I want to speak about a forgotten conflict. It's a conflict that rarely hits the headlines. It happens right here, in the Democratic Republic of Congo.
Tôi muốn kể về một cuộc chiến đã rơi vào quên lãng Đó là một sự kiện hiếm khi được các tờ báo đưa lên trang nhất. Nó xảy ra ngay tại đây, ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô.
Now, most people outside of Africa don't know much about the war in Congo, so let me give you a couple of key facts. The Congolese conflict is the deadliest conflict since World War II. It has caused almost four million deaths. It has destabilized most of Central Africa for the past 18 years. It is the largest ongoing humanitarian crisis in the world.
Hiện giờ, đa số những ai không ở Châu Phi đều không biết tới chiến tranh Công-gô. Vậy hãy để tôi kể bạn nghe đôi điều về nó. Xung đột ở Công-gô là sự kiện đẫm máu nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ 2. Nó gây ra gần 4 triệu cái chết, và dẫn tới tình trạng mất ổn định ở phần lớn vùng Trung Phi trong 18 năm qua. Nó là cuộc khủng hoảng về vấn đề nhân đạo lớn nhất đang xảy ra trên thế giới.
That's why I first went to Congo in 2001. I was a young humanitarian aid worker, and I met this woman who was my age. She was called Isabelle. Local militias had attacked Isabelle's village. They had killed many men, raped many women. They had looted everything. And then they wanted to take Isabelle, but her husband stepped in, and he said, "No, please don't take Isabelle. Take me instead." So he had gone to the forest with the militias, and Isabelle had never seen him again.
Đó là lý do tôi đến Công-gô lần đầu tiên vào năm 2001 như một nhân viên cứu trợ nhân đạo trẻ. Và ở đó tôi đã gặp một cô gái cùng tuổi. Cô ấy là Isabelle. Dân quân địa phương đã tấn công làng của Isabelle. Họ giết rất nhiều đàn ông, hãm hiếp nhiều phụ nữ. Họ cướp đi tất cả mọi thứ. Và sau đó, họ muốn bắt Isabelle, nhưng chồng cô ấy đã ngăn họ và anh ta nói, "Không, đừng bắt Isabelle. Thay vào đó hãy bắt tôi này." Vậy là anh ta biến mất vào rừng sâu với dân quân, và Isabelle chẳng bao giờ gặp lại anh ấy lần nữa .
Well, it's because of people like Isabelle and her husband that I have devoted my career to studying this war that we know so little about.
Bởi vì những người như Isabelle và chồng của cô ấy nên tôi đã dành hết sự nghiệp để nghiên cứu cuộc chiến tranh này - một cuộc chiến tranh mà chúng ta còn biết quá ít.
Although there is one story about Congo that you may have heard. It's a story about minerals and rape. Policy statements and media reports both usually focus on a primary cause of violence in Congo -- the illegal exploitation and trafficking of natural resources -- and on a main consequence -- sexual abuse of women and girls as a weapon of war.
Mặc dù có đôi điều về Công-gô mà có thể bạn đã nghe qua, như là những câu chuyên về khoáng sản và hiếp dâm. Những tuyên bố chính trị và các báo cáo truyền thông đều thường tập trung vào nguyên nhân cơ bản gây ra bạo lực ở Công-gô, đó là khai thác và buôn bán bất hợp pháp tài nguyên thiên nhiên - - những thứ đã dẫn tới hậu quả là lạm dụng tình dục phụ nữ và thiếu nữ như một vũ khí chiến tranh.
So, not that these two issues aren't important and tragic. They are. But today I want to tell you a different story. I want to tell you a story that emphasizes a core cause of the ongoing conflict. Violence in Congo is in large part driven by local bottom-up conflicts that international peace efforts have failed to help address.
Hai vấn đề này thật sự quan trọng và nhức nhối vô cùng. Nhưng hôm nay tôi muốn kể với các bạn một câu chuyện khác với mục đích nhấn mạnh vào nguyên nhân chủ yếu của cuộc xung đột đang diễn ra. Bạo lực ở Công-gô bắt nguồn tư những mối bất hòa ở các địa phương, mà những nỗ lực vì hòa bình trên thế giới không thể nào hóa giải được.
