khi nào cũng nhanh chóng và không phải khi nào cũng nhiệt thành, nhưng cuối cùng họ đã vượt lên. Ai mà có thể tưởng tưởng được Ian Paisley và Martin McGuinness đã phối hợp điều hành Bắc Ai-len với tư cách là Thủ tướng và phó Thủ tướng đầu tiên?
But then, is Northern Ireland a unique example, or does this kind of explanation only hold more generally in democratic and developed countries? By no means. The ending of Liberia's long-lasting civil war in 2003 illustrates the importance of leadership, diplomacy and institutional design as much as the successful prevention of a full-scale civil war in Macedonia in 2001, or the successful ending of the conflict in Aceh in Indonesia in 2005. In all three cases, local leaders were willing and able to make peace, the international community stood ready to help them negotiate and implement an agreement, and the institutions have lived up to the promise that they held on the day they were agreed.
Nhưng mà, có phải Bắc Ai-len là một tấm gương độc đáo hay là lời giải này chỉ có tác dụng phổ quát hơn cho các nước dân chủ và phát triển? Tất nhiên là không. Sự chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài ở Liberia năm 2003 cho thấy tầm quan trọng của sự lãnh đạo, ngoại giao và kiến tạo thiết chế cũng quan trọng nhiều như là sự ngăn chặn thành công một cuộc nội chiến toàn phần ở Macedonia năm 2001, hay là một kết cục mỹ mãn cho cuộc xung đột ở Aceh - Indonesia năm 2005. Trong cả ba trường hợp, những người đứng đầu đất nước đều sẵn lòng và có khả năng để gây dựng hòa bình, cộng đồng quốc tế đã sẵn sàng để giúp họ đàm phán và thực hiện một sự thỏa thuận, và các thiết chế đã giúp giữ được những cam kết hứa hẹn chứa đựng vào ngày các bên đồng ý thoả thuận về các thiết chế đó.
Focusing on leadership, diplomacy and institutional design also helps explain failures to achieve peace, or to make it last. The hopes that were vested in the Oslo Accords did not lead to an end of the Israeli/Palestinian conflict. Not all the issues that needed to be resolved were actually covered in the agreements. Rather, local leaders committed to revisiting them later on. Yet instead of grasping this opportunity, local and international leaders soon disengaged and became distracted by the second Intifada, the events of 9/11 and the wars in Afghanistan and Iraq.
Chú trọng vào lãnh đạo, ngoại giao và tạo lập thiết chế cũng giúp giải thích những sự thất bại để đạt tới hòa bình. hay kéo dài hòa bình. Những hi vọng được gởi gắm tại Hiệp định Oslo không dẫn đến sự chấm dứt của cuộc xung đột Israel - Palestinian. Không hẳn tất cả những vấn đề cần giải quyết đều được bao hàm trong những thỏa thuận. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo cam kết sau này sẽ xem xét lại những vấn đề đó. Tuy nhiên, thay vì nắm bắt cơ hội này, những nhà lãnh đạo quốc gia và quốc tế lại sớm thảnh thơi và trở nên lơ đãng vào thời điểm phong trào Intifada lần thứ 2, sự kiện 11 tháng 9 và chiến tranh ở Afghanistan và Iraq.
The comprehensive peace agreement for Sudan signed in 2005 turned out to be less comprehensive than envisaged, and its provisions may yet bear the seeds of a full-scale return to war between north and south. Changes and shortcomings in leadership, more off than on international diplomacy and institutional failures account for this in almost equal measure. Unresolved boundary issues, squabbles over oil revenues, the ongoing conflict in Darfur, escalating tribal violence in the south and generally weak state capacity across all of Sudan complete a very depressing picture of the state of affairs in Africa's largest country.
Thỏa thuận hòa bình toàn diện cho Sudan kí kết năm 2005 hóa ra ít toàn diện hơn so với dự kiến và trong những điều khoản của nó có lẽ vẫn còn mang những mầm mống của một cuộc tái chiến tranh toàn diện giữa hai miền Nam - Bắc. Những thay đổi và thiếu sót trong lãnh đạo, những chính sách ngoại giao quốc tế đóng hơn mở và những thất bại về mặt thiết chế đã giải thích cho tình hình này với vai trò của mỗi yếu tố gần như bằng nhau. Những vấn đề biên giới chưa được giải quyết, những tranh cãi về doanh thu dầu mỏ, sự tiếp diễn xung đột ở Dafur, bạo lực leo thang giữa các tộc người ở miền Nam, và khả năng yếu kém chung của nhà nước khắp đất nước Sudan tạo nên một bức tranh u uất về một đất nước nhiều vấn đề ở quốc gia lớn nhất Châu phi.
