I was a new mother and a young rabbi in the spring of 2004 and the world was in shambles. Maybe you remember. Every day, we heard devastating reports from the war in Iraq. There were waves of terror rolling across the globe. It seemed like humanity was spinning out of control. I remember the night that I read about the series of coordinated bombings in the subway system in Madrid, and I got up and I walked over to the crib where my six-month-old baby girl lay sleeping sweetly, and I heard the rhythm of her breath, and I felt this sense of urgency coursing through my body. We were living through a time of tectonic shifts in ideologies, in politics, in religion, in populations. Everything felt so precarious. And I remember thinking, "My God, what kind of world did we bring this child into? And what was I as a mother and a religious leader willing to do about it?
Tôi từng là một người mới làm mẹ và là một giáo sĩ non trẻ vào mùa xuân năm 2004 và thế giới lúc đó thật hỗn loạn. Có lẽ bạn sẽ nhớ. Mỗi ngày, ta đều nghe những báo cáo về tàn phá từ chiến tranh Iraq. Có những làn sóng khủng bố len lỏi khắp hành tinh. Như thể nhân tính đã vượt khỏi tầm kiểm soát. Tôi còn nhớ cái đêm mà tôi đọc về hàng loạt chuỗi đánh bom trong hệ thống tàu điện ngầm ở Madrid, và tôi bật dậy rồi chạy qua cái nôi nơi mà cô con gái sáu tháng của tôi đang ngủ ngon giấc, và tôi nghe thấy nhịp thở của con bé, tôi nhận thấy cảm giác bồn chồn chảy trong cơ thể mình. Chúng ta đang sống ở thời đại của những thay đổi kiến tạo trong hệ tư tưởng, trong chính trị, tôn giáo, dân sinh. Mọi thứ tưởng như thật bấp bênh. Tôi nhớ mình đã nghĩ rằng, "Chúa ơi, chúng ta sẽ dẫn dắt con cháu của mình vào một thế giới ra sao?" Và như tôi, một người mẹ và một nhà lãnh đạo tôn giáo sẽ làm gì với thế giới đó?
Of course, I knew it was clear that religion would be a principle battlefield in this rapidly changing landscape, and it was already clear that religion was a significant part of the problem. The question for me was, could religion also be part of the solution? Now, throughout history, people have committed horrible crimes and atrocities in the name of religion. And as we entered the 21st century, it was very clear that religious extremism was once again on the rise. Our studies now show that over the course of the past 15, 20 years, hostilities and religion-related violence have been on the increase all over the world. But we don't even need the studies to prove it, because I ask you, how many of us are surprised today when we hear the stories of a bombing or a shooting, when we later find out that the last word that was uttered before the trigger is pulled or the bomb is detonated is the name of God? It barely raises an eyebrow today when we learn that yet another person has decided to show his love of God by taking the lives of God's children. In America, religious extremism looks like a white, antiabortion Christian extremist walking into Planned Parenthood in Colorado Springs and murdering three people. It also looks like a couple inspired by the Islamic State walking into an office party in San Bernardino and killing 14. And even when religion-related extremism does not lead to violence, it is still used as a political wedge issue, cynically leading people to justify the subordination of women, the stigmatization of LGBT people, racism, Islamophobia and anti-Semitism. This ought to concern deeply those of us who care about the future of religion and the future of faith. We need to call this what it is: a great failure of religion.