The story starts from the fact that not only is Congo notable for being the world's worst ongoing humanitarian crisis, but it is also home to some of the largest international peacebuilding efforts in the world. Congo hosts the largest and most expensive United Nations peacekeeping mission in the world. It was also the site of the first European-led peacekeeping mission, and for its first cases ever, the International Criminal Court chose to prosecute Congolese warlords. In 2006, when Congo held the first free national elections in its history, many observers thought that an end to violence in the region had finally come. The international community lauded the successful organization of these elections as finally an example of successful international intervention in a failed state.
Có một sự thật là Công-gô không chỉ được biết đến bởi cuộc khủng hoảng nhân đạo tệ nhất đang tiếp diễn, mà còn bởi vì nơi đây là cái nôi của những nỗ lực quốc tế nhằm xây dựng hòa bình trên thế giới. Công-gô là nơi đặt trụ sở lớn nhất và được đầu tư nhiều nhất trong số những trụ sở gìn giữ hòa bình thế giới của Liên Hợp Quốc. Đây cũng Châu Âu chọn đặt trụ sở hòa bình đầu tiên của mình, và cũng ở nơi đây, lần đầu tiên, Tòa án Hình sự Quốc tế quyết định khởi tố các lãnh chúa Công-gô. Năm 2006, khi Công-gô tổ chức cuộc bầu cử tụ do toàn quốc đầu tiên trong lịch sử, nhiều nhà quan sát cho rằng cái kết của bạo lực vùng miền cuối cùng cũng đã đến. Cộng đồng thế giới đã ca ngợi việc tổ chức thành công các cuộc bầu cử như một minh chứng cho kết quả từ những can thiệp quốc tế trong một đất nước đã từng thất bại.
But the eastern provinces have continued to face massive population displacements and horrific human rights violations. Shortly before I went back there last summer, there was a horrible massacre in the province of South Kivu. Thirty-three people were killed. They were mostly women and children, and many of them were hacked to death. During the past eight years, fighting in the eastern provinces has regularly reignited full-scale civil and international war. So basically, every time we feel that we are on the brink of peace, the conflict explodes again.
Tuy nhiên những tỉnh ở phía đông vẫn tiếp tục đối mặt với nạn di dân ồ ạt và vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Không lâu trước khi tôi trở lại vào mùa hè vừa rồi, một cuộc tàn sát khủng khiếp xảy ra ở một tỉnh phía Nam Kivu. 33 người bị giết hại. Hầu hết là phụ nữ và trẻ em, và rất nhiều người bị đánh đập đến chết. Trong suốt 8 năm qua, chiến tranh ở các tỉnh phía đông thường nhen nhóm sự khởi đầu của một cuộc chiến tranh mang quy mô toàn dân và quốc tế. Cơ bản là, cứ khi nào chúng tôi cảm thấy như đang đứng trên bờ vực của hòa bình, thì một cuộc xung đột nữa lại nổ ra.
Why? Why have the massive international efforts failed to help Congo achieve lasting peace and security? Well, my answer to this question revolves around two central observations. First, one of the main reasons for the continuation of violence in Congo is fundamentally local -- and when I say local, I really mean at the level of the individual, the family, the clan, the municipality, the community, the district, sometimes the ethnic group. For instance, you remember the story of Isabelle that I told you. Well, the reason why militias had attacked Isabelle's village was because they wanted to take the land that the villagers needed to cultivate food and to survive.
Tại sao? Tại sao những nỗ lực quốc tế to lớn kia lại thất bại trong việc giúp Công-gô gìn giữ hòa bình và an ninh lâu dài? Vâng, câu trả lời của tôi chủ yếu xoay quanh 2 sự việc tôi quan sát được. Thứ nhất: lý do chính của việc tiếp diễn bạo lực ở đây về cơ bản chính là do địa phương -- và khi nói tới "địa phương" tức là tôi đang đề cập đến cấp độ một cá nhân, một gia đình, một bộ lạc, một thành phố, một cộng đồng, một quận, đôi khi là một nhóm dân tộc. Ví dụ, bạn còn nhớ câu chuyện về Isabelle? Vâng, lý do mà dân quân tấn công làng của Isabelle là vị họ muốn chiếm lấy đất mà dân làng dùng để trồng trọt và sinh sống.
