I want to talk to you about the future of medicine. But before I do that, I want to talk a little bit about the past. Now, throughout much of the recent history of medicine, we've thought about illness and treatment in terms of a profoundly simple model. In fact, the model is so simple that you could summarize it in six words: have disease, take pill, kill something.
Tôi muốn nói với các bạn về tương lai của y học. Nhưng trước khi bàn về nó, tôi muốn nhắc một chút đến quá khứ. Ngày nay, cũng như trong suốt phần lớn lịch sử y học hiện tại, chúng ta vẫn nghĩ về bệnh tật và cách điều trị theo một mô hình cực kỳ đơn giản. Quả thực, mô hình này đơn giản đến mức chúng ta có thể tóm gọn nó chỉ trong 6 từ: mắc bệnh, uống thuốc, diệt bệnh.
Now, the reason for the dominance of this model is of course the antibiotic revolution. Many of you might not know this, but we happen to be celebrating the hundredth year of the introduction of antibiotics into the United States. But what you do know is that that introduction was nothing short of transformative. Here you had a chemical, either from the natural world or artificially synthesized in the laboratory, and it would course through your body, it would find its target, lock into its target -- a microbe or some part of a microbe -- and then turn off a lock and a key with exquisite deftness, exquisite specificity. And you would end up taking a previously fatal, lethal disease -- a pneumonia, syphilis, tuberculosis -- and transforming that into a curable, or treatable illness. You have a pneumonia, you take penicillin, you kill the microbe and you cure the disease.
Bây giờ, nguyên nhân cho sự chi phối của mô hình này, hiển nhiên, là do cuộc cách mạng kháng sinh. Nhiều người ở đây có thể không biết, rằng chúng ta chuẩn bị kỉ niệm 100 năm kể từ ngày kháng sinh được giới thiệu với nước Mỹ. Nhưng có một điều các bạn đều biết đó là sự xuất hiện này chỉ là một sự thay đổi. Ở đây bạn có một hóa chất, hoặc từ tự nhiên, hoặc được tổng hợp nhân tạo trong phòng thí nghiệm, và nó sẽ được đưa vào cơ thể bạn, tìm mục tiêu dính vào mục tiêu đó – một loại vi khuẩn hoặc một phần của vi khuẩn – và rồi khóa theo nguyên tắc chìa khóa ổ khóa với độ nhạy và đặc hiệu tuyệt đối. Và khi đó, các bệnh lý nguy hiểm, có thể gây tử vong trước đây – như viêm phổi, giang mai, lao – trở thành các bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi được. Bạn bị viêm phổi, bạn uống penicillin, bạn tiêu diệt vi khuẩn và khỏi bệnh.
So seductive was this idea, so potent the metaphor of lock and key and killing something, that it really swept through biology. It was a transformation like no other. And we've really spent the last 100 years trying to replicate that model over and over again in noninfectious diseases, in chronic diseases like diabetes and hypertension and heart disease. And it's worked, but it's only worked partly. Let me show you. You know, if you take the entire universe of all chemical reactions in the human body, every chemical reaction that your body is capable of, most people think that that number is on the order of a million. Let's call it a million. And now you ask the question, what number or fraction of reactions can actually be targeted by the entire pharmacopoeia, all of medicinal chemistry? That number is 250. The rest is chemical darkness. In other words, 0.025 percent of all chemical reactions in your body are actually targetable by this lock and key mechanism. You know, if you think about human physiology as a vast global telephone network with interacting nodes and interacting pieces, then all of our medicinal chemistry is operating on one tiny corner at the edge, the outer edge, of that network. It's like all of our pharmaceutical chemistry is a pole operator in Wichita, Kansas who is tinkering with about 10 or 15 telephone lines.