Dĩ nhiên, tôi biết rõ rằng tôn giáo là một chiến trường đầy rẫy những nguyên tắc trong bối cảnh thay đổi vùn vụt này, và cũng thật rõ ràng rằng tôn giáo là một phần quan trọng của vấn đề. Câu hỏi dành cho tôi là, liệu tôn giáo có thể là một phần của giải pháp? Bây giờ, trong suốt lịch sử, con người đã từng phạm phải những tội ác khủng khiếp và tàn bạo dưới danh nghĩa tôn giáo. Và khi chúng ta bước vào thế kỉ 21, ta rất dễ nhận ra rằng chủ nghĩa tôn giáo cực đoan lại một lần nữa trỗi dậy. Các nghiên cứu chỉ ra rằng qua quá trình của 15, 20 năm về trước, sự thù địch và bạo lực liên quan đến tôn giáo đã và đang tăng lên khắp thế giới. Nhưng ta thậm chí không cần những nghiên cứu để chứng minh nữa, bởi vì hãy cho tôi biết, bao nhiêu người trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe về những câu chuyện của một vụ đánh bom hay một vụ nổ súng, khi sau cùng ta biết được rằng lời cuối cùng được thốt ra trước khi cò súng vang lên hay quả bom kích nổ chính là tên của Chúa? Ngày nay hầu như không có gì đáng ngạc nhiên khi ta học được rằng một người nào đó đã quyết định thể hiện tình yêu của mình với Chúa bằng cách lấy đi mạng sống những người con của Chúa. Tại Mỹ, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan trông như những người da trắng phe Kitô giáo cực đoan phản đối nạn nạo phá thai đi vào khu vực Kiểm soát Sinh sản (PPFA) tại Colorado Springs và giết chết ba người. Nó cũng có thể là một cặp đôi được truyền đức tin từ nhà nước Hồi giáo bước vào một bữa tiệc văn phòng ở San Bernardino và giết chết 14 người. Và ngay cả khi chủ nghĩa tôn giáo cực đoan không dẫn đến bạo lực, nó vẫn được nhắc đến như một vấn nạn về chính trị xã hội, kẻ chủ mưu hiểm độc đang biện minh cho vấn đề lệ thuộc của phụ nữ, sự kì thị những người LGBT, phân biệt chủng tộc, bài trừ Hồi giáo và chống Do Thái. Điều này cần được quan tâm sâu sắc đối với những ai quan tâm đến tương lai của tôn giáo và tương lai của đức tin. Chúng ta cần phải gọi nó bằng đúng tên của nó: một thất bại to lớn của tôn giáo.
But the thing is, this isn't even the only challenge that religion faces today. At the very same time that we need religion to be a strong force against extremism, it is suffering from a second pernicious trend, what I call religious routine-ism. This is when our institutions and our leaders are stuck in a paradigm that is rote and perfunctory, devoid of life, devoid of vision and devoid of soul.
Nhưng đây không chỉ là thử thách duy nhất mà các tôn giáo phải đối mặt ngày nay. Chính trong cùng một lúc chúng ta lại cần tôn giáo làm một lực lượng mạnh mẽ chống chủ nghĩa cực đoan, và nó đang phải gánh chịu một xu hướng nguy hiểm thứ hai, thứ mà tôi gọi là chủ nghĩa thông lệ. Đó là khi thể chế và lãnh đạo của chúng ta bị mắc kẹt trong một mô hình lặp đi lặp lại như vẹt và làm cho có lệ, không có sự sống, không có tầm nhìn và không có tâm hồn.
Let me explain what I mean like this. One of the great blessings of being a rabbi is standing under the chuppah, under the wedding canopy, with a couple, and helping them proclaim publicly and make holy the love that they found for one another. I want to ask you now, though, to think maybe from your own experience or maybe just imagine it about the difference between the intensity of the experience under the wedding canopy, and maybe the experience of the sixth or seventh anniversary.
Tôi sẽ giải thích vì sao tôi có ý như vậy. Một trong những phước lành tốt đẹp của một giáo sĩ Do Thái là được đứng dưới thềm đính hôn, dưới mái vòm hôn lễ, cùng đôi uyên ương, và giúp họ công bố công khai và tuyên thệ với thánh thần tình yêu mà họ dành cho người còn lại. Giờ tôi muốn hỏi các bạn, mặc dù chỉ là suy nghĩ rút ra từ kinh nghiệm hay có thể chỉ là tưởng tượng về sự khác biệt giữa cường độ của trải nghiệm dưới mái vòm hôn lễ với trải nghiệm với lễ kỉ niệm ngày cưới thứ 6 hoặc thứ 7.