The second central observation is that international peace efforts have failed to help address local conflicts because of the presence of a dominant peacebuilding culture. So what I mean is that Western and African diplomats, United Nations peacekeepers, donors, the staff of most nongovernmental organizations that work with the resolution of conflict, they all share a specific way of seeing the world. And I was one of these people, and I shared this culture, so I know all too well how powerful it is. Throughout the world, and throughout conflict zones, this common culture shapes the intervener's understanding of the causes of violence as something that is primarily located in the national and international spheres. It shapes our understanding of the path toward peace as something again that requires top-down intervention to address national and international tensions. And it shapes our understanding of the roles of foreign actors as engaging in national and international peace processes. Even more importantly, this common culture enables international peacebuilders to ignore the micro-level tensions that often jeopardize the macro-level settlements.
Điều thứ 2 tôi quan sát được đó là: việc những nỗ lực hòa bình quốc tế thất bại trong việc giúp giải quyết những xung đột tại địa phương, chính là do "văn hóa xây dựng hòa bình" tại đây. Ý tôi muốn nói rằng, những nhà ngoại giao phương Tây và châu Phi, những nhà quyên góp và bảo vệ hòa bình từ Liên Hợp Quốc, thành viên của hầu hết các tổ chức phi chính phủ, hay những người đang cố gắng giải quyết các xung đột nói chung, tất cả đều nhìn về thế giới này theo 1 cách giống nhau. Và tôi đã là một trong số họ - tôi cũng đã từng chia sẻ cái "văn hóa" này, nên tôi hiểu nó có sức mạnh như thế nào. Khắp thế giới, và mọi khu vực có xung đột, văn hóa này khiến những nhà cải cách thấy rằng những nguyên nhân gây ra bạo lực chủ yếu xuất phát từ các yếu tố quốc gia và quốc tế. Nó cũng khiến chúng ta nghĩ rằng con đường tiến tời hòa bình đòi hỏi phải có một sự can thiệp bao quát từ trên xuống dưới để giải quyết những căng thằng của quốc gia và quốc tế. Và nó cũng khiến chúng ta nghĩ rằng vai trò của những nhà hoạt động ngoại quốc là tham gia vào các tiến trình gìn giữ hòa bình của quốc gia và quốc tế. Quan trọng hơn là, cái văn hóa chung này khiến các nhà xây dựng hòa bình quốc tế xem nhẹ các căng thẳng ở tầm vi mô trong khi chính chúng có thể làm lung lay các hiệp ước vĩ mô.
So for instance, in Congo, because of how they are socialized and trained, United Nations officials, donors, diplomats, the staff of most nongovernmental organizations, they interpret continued fighting and massacres as a top-down problem. To them, the violence they see is the consequence of tensions between President Kabila and various national opponents, and tensions between Congo, Rwanda and Uganda. In addition, these international peacebuilders view local conflicts as simply the result of national and international tensions, insufficient state authority, and what they call the Congolese people's so-called inherent penchant for violence.
Ví dụ, ở Công-gô, dựa theo cách họ đã được rèn luyện và tập huấn, quan chức Liên Hợp Quốc, nhà quyên góp, ngoại giao, những nhân viên của hầu hết các tổ chức phi chính phủ, đều nghĩ chiến tranh và các cuộc tàn sát là một vấn đề mang tính hệ thống. Với họ, bạo lực mà họ nhìn thấy là hậu quả của những căng thẳng giữa Tổng thống Kabila và những phe đối lập trong nước, bên cạnh những bất hòa giữa Công-gô, Rwanda và Uganda. Thêm vào đó, các nhà xây dựng hòa bình quốc tế xem những xung đột địa phương đơn giản là kết quả của các căng thẳng của quốc gia và quốc tế, từ việc chính quyền nhà nước thiếu uy quyền, và từ cái mà họ vẫn gọi là "xu hướng bạo lực cố hữu của người Công-gô".
The dominant culture also constructs intervention at the national and international levels as the only natural and legitimate task for United Nations staffers and diplomats. And it elevates the organization of general elections, which is now a sort of cure-all, as the most crucial state reconstruction mechanism over more effective state-building approaches. And that happens not only in Congo but also in many other conflict zones.