Sự cám dỗ của tưởng này, sự thuyết phục của phép ẩn dụ nguyên lý chìa khóa ổ khóa để tiêu diệt mầm bệnh, khiến nó trở thành xu hướng trong sinh học. Đây là một sự thay đổi hoàn toàn mới mẻ. Và thật sự, trong 100 năm qua, chúng ta đã cố gắng để nhân rộng hơn nữa mô hình này ở các bệnh không lây nhiểm, các bệnh mạn tính như tiểu đường, cao huyết áp, các bệnh tim mạch. Và nó đã hiệu quả, nhưng chỉ hiệu quả phần nào. Để tôi chỉ ra cho các bạn. Các bạn biết đó, nếu ta ước tính toàn bộ các phản ứng hóa học trong cơ thể con người, mọi phản ứng mà cơ thể các bạn có khả năng thực hiện, phần lớn đều nghĩ con số này phải lên đến hàng triệu. Hãy xem như khoảng 1 triệu. Và rồi bạn thắc mắc, số lượng hoặc phần trăm các phản ứng có thể bị tác động bởi thuốc, bởi tất cả các chất hóa học trong dược phẩm là bao nhiêu? Con số đó là 250. Phần còn lại vẫn còn trong bóng tối. Nói cách khác, cơ chế chìa khóa ổ khóa chỉ có thể nhắm tới 0.025% tất cả các phản ứng hóa học trong cơ thể bạn. Các bạn biết không, nếu các bạn xem cơ chế sinh lý của con người như một mạng viễn thông toàn cầu khổng lồ với các nút và các phần tương tác, thì các chất hóa dược của chúng ta chỉ hoạt động ở một góc nhỏ, ở rìa ngoài của mạng lưới đó. Toàn bộ các chất hóa dược của chúng ta chỉ như 1 trạm điều hành ở Wichita, Kansas, đang mày mò với khoảng 10-15 đường dây điện thoại.
So what do we do about this idea? What if we reorganized this approach? In fact, it turns out that the natural world gives us a sense of how one might think about illness in a radically different way, rather than disease, medicine, target. In fact, the natural world is organized hierarchically upwards, not downwards, but upwards, and we begin with a self-regulating, semi-autonomous unit called a cell. These self-regulating, semi-autonomous units give rise to self-regulating, semi-autonomous units called organs, and these organs coalesce to form things called humans, and these organisms ultimately live in environments, which are partly self-regulating and partly semi-autonomous.
Và rồi chúng ta làm gì với ý tưởng này? Sẽ ra sao nếu chúng ta sắp xếp lại cách tiếp cận này? Sự thực là, thì ra chính tự nhiên lại cung cấp cho chúng ta một hướng suy nghĩ về bệnh tật, hoàn toàn khác so với cách nghĩ bệnh, thuốc, mục tiêu. Quả thực, thế giới tự nhiên được tổ chức theo thứ bậc tăng dần, hướng lên, chứ không phải hướng xuống, và chúng ta bắt đầu bằng một đơn vị tự điều tiết, bán tự động gọi là tế bào. Các đơn vị tự điều tiết và bán tự động này cấu thành những đơn vị tự điều tiết và bán tự động cao hơn gọi là cơ quan, và các cơ quan này hợp lại tạo thành con người, và những sinh vật này chủ yếu sống trong môi trường, nơi mà phần nào tự điều tiết và bán tự động.
What's nice about this scheme, this hierarchical scheme building upwards rather than downwards, is that it allows us to think about illness as well in a somewhat different way. Take a disease like cancer. Since the 1950s, we've tried rather desperately to apply this lock and key model to cancer. We've tried to kill cells using a variety of chemotherapies or targeted therapies, and as most of us know, that's worked. It's worked for diseases like leukemia. It's worked for some forms of breast cancer, but eventually you run to the ceiling of that approach. And it's only in the last 10 years or so that we've begun to think about using the immune system, remembering that in fact the cancer cell doesn't grow in a vacuum. It actually grows in a human organism. And could you use the organismal capacity, the fact that human beings have an immune system, to attack cancer? In fact, it's led to the some of the most spectacular new medicines in cancer.