(Laughter)
(Cười)
And if you're lucky enough to make it 16 or 17 years, if you're like most people, you probably wake up in the morning realizing that you forgot to make a reservation at your favorite restaurant and you forgot so much as a card, and then you just hope and pray that your partner also forgot.
Và nếu như bạn đủ may mắn để có lần kỉ niệm thứ 16 hay 17, cũng như hầu hết mọi người, có lẽ bạn sẽ thức dậy vào buổi sáng nhận ra rằng mình đã quên đặt phòng tại nhà hàng yêu thích của mình và thậm chí quên cả thẻ tín dụng, và sau đó bạn chỉ mong và cầu cho đối phương cũng quên luôn
Well, religious ritual and rites were essentially designed to serve the function of the anniversary, to be a container in which we would hold on to the remnants of that sacred, revelatory encounter that birthed the religion in the first place. The problem is that after a few centuries, the date remains on the calendar, but the love affair is long dead. That's when we find ourselves in endless, mindless repetitions of words that don't mean anything to us, rising and being seated because someone has asked us to, holding onto jealously guarded doctrine that's completely and wildly out of step with our contemporary reality, engaging in perfunctory practice simply because that's the way things have always been done.
Vâng, tín ngưỡng và nghi lễ cơ bản được thiết kế để thực hiện chức năng của kỉ niệm, nó là một nơi chứa đựng, nơi chúng ta sẽ lưu giữ lại những dấu vết sót lại của cuộc gặp mặt đầy thiêng liêng và hé mở đã sinh ra tôn giáo tại nơi chốn ban đầu. Vấn đề ở chỗ sau vài thế kỉ, ngày tháng vẫn còn trên lịch, nhưng tình yêu thì đã chết từ lâu. Đó là khi ta thấy mình cứ lặp đi lặp lại trong vô tận và vô thức những từ ngữ chẳng có nghĩa lý gì với ta, đứng dậy và ngồi xuống bởi vì có người bảo ta làm vậy, khư khư đố kị che chở cho thứ giáo điều đã hoàn toàn lệch bước ra khỏi thực tại đương thời của chúng ta, cùng việc làm chiếu lệ qua loa đơn giản vì đó là cách mọi thứ luôn luôn được thực hiện.
Religion is waning in the United States. Across the board, churches and synagogues and mosques are all complaining about how hard it is to maintain relevance for a generation of young people who seem completely uninterested, not only in the institutions that stand at the heart of our traditions but even in religion itself. And what they need to understand is that there is today a generation of people who are as disgusted by the violence of religious extremism as they are turned off by the lifelessness of religious routine-ism.
Tôn giáo đang suy yếu tại Mỹ. Trên diện rộng, những nhà thờ Kitô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo đều than thở về sự khó khăn trong việc duy trì mối tương quan cho thế hệ trẻ dường như hoàn toàn không có hứng thú, không chỉ với những thể chế đặt tại linh hồn của truyền thống của chúng ta mà còn với tôn giáo. Và điều mà họ cần phải hiểu là có một thế hệ mà ngày nay ghê tởm sự bạo lực từ chủ nghĩa tôn giáo cực đoan hệt như khi họ bị dập tắt bởi những vòng xoáy tín ngưỡng đã héo mòn.
Of course there is a bright spot to this story. Given the crisis of these two concurrent trends in religious life, about 12 or 13 years ago, I set out to try to determine if there was any way that I could reclaim the heart of my own Jewish tradition, to help make it meaningful and purposeful again in a world on fire. I started to wonder, what if we could harness some of the great minds of our generation and think in a bold and robust and imaginative way again about what the next iteration of religious life would look like? Now, we had no money, no space, no game plan, but we did have email. So my friend Melissa and I sat down and we wrote an email which we sent out to a few friends and colleagues. It basically said this: "Before you bail on religion, why don't we come together this Friday night and see what we might make of our own Jewish inheritance?"