Văn hóa này cũng khởi đầu cho những can thiệp đến từ các cấp độ quốc gia và quốc tế, như thể đó là nhiệm vụ trước nhất của thành viên và nhà ngoại giao LHQ. Và nó thúc đẩy việc tổ chức các cuộc tổng tuyển cử - - điều được xem như một phương pháp tối ưu và là cơ chế quan trọng nhất trong tái thiết nhà nước hơn là các giải pháp xây dựng đất nước. Và điều này đang xảy ra không chỉ ở Công-gô, mà còn ở nhiều vùng xung đột khác.
But let's dig deeper, into the other main sources of violence. In Congo, continuing violence is motivated not only by the national and international causes but also by longstanding bottom-up agendas whose main instigators are villagers, traditional chiefs, community chiefs or ethnic leaders. Many conflicts revolve around political, social and economic stakes that are distinctively local. For instance, there is a lot of competition at the village or district level over who can be chief of village or chief of territory according to traditional law, and who can control the distribution of land and the exploitation of local mining sites. This competition often results in localized fighting, for instance in one village or territory, and quite frequently, it escalates into generalized fighting, so across a whole province, and even at times into neighboring countries.
Nhưng hãy xem xét một cách sâu sắc hơn, về những nguyên nhân khác của bạo lực. Ở Công-gô, bạo lực đang tiếp diễn bị thúc đẩy không chỉ do nguyên nhân quốc gia, quốc tế mà còn bởi những kế hoạch, ý đinh lâu dài xuất phát từ các tầng lớp nhân dân, mà những người chủ mưu lại chính là các dân làng, tù trưởng, hay người đứng đầu các bộ lạc, Nhiều xung đột liên quan đến lợi ích chính trị, xã hội, kinh tế đặc trưng của từng địa phương. Ví dụ, có rất nhiều cuộc đấu tranh ở cấp độ làng hoặc quận huyện để tìm ra người sẽ lãnh đạo làng hoặc vùng dựa trên luật truyền thống, và tìm xem ai có thể điều khiển việc phân chia vùng đất và việc khai thác khoáng sản. Cuộc đấu tranh thường dẫn đến xung đột địa phương, ví dụ như trong ngôi làng hay lãnh thổ, và nó thường lan ra thành một cuộc đấu tranh diện rộng lan khắp cả tỉnh, và thậm chí sang cả các nước láng giềng.
Take the conflict between Congolese of Rwandan descent and the so-called indigenous communities of the Kivus. This conflict started in the 1930s during Belgian colonization, when both communities competed over access to land and to local power. Then, in 1960, after Congolese independence, it escalated because each camp tried to align with national politicians, but still to advance their local agendas. And then, at the time of the 1994 genocide in Rwanda, these local actors allied with Congolese and Rwandan armed groups, but still to advance their local agendas in the provinces of the Kivus. And since then, these local disputes over land and local power have fueled violence, and they have regularly jeopardized the national and international settlements.
Như cuộc xung đột giữa dân Công-gô của dòng dỏi Rwanda và cộng đồng dân bản địa ở Kivus. Xung đột này bắt đầu vào những năm 1930 trong suốt chế độ thực dân Bỉ, khi hai cộng đồng dân cư địa phương tranh chấp quyền sử dụng đất và quyền lực Tiếp đó, năm 1960, sau ngày Công-gô giành độc lập, xung đột lớn dần bởi các phe phái dù đã liên minh với chính trị gia trong nước, nhưng vẫn tiếp tục củng cố thế lực riêng trong địa phương. Và tiếp sau đó, vào thời điểm nạn diệt chủng năm 1994 ở Rwanda, các phe phái lại liên minh vởi quân đội Công-gô và Rwanda, nhưng vẫn tiếp tục mở rộng thế lực tại tỉnh Kivus. Từ đó trở đi, những tranh chấp tại địa phương về đất đai và quyền lực đã châm ngòi cho bạo lực, và thường xuyên làm ảnh hưởng đến những hiệp ước quốc gia và quốc tế.
So we can wonder why in these circumstances the international peacebuilders have failed to help implement local peacebuilding programs. And the answer is that international interveners deem the resolution of grassroots conflict an unimportant, unfamiliar, and illegitimate task. The very idea of becoming involved at the local level clashes fundamentally with existing cultural norms, and it threatens key organizational interests. For instance, the very identity of the United Nations as this macro-level diplomatic organization would be upended if it were to refocus on local conflicts. And the result is that neither the internal resistance to the dominant ways of working nor the external shocks have managed to convince international actors that they should reevaluate their understanding of violence and intervention. And so far, there have been only very few exceptions. There have been exceptions, but only very few exceptions, to this broad pattern.