Cái hay của sơ đồ phân cấp xây dựng mô hình từ dưới lên thay vì từ trên xuống này, là ở chỗ nó cho phép chúng ta nghĩ về bệnh tật theo một cách khác hơn. Lấy ví dụ như bệnh ung thư. Kể từ những năm 50, chúng ta đã cố áp dụng mô hình chìa khóa ổ khóa này lên ung thư một cách vô vọng. Chúng ta đã cố gắng giết các tế bào bằng nhiều phương pháp hóa trị hoặc các liệu pháp trúng đích, và như phần lớn mọi người đã biết, nó hiệu quả. Hiệu quả với những bệnh như bệnh bạch cầu. Nó cũng có tác dụng ở 1 vài dạng ung thư vú, nhưng dần dần, phương pháp này cũng tới giới hạn. Và chỉ mới khoảng 10 năm trở lại đây, chúng ta mới bắt đầu nghĩ đến việc sử dụng hệ miễn dịch, nhớ ra tế bào ung thư không phát triển trong chân không. Mà là bên trong 1 cơ quan nào đó của con người. Và liệu chúng ta có thể dùng khả năng của cơ quan đó, dựa vào hệ thống miễn dịch có sẵn, để tấn công ung thư? Trong thực tế, điều này đưa đến 1 vài loại thuốc mới, tốt nhất để chống ung thư.
And finally there's the level of the environment, isn't there? You know, we don't think of cancer as altering the environment. But let me give you an example of a profoundly carcinogenic environment. It's called a prison. You take loneliness, you take depression, you take confinement, and you add to that, rolled up in a little white sheet of paper, one of the most potent neurostimulants that we know, called nicotine, and you add to that one of the most potent addictive substances that you know, and you have a pro-carcinogenic environment. But you can have anti-carcinogenic environments too. There are attempts to create milieus, change the hormonal milieu for breast cancer, for instance. We're trying to change the metabolic milieu for other forms of cancer.
Và cuối cùng đến mức độ môi trường đúng không nhỉ? Chúng tôi không nghĩ ung thư làm thay đổi môi trường. Hãy để tôi cho các bạn 1 ví dụ về môi trường có khả năng gây ung thư cao. Nó được gọi là 1 nhà tù. Bạn lấy sự cô đơn, trầm cảm, bạn lấy sự giam cầm, gói chúng lại trong 1 miếng giấy trắng nhỏ, và thêm vào đó 1 trong các chất kích thích thần kinh mạnh nhất chúng ta từng biết, nicotine, rồi thêm vào đó 1 trong những chất gây nghiện mạnh nhất, và các bạn có 1 môi trường chuyên gây ung thư. Nhưng bạn cũng có thể có 1 môi trường chống ung thư. Có những nỗ lực tạo ra các môi trường đó, như để biến đổi môi trường hormone trong bệnh ung thư vú. Ta cũng đang cố thay đổi môi trường trao đổi chất ở nhiều dạng ung thư khác.
Or take another disease, like depression. Again, working upwards, since the 1960s and 1970s, we've tried, again, desperately to turn off molecules that operate between nerve cells -- serotonin, dopamine -- and tried to cure depression that way, and that's worked, but then that reached the limit. And we now know that what you really probably need to do is to change the physiology of the organ, the brain, rewire it, remodel it, and that, of course, we know study upon study has shown that talk therapy does exactly that, and study upon study has shown that talk therapy combined with medicines, pills, really is much more effective than either one alone. Can we imagine a more immersive environment that will change depression? Can you lock out the signals that elicit depression? Again, moving upwards along this hierarchical chain of organization. What's really at stake perhaps here is not the medicine itself but a metaphor. Rather than killing something, in the case of the great chronic degenerative diseases -- kidney failure, diabetes, hypertension, osteoarthritis -- maybe what we really need to do is change the metaphor to growing something. And that's the key, perhaps, to reframing our thinking about medicine.
Hoặc lấy ví dụ ở 1 bệnh khác, trầm cảm chẳng hạn. Cũng vậy, đang được tiếp cận hướng lên, kể từ những năm 60–70, chúng ta đã cố gắng, lần nữa trong vô vọng ngăn các phân tử hoạt động giữa 2 tế bào thần kinh – serotonin, dopamine – và cố chữa trầm cảm bằng cách đó, nó hiệu quả, nhưng rồi cũng có giới hạn. Rồi bây giờ chúng ta biết việc chúng ta cần phải làm là thay đổi chức năng sinh lý của cơ quan, ở đây là bộ não, kết nối lại nó, chỉnh sửa nó, và, dĩ nhiên, chúng ta biết, các nghiên cứu chỉ ra liệu pháp nói chuyện có thể làm điều đó, và các nghiên cứu còn chỉ ra rằng liệu pháp nói kết hợp với nội khoa, với thuốc sẽ có hiệu quả nhiều hơn chỉ điều trị đơn độc 1 thứ. Liệu chúng ta có thể nghĩ ra 1 môi trường bao quát hơn để chữa trầm cảm không? Liệu ta có thể khóa các tín hiệu khơi gợi trầm cảm hay không? 1 lần nữa, lần lên theo chuỗi mô hình tổ chức này. Điều thật sự đáng nói ở đây có thể không phải về chính y học mà là về 1 phép ẩn dụ. Thay vì tiêu diệt thứ gì đó, trong trường hợp những bệnh thoái hóa mạn tính lớn – suy thận, tiểu đường, cao huyết áp, viêm xương khớp – điều chúng ta cần làm là thay đổi ẩn ý này thành nuôi dưỡng thứ gì đó. Và đó chính là chìa khóa có thể làm thay đổi suy nghĩ của chúng ta về y học.