Tất nhiên vẫn còn một điểm sáng trong câu chuyện này. Với cuộc khủng hoảng của hai xu hướng đồng thời trong đời sống tôn giáo, vào khoảng 12 hay 13 năm trước, tôi đặt mục tiêu cố gắng xác định liệu có bất kì cách nào để tôi tìm lại được tình yêu với truyền thống Do Thái giáo trong tôi để làm cho nó thêm ý nghĩa và có mục đích lại lần nữa trong một thế giới đang cháy. Tôi bắt đầu băn khoăn liệu chúng ta có thể khai thác những bộ óc vĩ đại của thế hệ chúng ta và suy nghĩ trong một tâm thế táo bạo, mạnh mẽ và giàu tưởng tượng một lần nữa về việc những vòng lặp tín ngưỡng sắp tới trông sẽ như thế nào. Lúc này chúng tôi không tiền, không có không gian, không kế hoạch nhưng chúng tôi có thư điện tử. Vậy nên Melissa bạn tôi và tôi ngồi xuống và chúng tôi viết một email để gửi cho một vài người bạn và đồng nghiệp Nó có nội dung đại khái là: "Trước khi bạn đợi đến những nghi lễ, tại sao ta không cùng đến vào tối thứ Sáu này và cùng xem ta có thể làm gì để chọn ra cho mình một người kế nhiệm Do Thái giáo?"
We hoped maybe 20 people would show up. It turned out 135 people came. They were cynics and seekers, atheists and rabbis. Many people said that night that it was the first time that they had a meaningful religious experience in their entire lives. And so I set out to do the only rational thing that someone would do in such a circumstance: I quit my job and tried to build this audacious dream, a reinvented, rethought religious life which we called "IKAR," which means "the essence" or "the heart of the matter."
Chúng tôi hy vọng sẽ có chừng 20 người có mặt. Hóa ra có đến hơn 135 người đến. Họ là những người hoài nghi, những người trông đợi, người vô thần và giáo sĩ Do Thái. Đêm đó, nhiều người đã nói rằng đó là lần đầu tiên họ có được một trải nghiệm thú vị về tôn giáo trong suốt cuộc đời mình. Vậy nên tôi bắt đầu thực hiện điều hợp lý duy nhất mà một người sẽ làm trong tình huống như vậy: Tôi nghỉ việc và cố gắng xây dựng ước vọng táo bạo này, một đời sống tôn giáo được sáng tạo và cách tân mà chúng tôi gọi là "IKAR," có nghĩa là "bản chất" hay "trung tâm của vấn đề."
Now, IKAR is not alone out there in the religious landscape today. There are Jewish and Christian and Muslim and Catholic religious leaders, many of them women, by the way, who have set out to reclaim the heart of our traditions, who firmly believe that now is the time for religion to be part of the solution. We are going back into our sacred traditions and recognizing that all of our traditions contain the raw material to justify violence and extremism, and also contain the raw material to justify compassion, coexistence and kindness -- that when others choose to read our texts as directives for hate and vengeance, we can choose to read those same texts as directives for love and for forgiveness.
Giờ đây, IKAR không còn đơn độc ngoài kia, trong bối cảnh tôn giáo ngày nay. Có nhiều nhà lãnh đạo Do Thái, đạo Cơ Đốc, đạo Hồi và đạo Thiên Chúa, nhiều người trong số họ là nữ, đã tiên phong trong việc giác ngộ linh hồn của các giá trị truyền thống. Đó là những người tin chắc rằng đã đến lúc tôn giáo trở thành một phần của giải pháp. Chúng ta đang nhìn lại những giá trị truyền thống thiêng liêng và nhận ra rằng tất cả những giá trị này bao hàm cơ sở để biện minh cho bạo lực và cực đoan, và cũng bao hàm cả cơ sở để chứng minh cho lòng trắc ẩn, sự chung sống và lòng hảo tâm -- đó là khi những người khác đọc một vài đoạn trích và xem đó là lời chỉ dẫn cho lòng căm ghét và báo thù, thì chúng ta có thể xem những đoạn trích đó như chỉ dẫn cho tình yêu và lòng vị tha.