A final example: Kosovo. The failure to achieve a negotiated solution for Kosovo and the violence, tension and de facto partition that resulted from it have their reasons in many, many different factors. Central among them are three. First, the intransigence of local leaders to settle for nothing less than their maximum demands. Second, an international diplomatic effort that was hampered from the beginning by Western support for Kosovo's independence. And third, a lack of imagination when it came to designing institutions that could have addressed the concerns of Serbs and Albanians alike. By the same token -- and here we have some good news again -- the very fact that there is a high-level, well-resourced international presence in Kosovo and the Balkans region more generally and the fact that local leaders on both sides have showed relative restraint, explains why things have not been worse over the past two years since 2008.
Ví dụ cuối cùng là Kosovo. Sự thất bại trong việc đạt được những giải pháp có thương lượng cho Kosovo và tình trạng bạo lực, căng thẳng, cùng sự phân rã hiển nhiên do hậu quả của nó có nhiều nguyên do trong rất nhiều nhân tố. Nổi bật lên trong số những nhân tố đó là ba nhân tố sau: Trước hết, chính sách không khoan nhượng của các lãnh đạo địa phương nhằm không khoan nhượng gì ngoài những đòi hỏi tối đa của họ. Hai là, nỗ lực ngoại giao quốc tế bị gặp trở ngại ngay từ buổi đầu bởi sự hậu thuẫn của phương Tây cho nền độc lập của Kosovo. Và thứ ba là sự thiếu tầm nhìn khi đưa ra các thiết chế mà có thể giải quyết những mối quan tâm của người Serb và người Albania như nhau. Mặt khác chúng ta cũng lại có những tin tức tốt lành- thực tế là có sự hiện diện ngày càng phổ biến của một lực lượng quốc tế với nhiều nguồn lực ở Kosovo và khu vực Balkan và việc các nhà lãnh đạo của cả hai phía đã thể hiện mối ràng buộc lẫn nhau, lý giải tại sao mọi thứ không xấu đi trong hơn hai năm qua, kể từ năm 2008.
So even in situations where outcomes are less than optimal, local leaders and international leaders have a choice, and they can make a difference for the better. A cold war is not as good as a cold peace, but a cold peace is still better than a hot war. Good news is also about learning the right lesson. So what then distinguishes the Israeli/Palestinian conflict from that in Northern Ireland, or the civil war in Sudan from that in Liberia? Both successes and failures teach us several critically important things that we need to bear in mind if we want the good news to continue. First, leadership. In the same way in which ethnic conflict and civil war are not natural but man-made disasters, their prevention and settlement does not happen automatically either. Leadership needs to be capable, determined and visionary in its commitment to peace. Leaders need to connect to each other and to their followers, and they need to bring them along on what is an often arduous journey into a peaceful future.
Do vậy ngay cả trong trường hợp kết quả đạt được không phải là tối ưu, các nhà lãnh đạo địa phương và quốc tế vẫn có một sự lựa chọn, và họ có thể tạo ra sự khác biệt để đem lại điều tốt đẹp hơn. Chiến tranh lạnh không tốt đẹp như hòa bình nhưng chiến tranh lạnh vẫn tốt hơn là chiến tranh đổ lửa. Học được một bài học đáng giá cũng là một tin tốt lành. Vậy cái gì để phân biệt xung đột Israel/Palestin với xung đột ở Bắc Ai-len, hay nội chiến ở Sudan với nội chiến ở Liberia? Cả sự thành công và thất bại đều dạy cho chúng ta những điều quan trọng đắt giá mà chúng ta phải khắc ghi nếu chúng ta muốn tiếp tục có những tin tốt lành. Đầu tiên là năng lực lãnh đạo. Cũng giống như khi xung đột sắc tộc và nội chiến không phải là những thảm họa tự nhiên, mà là do con người tạo ra, sự ngăn chặn và cách giải quyết những vấn nạn này cũng không tự động xảy ra. Việc lãnh đạo cần phải có tính khả thi, tính quyết đoàn và có tầm nhìn trong cam kết hòa bình. Các nhà lãnh đạo phải có mối liên hệ với nhau và với những người ủng hộ mình, và cần phải đưa những người ủng hộ đó theo suốt cuộc hành trình gian khổ không ngừng nghỉ đến một tương lai hòa bình.