Giờ đây chúng ta có thể đang tự hỏi tại sao trong hoàn cảnh đó, những nhà bảo vệ hòa bình lại thất bại trong việc thực hiện những chương trình củng cố hòa bình địa phương? Câu trả lời chính là: do những tổ chức quốc tế đã xem nhẹ việc giải quyết các xung đột ở cấp độ cơ sở, địa phương, coi chúng không đáng kể, không quan trọng, không cần thiết. Chỉ riêng ý tưởng "tham gia giải quyết các vấn đề cấp địa phương" đã cơ bản đi ngược lại các chuẩn mực của "văn hóa" tôi đã đề cập tới, và thậm chí đe dọa đến quyền lợi của các tổ chức hòa bình. Thí dụ, Liên Hợp Quốc được xem như là một tổ chức ngoại giao mang tầm vĩ mô, và điều đó không cho phép họ tập trung vào các vấn đề mang tính địa phương. Kết quả là, kể cả những bất đồng trong nội bộ về "văn hóa" chung, hay những tác động bên ngoài, đều không thể khiến những nhà hoạt động quốc tế hiểu rằng: họ nên thay đổi suy nghĩ về bạo lực và cách họ nên can thiệp. Hiện giờ, mới chỉ có rất ít trường hợp ngoại lệ. Dù đã xuất hiện những ngoại lệ, nhưng chúng vẫn còn quá ít so với mô hình chung hiện nay.
So to wrap up, the story I just told you is a story about how a dominant peacebuilding culture shapes the intervener's understanding of what the causes of violence are, how peace is made, and what interventions should accomplish. These understandings enable international peacebuilders to ignore the micro-level foundations that are so necessary for sustainable peace. The resulting inattention to local conflicts leads to inadequate peacebuilding in the short term and potential war resumption in the long term. And what's fascinating is that this analysis helps us to better understand many cases of lasting conflict and international intervention failures, in Africa and elsewhere. Local conflicts fuel violence in most war and post-war environments, from Afghanistan to Sudan to Timor-Leste, and in the rare cases where there have been comprehensive, bottom-up peacebuilding initiatives, these attempts have been successful at making peace sustainable. One of the best examples is the contrast between the relatively peaceful situation in Somaliland, which benefited from sustained grassroots peacebuilding initiatives, and the violence prevalent in the rest of Somalia, where peacebuilding has been mostly top-down. And there are several other cases in which local, grassroots conflict resolution has made a crucial difference.
Để tóm lại vấn đề, những gì mà tôi vừa kể là câu chuyện về cách "văn hóa xây dựng hòa bình" đang thịnh hành đã hình thành nên suy nghĩ của những người trong cuộc về bạo lực và hòa bình và mục tiêu của các can thiệp như thế nào. Những suy nghĩ đó khiến những nhà xây dựng hòa bình bỏ qua các nền tảng cấp vi mô đóng vai trò thiết yếu để xây dựng hòa bình bền vững. Sự thiếu quan tâm tới các vấn đề địa phương đã dẫn tới hậu quả tức thời là hòa bình không đủ vững mạnh, và xa hơn là nguy cơ tái bùng nổ chiến tranh. Điều quan trọng ở đây là: những phân tích này có thể giúp chúng ta hiểu được nguyên nhân của rất nhiều xung đột cũng như tại sao nỗ lực quốc tế lại thất bại ở Châu Phi, hay ở bất cứ đâu. Xung đột địa phương thường là nguyên nhân của chiến tranh và bạo lực sau chiến tranh ở các nước từ Afghanistan tới Sudan, tới Đông Ti-mo. Nhưng cứ khi nào xuất hiện một giải pháp xây dựng hòa bình hiếm hoi vừa toàn diện, vừa bao quát, thì giải pháp đó sẽ rất thành công trong việc đảm bảo hòa bình bền vững. Ví dụ tiêu biểu nhất cho điều này là sự đối lập giữa bối cảnh hòa bình ở Somaliland có được từ việc gây dựng hòa bình từ dưới lên, từ cá thể tới tập thể, với tình trạng bạo loạn ở hầu khắp phần còn lại của Somalia, nơi mà các biện pháp hòa bình đang được triển khai từ trên xuống. Và còn rất nhiều trường hợp khác cho thấy việc giải quyết triệt để các xung đột làng xã địa phương có thể mang lại những thay đổi quan trọng.