Now, this idea of changing, of creating a perceptual shift, as it were, came home to me to roost in a very personal manner about 10 years ago. About 10 years ago -- I've been a runner most of my life -- I went for a run, a Saturday morning run, I came back and woke up and I basically couldn't move. My right knee was swollen up, and you could hear that ominous crunch of bone against bone. And one of the perks of being a physician is that you get to order your own MRIs. And I had an MRI the next week, and it looked like that. Essentially, the meniscus of cartilage that is between bone had been completely torn and the bone itself had been shattered.
Giờ thì, ý tưởng về sự thay đổi này, tạo ra 1 sự thay đổi trong tri giác, như nó đã từng, đã xuất hiện trong riêng tâm trí tôi cách nay 10 năm. Khoảng 10 năm trước – tôi chạy bộ gần như cả cuộc đời – Tôi đã chạy bộ, buổi tập chạy sáng thứ 7, tôi trở về và hoạt động, và tôi gần như không đi được. Đầu gối phải của tôi đã bị sưng, và bạn có thể nghe những tiếng rắc rắc đáng ngại giữa xương với xương. Và 1 đặc quyền của việc làm bác sĩ là bạn có thể tự chỉ định MRI cho chính mình. Rồi tôi đi chụp MRI trong tuần kế tiếp, và nó trông như thế này. Về cơ bản, mặt khum của sụn giữa 2 xương bị rách hoàn toàn và xương cũng bị vỡ vụn.
Now, if you're looking at me and feeling sorry, let me tell you a few facts. If I was to take an MRI of every person in this audience, 60 percent of you would show signs of bone degeneration and cartilage degeneration like this. 85 percent of all women by the age of 70 would show moderate to severe cartilage degeneration. 50 to 60 percent of the men in this audience would also have such signs. So this is a very common disease. Well, the second perk of being a physician is that you can get to experiment on your own ailments. So about 10 years ago we began, we brought this process into the laboratory, and we began to do simple experiments, mechanically trying to fix this degeneration. We tried to inject chemicals into the knee spaces of animals to try to reverse cartilage degeneration, and to put a short summary on a very long and painful process, essentially it came to naught. Nothing happened. And then about seven years ago, we had a research student from Australia. The nice thing about Australians is that they're habitually used to looking at the world upside down.