Second, diplomacy. Diplomacy needs to be well resourced, sustained, and apply the right mix of incentives and pressures on leaders and followers. It needs to help them reach an equitable compromise, and it needs to ensure that a broad coalition of local, regional and international supporters help them implement their agreement.
Thứ hai là chính sách ngoại giao. Vấn đề ngoại giao cần được thực hiện theo nhiều phương thức, phải được duy trì và phải áp dụng sự kết hợp đúng đắn giữa xoa và nắn đối với các nhà lãnh đạo và những người ủng hộ. Cần phải giúp họ đạt được một sự thỏa hiệp công bằng, và đảm bảo được rằng một liên minh rộng lớn của những người ủng hộ ở địa phương, khu vực và quốc tế giúp cho họ thực hiện thỏa thuận.
Third, institutional design. Institutional design requires a keen focus on issues, innovative thinking and flexible and well-funded implementation. Conflict parties need to move away from maximum demands and towards a compromise that recognizes each other's needs. And they need to think about the substance of their agreement much more than about the labels they want to attach to them. Conflict parties also need to be prepared to return to the negotiation table if the agreement implementation stalls.
Thứ ba là kiến tạo các thiết chế. Tạo lập thiết chế đòi hỏi sự chú trọng cao độ vào các vấn đề, đổi mới tư duy và tiến hành linh hoạt và được hậu thuẫn tốt về tài chính. Các bên xung đột cần dẹp bỏ những đòi hỏi tối đa và tiến đến thỏa hiệp nhằm nhận ra nhu cầu của nhau. Và họ cần phải nghĩ đến thực chất của sự thỏa thuận hơn là nghĩ về cái nhãn bên ngoài mà họ gán cho nó. Các bên xung đột cũng cần chuẩn bị để trở lại bàn đàm phán nếu việc thi hành hiệp định chấm dứt.
For me personally, the most critical lesson of all is this: Local commitment to peace is all-important, but it is often not enough to prevent or end violence. Yet, no amount of diplomacy or institutional design can make up for local failures and the consequences that they have. Therefore, we must invest in developing leaders, leaders that have the skills, vision and determination to make peace. Leaders, in other words, that people will trust and that they will want to follow even if that means making hard choices.
Đối với cá nhân tôi, bài học đắt giá nhất chính là sự cam kết của vùng xung đột để đi đến hòa bình là quan trọng hơn cả, nhưng nó thường chưa đủ để ngăn ngừa hay chấm dứt bạo loạn. Tuy nhiên, không có ngoại giao hay tạo lập thiết chế có thể bù đắp cho những thất bại tại vùng xung đột cũng như những hậu quả mà người dân ở đó phải gánh chịu. Vì vậy, chúng ta phải đầu tư vào việc phát triển đội ngũ lãnh đạo, những người lãnh đạo phải có kĩ năng, tầm nhìn và tính quyết đoán để xúc tiến hòa bình. Nói cách khác, những người lãnh đạo là người mà dân chúng tin tưởng và muốn nghe theo ngay cả khi điều đó là một lựa chọn khó khăn.
A final thought: Ending civil wars is a process that is fraught with dangers, frustrations and setbacks. It often takes a generation to accomplish, but it also requires us, today's generation, to take responsibility and to learn the right lessons about leadership, diplomacy and institutional design, so that the child soldiers of today can become the children of tomorrow.
Cuối cùng, chấm dứt nội chiến là một quá trình đầy hiểm nguy, sự tức giận và cả thoái bộ. Phải mất một thế hệ để hoàn tất, nhưng đồng thời nó đòi hỏi thế hệ chúng ta hôm nay, phải có trách nhiệm và học những bài học chính đáng về lãnh đạo, ngoại giao và thiết kế thể chế, để những trẻ con mặc áo lính của ngày hôm nay có thể trở thành những đứa trẻ thật sự của ngày mai.
Thank you.
Xin cảm ơn quý vị.
(Applause)
(Vỗ tay)