I have found now in communities as varied as Jewish indie start-ups on the coasts to a woman's mosque, to black churches in New York and in North Carolina, to a holy bus loaded with nuns that traverses this country with a message of justice and peace, that there is a shared religious ethos that is now emerging in the form of revitalized religion in this country. And while the theologies and the practices vary very much between these independent communities, what we can see are some common, consistent threads between them.
Giờ đây, tôi nhận thấy từ nhiều cộng đồng khác nhau như những công ty khởi nghiệp của người Do Thái trên các bờ biển, hay nhà thờ Hồi giáo của một phụ nữ, những nhà thờ đen tại New York và North Carolina, hay chuyến xe buýt thiêng liêng chở các nữ tu đi khắp đất nước mang theo thông điệp của công lý và hòa bình, rằng có một đặc tính chung nổi bật trong các hình thức của tôn giáo được tái sinh trên đất nước này. Và trong khi các thuyết thần học và các tập tục rất khác nhau giữa các cộng đồng riêng lẻ này, điều chúng ta có thể thấy được là sợi dây liên kết chắc chắn giữa họ.
I'm going to share with you four of those commitments now.
Tôi sẽ chia sẻ với các bạn bốn điều trong số đó ngay bây giờ.
The first is wakefulness. We live in a time today in which we have unprecedented access to information about every global tragedy that happens on every corner of this Earth. Within 12 hours, 20 million people saw that image of Aylan Kurdi's little body washed up on the Turkish shore. We all saw this picture. We saw this picture of a five-year-old child pulled out of the rubble of his building in Aleppo. And once we see these images, we are called to a certain kind of action.
Đầu tiên là sự thức tỉnh. Chúng ta đang sống trong thời đại có những cách tiếp cận thông tin chưa từng có trước đây về mọi thảm kịch toàn cầu đang xảy ra khắp nơi trên Trái Đất. Trong vòng 12 tiếng, 20 triệu người đã nhìn thấy hình ảnh hình hài nhỏ bé của Aylan Kurdi bị cuốn trôi tại bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ. Tất cả chúng ta đều đã thấy bức ảnh này. Chúng ta đã nhìn thấy bức ảnh về một đứa trẻ năm tuổi được kéo ra khỏi đống gạch vụn của tòa nhà bé đang ở tại Aleppo. Và một khi chúng ta nhìn thấy những hình ảnh này, chúng ta nhận được lời kêu gọi hãy hành động.
My tradition tells a story of a traveler who is walking down a road when he sees a beautiful house on fire, and he says, "How can it be that something so beautiful would burn, and nobody seems to even care?" So too we learn that our world is on fire, and it is our job to keep our hearts and our eyes open, and to recognize that it's our responsibility to help put out the flames.
Truyền thống của tôi có một câu chuyện về một người du khách đang đi trên đường thì nhìn thấy một ngôi nhà xinh đẹp đang bốc cháy và anh ta nói, “Làm sao mà một thứ xinh đẹp như vậy có thể bị đốt cháy, và thậm chí là không ai thèm quan tâm?” Tương tự, chúng ta biết rằng thế giới của chúng ta đang bốc cháy, và việc chúng ta cần làm là mở rộng trái tim và đôi mắt của mình, và nhận ra rằng trách nhiệm của mình là giúp dập tắt các đám cháy.