So if we want international peacebuilding to work, in addition to any top-down intervention, conflicts must be resolved from the bottom up. And again, it's not that national and international tensions don't matter. They do. And it's not that national and international peacebuilding isn't necessary. It is. Instead, it is that both macro-level and micro-level peacebuilding are needed to make peace sustainable, and local nongovernmental organizations, local authorities and civil society representatives should be the main actors in the bottom-up process.
Vì thế, nếu chung ta muốn xây dựng hòa bình quốc tế, thì bên cạnh việc can thiệp từ trên xuống, chúng ta phải tìm cách giải quyết vấn đề từ dưới lên. Tôi không có ý nói rằng những căng thẳng quốc gia và quốc tế là điều nhỏ nhặt. Chúng không nhỏ chút nào! Và cũng không có ý muốn nói rằng xây dựng hòa bình quốc gia và quốc tế là điều không quan trọng. Chúng rất quan trọng là đằng khác! Tuy nhiên, chúng phải được triển khai ở cả hai cấp độ vi mô và vĩ mô, để có thể tiến đến hòa bình bền vững. Bên cạnh đó, các tổ chức phi chính phủ, cùng với chính quyền và đại diện các cộng đồng địa phương, nên là nhân tố chính trong công cuộc xây dựng hòa bình từ riêng tới chung.
So of course, there are obstacles. Local actors often lack the funding and sometimes the logistical means and the technical capacity to implement effective, local peacebuilding programs. So international actors should expand their funding and support for local conflict resolution.
Dĩ nhiên là sẽ xuất hiện rất nhiều trở ngại. Như là thiếu ngân sách đia phương, hoặc đôi khi thiếu các phương tiện hậu cần và năng lực chuyên môn cần thiết để xây dựng hòa bình địa phương một cách hiệu quả. Do đó, các nhà hoạt động nước ngoài nên mở rộng quỹ ngân sách và hỗ trợ cho các nỗ lực hòa bình địa phương.
As for Congo, what can be done? After two decades of conflict and the deaths of millions, it's clear that we need to change our approach. Based on my field research, I believe that international and Congolese actors should pay more attention to the resolution of land conflict and the promotion of inter-community reconciliation. So for instance, in the province of the Kivus, the Life and Peace Institute and its Congolese partners have set up inter-community forums to discuss the specifics of local conflicts over land, and these forums have found solutions to help manage the violence. That's the kind of program that is sorely needed throughout eastern Congo. It's with programs like this that we can help people like Isabelle and her husband.
Còn riêng với Công-gô, có thể làm gì đây? Sau 2 thập kỷ đầy bạo loạn và cái chết của hàng triệu người, rõ ràng là đã đến lúc chúng ta phải đưa ra các giải pháp mới. Dựa trên những nghiên cứu thực địa của bản thân, tôi tin rằng những nhà hoạt động ở Công- gô và quốc tế nên quan tâm nhiều hơn tới việc giải quyết các trang chấp đất đai địa phương và thúc đẩy việc hòa giải và gắn kết các cộng đồng với nhau. Thí dụ, giữa các tỉnh ở Kivus, Tổ chức Cuộc sống và Hòa bình và những đối tác Công-gô đã thành lập diễn đàn liên kết cộng đồng để thảo luận về giải pháp đối với các tranh chấp đất đai địa phương. Những diễn đàn này cũng đã tìm ra cách giúp giải quyết trình trạng bạo lực. Và những chương trình như thế này chính là điều cần thiết hơn bao giờ hết cho các địa phương phía đông Công-gô. Với những chương trình này, chúng ta có thể giúp những người như Isabelle và chồng cô ấy.
So these will not be magic wands, but because they take into account deeply rooted causes of the violence, they could definitely be game-changers.
Những chương trình này không tạo ra phép màu gì cả, nhưng nếu chúng giúp hóa giải những nguyên nhân gốc rễ của bạo lực, thì đây quả thực là một thay đổi vĩ đại.
Thank you.
Xin cám ơn.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)