Giờ, nếu các bạn nhìn tôi và cảm thấy tội nghiệp, để tôi nói cho các bạn 1 vài sự thật. Nếu tôi chụp MRI cho mọi người trong khán phòng này, 60% trong số các bạn sẽ có dấu hiệu thoái hóa xương và sụn như thế này. 85% phụ nữ khi đến 70 tuổi sẽ bị thoái hóa sụn ở mức độ từ trung bình đến trầm trọng. 50-60% nam giới trong khán phòng này cũng sẽ có triệu chứng tương tự. Do đó, đây là 1 bệnh rất phổ biến. 1 đặc quyền thứ 2 của việc làm bác sĩ là bạn có thể thử điều trị trên chính các bệnh của riêng bạn. Do vậy, bắt đầu từ khoảng 10 năm trước, chúng tôi đưa quy trình này vào phòng thí nghiệm, bắt đâu thực hiện các thí nghiệm đơn giản, cố gắng sửa chữa sự thoái hóa này 1 cách máy móc. Chúng tôi đã tiêm hóa chất vào khoảng giữa đầu gối của các loài động vật, cố gắng đảo ngược quá trình thoái hóa sụn, và cố đưa ra 1 bản tóm tắt ngắn gọn về 1 quá trình kéo dài và hết sức đau đớn, về căn bản mà nói, nó vô ích. Không có gì xảy ra. Và rồi khoảng 7 năm trước, chúng tôi có 1 nghiên cứu sinh từ Úc. Điều hay ho ở người Úc là họ thường có thói quen nhìn thế giới từ dưới lên.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so Dan suggested to me, "You know, maybe it isn't a mechanical problem. Maybe it isn't a chemical problem. Maybe it's a stem cell problem." In other words, he had two hypotheses. Number one, there is such a thing as a skeletal stem cell -- a skeletal stem cell that builds up the entire vertebrate skeleton, bone, cartilage and the fibrous elements of skeleton, just like there's a stem cell in blood, just like there's a stem cell in the nervous system. And two, that maybe that, the degeneration or dysfunction of this stem cell is what's causing osteochondral arthritis, a very common ailment. So really the question was, were we looking for a pill when we should have really been looking for a cell. So we switched our models, and now we began to look for skeletal stem cells. And to cut again a long story short, about five years ago, we found these cells. They live inside the skeleton. Here's a schematic and then a real photograph of one of them. The white stuff is bone, and these red columns that you see and the yellow cells are cells that have arisen from one single skeletal stem cell -- columns of cartilage, columns of bone coming out of a single cell. These cells are fascinating. They have four properties. Number one is that they live where they're expected to live. They live just underneath the surface of the bone, underneath cartilage. You know, in biology, it's location, location, location. And they move into the appropriate areas and form bone and cartilage. That's one. Here's an interesting property. You can take them out of the vertebrate skeleton, you can culture them in petri dishes in the laboratory, and they are dying to form cartilage. Remember how we couldn't form cartilage for love or money? These cells are dying to form cartilage. They form their own furls of cartilage around themselves. They're also, number three, the most efficient repairers of fractures that we've ever encountered. This is a little bone, a mouse bone that we fractured and then let it heal by itself. These stem cells have come in and repaired, in yellow, the bone, in white, the cartilage, almost completely. So much so that if you label them with a fluorescent dye you can see them like some kind of peculiar cellular glue coming into the area of a fracture, fixing it locally and then stopping their work. Now, the fourth one is the most ominous, and that is that their numbers decline precipitously, precipitously, tenfold, fiftyfold, as you age.
Rồi Dan nói với tôi, “Anh biết không, có thể đây không phải là 1 vấn đề cơ học. Cũng có thể không phải là vấn đề hóa học. Nó có thể là vấn đề của tế bào gốc.” Nói cách khác, cậu ấy có 2 giả thiết. Thứ nhất, có tồn tại 1 loại tế bào gốc của xương – là loại tế bào cấu thành xương sống, toàn bộ các xương, sụn, các thành phần sợi của xương, giống như tế bào gốc trong máu, tế bào gốc trong hệ thần kinh. Và thứ 2, có thể, sự thoái hóa hoặc rối loạn chức năng của các tế bào gốc này là nguyên nhân gây viêm khớp xương sụn, 1 bệnh lý rất phổ biến. Vậy câu hỏi thật sự ở đây là, chúng tôi đã tìm kiếm 1 loại thuốc khi đáng lẽ ra nên tìm kiếm 1 loại tế bào? Vì thế, chúng tôi đã thay đổi mô hình nghiên cứu, và bắt đầu tìm kiếm các tế bào gốc của xương. Và nói ngắn gọn, cách đây khoảng 5 năm, chúng tôi đã tìm thấy chúng. Chúng tồn tại bên trong xương. Trên đây là 1 sơ đồ và 1 bức ảnh thực về những tế bào này. Phần màu trắng là xương, những cột màu đỏ và các tế bào màu vàng mà các bạn thấy là các tế bào phát triển từ chỉ 1 tế bào gốc của xương – các cột sụn và xương phát triển từ 1 tế bào duy nhất. Những tế bào này rất thú vị. Chúng có 4 thuộc tính. Thứ nhất, chúng có ở những vị trí mà ta mong chúng tồn tại. Chúng sống ngay dưới bế mặt xương, ngay dưới sụn. Bạn biết đó, trong sinh học, nó là về vị trí, vị trí, và vị trí. Rồi chúng di chuyển đến vị trí thích hợp và tạo thành xương và sụn. Đó là 1 tính chất. Đây là 1 tính chất thú vị khác. Bạn có thể tách chúng ra khỏi xương sống, nuôi cấy chúng trong các đĩa petri trong phòng lab, và chúng vẫn tạo thành sụn. Có nhớ chúng tôi đã không thể tạo sụn như thế nào không? Các tế bào này lại tạo thành được sụn. Chúng tự tạo thành nhiều lớp sụn xung quanh. Thứ 3, các tế bào này còn là những thợ sửa chữa các vết gãy nứt hiệu quả nhất mà chúng tôi từng biết. Đây là 1 cái xương nhỏ, xương chuột mà chúng tôi đã làm gãy và để cho nó tự lành. Các tế bào gốc này đến và sửa chữa, phần màu vàng, là xương, phần màu trắng, là sụn, gần như hoàn hảo. Chúng nhiều đến mức nếu bạn đánh dấu chúng bằng 1 chất huỳnh quang, bạn có thể thấy chúng như là 1 loại keo tế bào đặc biệt đến vị trí gãy, sửa chữa tại đó và sau đó hoàn thành nhiệm vụ của chúng. Tiếp theo, tính chất thứ 4 là đáng ngại nhất, đó là số lượng của chúng giảm 1 cách chóng mặt, nhanh chóng, 10 lần, 50 lần, khi bạn già đi.
And so what had happened, really, is that we found ourselves in a perceptual shift. We had gone hunting for pills but we ended up finding theories. And in some ways we had hooked ourselves back onto this idea: cells, organisms, environments, because we were now thinking about bone stem cells, we were thinking about arthritis in terms of a cellular disease.
Và điều đã thật sự xảy ra, là, chúng tôi nhận ra rằng mình đã thay đổi cách nhìn. Từ việc săn đuổi 1 loại thuốc, chúng tôi kết thúc bằng việc tìm kiếm các giả thiết. Ở phương diện nào đó, chúng tôi đã kết nối lại với ý tưởng: tế bào, sinh vật, môi trường, bởi vì chúng tôi đang nghĩ về các tế bào gốc của xương, chúng tôi nghĩ về viêm khớp như 1 bệnh lý ở mức độ tế bào.
And then the next question was, are there organs? Can you build this as an organ outside the body? Can you implant cartilage into areas of trauma? And perhaps most interestingly, can you ascend right up and create environments? You know, we know that exercise remodels bone, but come on, none of us is going to exercise. So could you imagine ways of passively loading and unloading bone so that you can recreate or regenerate degenerating cartilage?
Và câu hỏi tiếp theo là, các cơ quan thì sao? Liệu có thể tạo ra 1 cơ quan bên ngoài cơ thể? Liệu ta có thể ghép sụn vào những vị trí chấn thương không? Và thú vị nhất có lẽ là, liệu ta có thể tiến lên và tạo ra các môi trường? Các bạn cũng biết, tập luyện giúp tái tạo xương, nhưng, không ai trong chúng ta sẽ tập luyện như vậy. Vì vậy, liệu ta có thể hình dung rằng có 1 phương pháp tháo, lắp xương thụ động giúp chúng ta tái tạo và sửa chữa sụn bị thoái hóa hay không?
And perhaps more interesting, and more importantly, the question is, can you apply this model more globally outside medicine? What's at stake, as I said before, is not killing something, but growing something. And it raises a series of, I think, some of the most interesting questions about how we think about medicine in the future. Could your medicine be a cell and not a pill? How would we grow these cells? What we would we do to stop the malignant growth of these cells? We heard about the problems of unleashing growth. Could we implant suicide genes into these cells to stop them from growing? Could your medicine be an organ that's created outside the body and then implanted into the body? Could that stop some of the degeneration? What if the organ needed to have memory? In cases of diseases of the nervous system some of those organs had memory. How could we implant those memories back in? Could we store these organs? Would each organ have to be developed for an individual human being and put back? And perhaps most puzzlingly, could your medicine be an environment? Could you patent an environment? You know, in every culture, shamans have been using environments as medicines. Could we imagine that for our future? I've talked a lot about models. I began this talk with models. So let me end with some thoughts about model building. That's what we do as scientists. You know, when an architect builds a model, he or she is trying to show you a world in miniature. But when a scientist is building a model, he or she is trying to show you the world in metaphor. He or she is trying to create a new way of seeing. The former is a scale shift. The latter is a perceptual shift.