This is extremely difficult to do. Psychologists tell us that the more we learn about what's broken in our world, the less likely we are to do anything. It's called psychic numbing. We just shut down at a certain point. Well, somewhere along the way, our religious leaders forgot that it's our job to make people uncomfortable. It's our job to wake people up, to pull them out of their apathy and into the anguish, and to insist that we do what we don't want to do and see what we do not want to see. Because we know that social change only happens --
Đây là một việc cực kỳ khó thực hiện. Các nhà tâm lý học cho biết rằng khi chúng ta biết càng nhiều về những gì đang phá hủy thế giới, thì chúng ta càng không muốn có bất kỳ hành động nào. Đó gọi là sự tê liệt tinh thần. Chúng ta dừng lại ngay tại một điểm nhất định. Vâng, ở một vài nơi, những nhà lãnh đạo tôn giáo của chúng ta quên mất rằng chúng ta phải làm mọi người không còn cảm thấy thoải mái. Chúng ta phải thức tỉnh mọi người, kéo họ ra khỏi sự hờ hững và đưa họ vào trong đau khổ, và để khẳng định rằng chúng ta làm những gì chúng ta không muốn làm và nhìn thấy những gì chúng ta không muốn thấy. Bởi vì chúng ta biết rằng xã hội chỉ thay đổi --
(Applause)
(vỗ tay)
when we are awake enough to see that the house is on fire.
khi chúng ta kịp thức tỉnh để nhận ra rằng nhà mình đang cháy.
The second principle is hope, and I want to say this about hope. Hope is not naive, and hope is not an opiate. Hope may be the single greatest act of defiance against a politics of pessimism and against a culture of despair. Because what hope does for us is it lifts us out of the container that holds us and constrains us from the outside, and says, "You can dream and think expansively again. That they cannot control in you."
Điều thứ hai chính là hy vọng, và tôi muốn nói về hy vọng. Hy vọng không phải là khờ dại, và hy vọng cũng không phải là một thứ thuốc phiện. Hy vọng có thể là một hành động tốt nhất thách thức chính sách chủ nghĩa bi quan và nền văn hóa tuyệt vọng. Bởi vì điều hy vọng có thể làm là đưa chúng ta ra khỏi cái hộp bao bọc chúng ta và ngăn cách chúng ta với thế giới bên ngoài, và nói với chúng ta rằng, “Bạn có thể lại mơ mộng và suy nghĩ cởi mở hơn. Rằng chúng không thể kiểm soát bạn.”
I saw hope made manifest in an African-American church in the South Side of Chicago this summer, where I brought my little girl, who is now 13 and a few inches taller than me, to hear my friend Rev. Otis Moss preach. That summer, there had already been 3,000 people shot between January and July in Chicago. We went into that church and heard Rev. Moss preach, and after he did, this choir of gorgeous women, 100 women strong, stood up and began to sing. "I need you. You need me. I love you. I need you to survive." And I realized in that moment that this is what religion is supposed to be about. It's supposed to be about giving people back a sense of purpose, a sense of hope, a sense that they and their dreams fundamentally matter in this world that tells them that they don't matter at all.
Tôi đã nhìn thấy hy vọng đã trở nên hiển nhiên tại một nhà thờ Phi-Mỹ ở phía Nam Chicago vào mùa hè này. Tôi đã đưa con gái bé nhỏ của tôi, nay đã 13 tuổi và cao hơn tôi vài centimet, đến nghe bài thuyết giáo của bạn tôi Rev. Mùa hè năm đó, có hơn 3000 người bị bắn từ tháng Giêng đến tháng Bảy ở Chicago. Chúng tôi bước vào nhà thờ và nghe bài thuyết giáo của Rev. Moss, và sau khi ông dứt lời, một đội hợp ca gồm những người phụ nữ tuyệt vời, 100 người chẵn, đứng dậy và cất tiếng hát. "Tôi cần bạn. Bạn cần tôi. Tôi yêu bạn. Tôi cần bạn để sinh tồn.” Và tôi nhận ra, ngay khoảnh khắc ấy, đây chính là những gì tôn giáo muốn đề cập đến. Đó là việc mang lại cho mọi người nhận thức về mục tiêu, nhận thức về hy vọng, nhận thức về việc họ và những giấc mơ của họ đóng vai trò quan trọng trong cái thế giới mà nói với họ rằng họ chẳng là gì cả.
The third principle is the principle of mightiness. There's a rabbinic tradition that we are to walk around with two slips of paper in our pockets. One says, "I am but dust and ashes." It's not all about me. I can't control everything, and I cannot do this on my own. The other slip of paper says, "For my sake the world was created." Which is to say it's true that I can't do everything, but I can surely do something. I can forgive. I can love. I can show up. I can protest. I can be a part of this conversation. We even now have a religious ritual, a posture, that holds the paradox between powerlessness and power. In the Jewish community, the only time of year that we prostrate fully to the ground is during the high holy days. It's a sign of total submission. Now in our community, when we get up off the ground, we stand with our hands raised to the heavens, and we say, "I am strong, I am mighty, and I am worthy. I can't do everything, but I can do something."
Đặc tính thứ ba là về tầm quan trọng. Truyền thống của những giáo sĩ Do Thái là đi dạo xung quanh với hai mảnh giấy trong túi. Một mảnh giấy viết, “Tôi chẳng là gì ngoài tro bụi.” Điều đó không đúng lắm với tôi. Tôi không thể kiểm soát mọi thứ, và tôi không thể tự làm điều này. Mảnh giấy khác viết, “Cả thế giới được hình thành vì tôi.” Điều đó có nghĩa là tôi không thể làm mọi thứ, nhưng chắc chắn tôi có thể làm được điều gì đó. Tôi có thể tha thứ. Tôi có thể yêu thương. Tôi có thể đứng lên. Tôi có thể biểu tình. Tôi có thể tham gia vào cuộc đối thoại này. Thậm chí bây giờ chúng ta có một nghi thức tôn giáo, một tư thế nghịch lý giữa quyền lực và không có quyền lực Trong cộng đồng của người Do Thái, có một thời điểm thiêng liêng trong năm chúng tôi nằm úp mặt xuống đất nhiều ngày liền. Đó là dấu hiệu của sự phục tùng. Ngày nay, trong cộng đồng của chúng ta, khi chúng ta đứng trên mặt đất, chúng ta đứng thẳng, đưa tay lên trời, và nói rằng, “Tôi mạnh mẽ, tôi có quyền lực, và tôi có giá trị. Tôi không thể làm mọi thứ, nhưng tôi có thể làm được điều gì đó.”
In a world that conspires to make us believe that we are invisible and that we are impotent, religious communities and religious ritual can remind us that for whatever amount of time we have here on this Earth, whatever gifts and blessings we were given, whatever resources we have, we can and we must use them to try to make the world a little bit more just and a little bit more loving.
Trong một thế giới luôn âm mưu khiến chúng ta phải tin rằng chúng ta vô hình, và bất lực, những cộng đồng và nghi thức tôn giáo có thể nhắc chúng ta rằng bất kể chúng ta tồn tại trên Trái Đất này bao lâu, bất kể những món quà và phúc lành chúng ta nhận được, bất kể các nguồn tài nguyên mà chúng ta có, chúng ta có thể và chúng ta phải tận dụng chúng để cố gắng làm cho thế giới trở nên công bằng hơn một chút và có tình người hơn một chút.
The fourth and final is interconnectedness. A few years ago, there was a man walking on the beach in Alaska, when he came across a soccer ball that had some Japanese letters written on it. He took a picture of it and posted it up on social media, and a Japanese teenager contacted him. He had lost everything in the tsunami that devastated his country, but he was able to retrieve that soccer ball after it had floated all the way across the Pacific. How small our world has become. It's so hard for us to remember how interconnected we all are as human beings. And yet, we know that it is systems of oppression that benefit the most from the lie of radical individualism.