Và có thể thú vị hơn, và quan trọng hơn là, liệu ta có thể áp dụng mô hình này rộng hơn bên ngoài lĩnh vực y học? Vấn để chính ở đây, như tôi đã nói, không phải là tiêu diệt, mà là nuôi dưỡng thứ gì đó. Và điều này làm nổi lên vô số câu hỏi, theo tôi nghĩ là thú vị nhất về cách chúng ta nghĩ về y học trong tương lai. Ta có thể điều trị bằng tế bào mà không phải thuốc hay không? Làm sao ta có thể nuôi dưỡng những tế bào này? Ta sẽ phải làm gì để ngăn những tế bào này phát triển ác tính? Chúng ta đã nghe nói về vấn đề tăng trưởng không kiểm soát được. Liệu chúng ta có thể đưa các gene tự hủy vào chúng để ngăn chúng phát triển không? Liệu chúng ta có thể điều trị bằng 1 cơ quan được tạo ra ngoài cơ thể và ghép vào sau đó không? Chúng ta có thể dừng sự thoái hóa hay không? Nếu như 1 cơ quan cần có bộ nhớ thì sao? Trong trường hợp bệnh ở hệ thần kinh của những cơ quan có bộ nhớ chẳng hạn. Làm cách nào ta có thể đưa những trí nhớ đó vào lại? Liệu ta có thể lưu giữ các cơ quan đó? Mỗi cơ quan sẽ phải được phát triển và ghép cho riêng từng người hay không? Và có lẽ vấn đề hóc búa nhất là, liệu y học có thể là 1 môi trường không? Liệu ta có thể tạo ra 1 môi trường? Bạn biết đó, trong mọi nền văn hóa, các pháp sư đã sử dụng môi trường như 1 liệu pháp. Liệu ta có thể làm được điều đó trong tương lai? Tôi đã nói nhiều về các mô hình. Tôi bắt đầu câu chuyện bằng mô hình. Hãy để tôi kết thúc với vài ý tưởng về xây dựng mô hình. Là điều chúng tôi, những nhà khoa học cần làm. Bạn biết đó, khi kiến trúc sư xây dựng hình mẫu, anh ấy hay cô ấy đang cố cho bạn thấy thế giới trong 1 hình ảnh thu nhỏ. Nhưng khi 1 nhà khoa học xây dựng 1 hình mẫu, họ đang cố cho bạn thấy thế giới qua 1 phép ẩn dụ. Người đó đang cố sáng tạo ra 1 cách nhìn mới. Ban đầu là sự thay đổi về quy mô. Sau đó là sự thay đổi trong tri giác.
Now, antibiotics created such a perceptual shift in our way of thinking about medicine that it really colored, distorted, very successfully, the way we've thought about medicine for the last hundred years. But we need new models to think about medicine in the future. That's what's at stake.
Giờ đây, kháng sinh đã thành công thay đổi được nhận thức của chúng ta rằng y học rất màu mè, méo mó, đó là cách mà chúng ta nghĩ về y học một trăm năm trở lại đây. Nhưng chúng ta cần 1 hình mẫu mới cho y học trong tương lai. Đó mới là điều đáng nói.
You know, there's a popular trope out there that the reason we haven't had the transformative impact on the treatment of illness is because we don't have powerful-enough drugs, and that's partly true. But perhaps the real reason is that we don't have powerful-enough ways of thinking about medicines. It's certainly true that it would be lovely to have new medicines. But perhaps what's really at stake are three more intangible M's: mechanisms, models, metaphors.
Bạn biết không, có 1 ý nghĩ biện minh phổ biến rằng lý do chúng ta không có được tác động làm thay đổi cách điều trị bệnh tật là vì chúng ta không có được loại thuốc đủ mạnh, điều này cũng đúng phần nào. Tuy nhiên có lẽ lý do chính là chúng ta không có được hướng suy nghĩ đúng đắn, đủ mạnh về y học. Khá chính xác khi nghĩ rằng sẽ tốt nếu chúng ta có được các loại thuốc mới. Nhưng có lẽ điều thật sự quan trọng là 3 từ bắt đầu bằng M: các cơ chế, mô hình, phép ẩn dụ (mechanisms, models, metaphors).