Điều thứ tư cũng là điều cuối cùng là tính liên kết. Vài năm trước, một người đàn ông đi dạo trên bãi biển ở Alaska, ông tình cờ bắt gặp một quả bóng đá được viết vài từ tiếng Nhật. Ông ta đã chụp hình quả bóng và đăng lên các trang mạng xã hội, và một cậu bé tuổi vị thành niên đã liên hệ với ông. Cậu bé này đã bị mất mọi thứ trong một trận sóng thần tàn phá đất nước cậu ấy, nhưng cậu bé này lại có thể tìm lại được quả bóng sau khi nó trôi dạt xuyên Thái Bình Dương. Thế giới này thật nhỏ bé. Thật khó để nhớ loài người chúng ta liên kết với nhau như thế nào. Và, chúng ta biết rằng đó là hệ thống đàn áp lợi dụng hầu hết từ những điều sai lầm trong chủ nghĩa cá nhân cơ bản.
Let me tell you how this works. I'm not supposed to care when black youth are harassed by police, because my white-looking Jewish kids probably won't ever get pulled over for the crime of driving while black. Well, not so, because this is also my problem. And guess what? Transphobia and Islamophobia and racism of all forms, those are also all of our problems. And so too is anti-Semitism all of our problems. Because Emma Lazarus was right.
Tôi sẽ nói cho các bạn biết cách hệ thống này vận hành. Lẽ ra tôi không nên quan tâm đến việc những thanh niên da đen bị cảnh sát quấy rối, bởi vì nhưng đứa con Do Thái da trắng của tôi có lẽ sẽ không bao giờ bị chặn xe vì vi phạm luật giao thông nhưng người da đen thì có. Tuy nhiên, vì đây cũng là vấn đề của tôi. Và đoán xem? Kỳ thị những người đồng tính, những người Hồi giáo và mọi dạng kỳ thị đều là vấn đề của tất cả chúng ta. Và tương tự chủ nghĩa bài Do Thái cũng là vấn đề của chúng ta. Bời vì Emma Lazarus rất đúng đắn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Emma Lazarus was right when she said until all of us are free, we are none of us free. We are all in this together. And now somewhere at the intersection of these four trends, of wakefulness and hope and mightiness and interconnectedness, there is a burgeoning, multifaith justice movement in this country that is staking a claim on a countertrend, saying that religion can and must be a force for good in the world.
Emma Lazarus rất đúng đắn khi nói rằng trước khi tất cả mọi người đều được tự do, thì không ai tự do cả. Chúng ta ở trong cùng một hoàn cảnh. Và bây giờ, ở một nơi nào đó giao thoa giữa bốn khuynh hướng, sự thức tỉnh, niềm hy vọng, tầm quan trọng và tính liên kết, có một phong trào công lý giữa nhiều tôn giáo đang nảy mầm tại đất nước này tuyên bố sự phản đối, tuyên bố rằng tôn giáo có thể và chắc chắn là một sức mạnh đạo lý trên thế giới.
Our hearts hurt from the failed religion of extremism, and we deserve more than the failed religion of routine-ism. It is time for religious leaders and religious communities to take the lead in the spiritual and cultural shift that this country and the world so desperately needs -- a shift toward love, toward justice, toward equality and toward dignity for all. I believe that our children deserve no less than that.
Chúng ta đau lòng vì chủ nghĩa cực đoan sai lệch về tôn giáo, và chúng ta xứng đáng hơn là chủ nghĩa thông lệ của tôn giáo thất bại. Đã đến lúc các nhà lãnh đạo và cộng đồng tôn giáo phải dẫn đầu trong cải cách văn hóa và tinh thần mà đất nước này và cả thế giới đang rất cần -- một sự thay đổi hướng về tình yêu, về công lý, về công bằng và về lòng tự trọng cho tất cả mọi người. Tôi tin rằng con của chúng ta đáng nhận được những điều đó.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)