Thank you.
Cảm ơn các bạn đã lắng nghe.
(Applause)
(Vỗ tay)
Chris Anderson: I really like this metaphor. How does it link in? There's a lot of talk in technologyland about the personalization of medicine, that we have all this data and that medical treatments of the future will be for you specifically, your genome, your current context. Does that apply to this model you've got here?
Chris Anderson: Tôi thật sự thích ẩn ý này. Làm thế nào để kết nối nó lại? Có rất nhiều thảo luận trong giới công nghệ về việc cá thể hóa y khoa, rằng chúng ta có tất cả dữ liệu và các cách điều trị trong tương lai cho chính mình, cho bộ gen của mình, cho hoàn cảnh hiện tại của mình. Liệu nó có áp dụng vào mô hình của anh ở đây không?
Siddhartha Mukherjee: It's a very interesting question. We've thought about personalization of medicine very much in terms of genomics. That's because the gene is such a dominant metaphor, again, to use that same word, in medicine today, that we think the genome will drive the personalization of medicine. But of course the genome is just the bottom of a long chain of being, as it were. That chain of being, really the first organized unit of that, is the cell. So, if we are really going to deliver in medicine in this way, we have to think of personalizing cellular therapies, and then personalizing organ or organismal therapies, and ultimately personalizing immersion therapies for the environment. So I think at every stage, you know -- there's that metaphor, there's turtles all the way. Well, in this, there's personalization all the way.
Siddhartha Mukerjee: Đây là 1 câu hỏi rất thú vị. Chúng ta đã nghĩ về việc cá thể hóa y học chủ yếu ở phương diện di truyền. Đó là bởi vì các gen mang ý nghĩa rất quan trọng, 1 lần nữa, xin nhắc lại rằng, trong y học ngày nay, chúng ta nghĩ rằng bộ gen sẽ là phương tiện để cá thể hóa y học. Nhưng dĩ nhiên, gen chỉ là điểm tận cùng của 1 chuỗi tồn tại, như nó đã từng. Chuỗi sự sống đó, với đơn vị tổ chức thật sự của nó, là tế bào. Do đó, nếu chúng ta thật sự muốn đưa nó vào y học theo cách này, chúng ta phải nghĩ đến cá thể hóa liệu pháp ở mức độ tế bào, rồi đến cá thể hóa ở mức độ cơ quan hoặc một cơ thể sống, và cuối cùng cá thể hóa các liệu pháp toàn bộ môi trường bao quát xung quanh. Vì vậy tôi nghĩ ở mọi khía cạnh, anh biết đó – đều có ẩn ý, đều có rùa khắp mọi nơi. Ở đây, là cá thể hóa mọi thứ.
CA: So when you say medicine could be a cell and not a pill, you're talking about potentially your own cells.
CA: Vậy thì khi anh nói liệu pháp có thể là tế bào, không phải là thuốc, anh đang nói về tiềm năng của các tế bào của chính chúng ta.
SM: Absolutely. CA: So converted to stem cells, perhaps tested against all kinds of drugs or something, and prepared.
SM: Chính xác. CA: Vậy chuyển hướng qua các tế bào gốc, chúng có lẽ đã được thử qua mọi loại thuốc hay thứ gì đó, và được chuẩn bị.
SM: And there's no perhaps. This is what we're doing. This is what's happening, and in fact, we're slowly moving, not away from genomics, but incorporating genomics into what we call multi-order, semi-autonomous, self-regulating systems, like cells, like organs, like environments.
SM: Ở đây không phải có lẽ. Đây chính là việc chúng tôi đang làm. Nó đang xảy ra, và thực tế thì, chúng tôi đang tách rời từ từ, không phải hoàn toàn khỏi bộ gen, mà là phối hợp nó vào các hệ thống đa trật tự, tự động, tự điều tiết như là các tế bào, cơ quan, môi trường.
CA: Thank you so much.
CA: Cảm ơn anh rất nhiều.
SM: Pleasure. Thanks.
SM: Hân hạnh. Cảm ơn.