I am the daughter of a forger, not just any forger ... When you hear the word “forger,” you often think “mercenary.” You think “forged currency,” “forged pictures.” My father is no such man. For 30 years of his life, he forged papers -- never for himself, always for other people, and to helpf the persecuted and the oppressed. Let me introduce him. Here is my father at age 19. It all began for him during World War II, when, aged 17, he found himself thrust into a forged documents workshop. He quickly became the forged paper expert of the Resistance. And this story became special as after the Liberation, he went on forging papers until the ’70s.
Tôi là con gái của một người làm đồ giả, không giống những người làm đồ giả khác ... Khi bạn nghe từ "làm đồ giả", bạn thường hiểu là "hám lợi". Bạn hiểu là "làm tiền giả", "làm tranh giả" Bố tôi không phải một người như vậy. Trong 30 năm cuộc đời, ông làm giấy tờ giả -- không phải cho bản thân, mà luôn là cho người khác, và để cứu giúp những người bị ngược đãi, bị áp bức. Để tôi kể về ông. Đây là bố tôi năm ông 19 tuổi. Mọi chuyện bắt đầu với ông vào Thế Chiến thứ 2, năm 17 tuổi ông thấy mình chui vào một xưởng làm giấy tờ giả. Ông nhanh chóng trở thành chuyên gia làm giấy tờ giả cho quân Kháng chiến. Chuyện này không tầm thường -- sau giải phóng, ông tiếp tục làm giấy tờ giả cho mãi đến những năm 70.
When I was a child, I knew nothing about this, of course. This is me, in the middle, making faces. I grew up in the Paris suburbs and I was the youngest of three children. I had a "normal" dad like everybody else, apart from the fact he was 30 years older than ... well, he was basically old enoug to be my grandfather. Anyway, he was a photographer and a street educator, and he always taught us to strictly obey the laws. And, of course, he never talked about his past life when he was a forger.
Khi tôi còn nhỏ tất nhiên tôi không biết gì về điều này. Đây là tôi, là khuôn mặt đang làm trò ở giữa. Tôi lớn lên ở ngoại ô Paris tôi nhỏ tuổi nhất trong 3 đứa. Tôi có một người bố "bình thường" như bao người khác, ngoại trừ sự thật là ông lớn hơn 30 tuổi ... uhm, cơ bản là ông đủ tuổi ông của tôi. Dù sao, ông là một nhiếp ảnh gia và là một nhà giáo dục đường phố, ông luôn dạy chúng tôi phải nghiêm chỉnh tuân theo luật pháp. Và tất nhiên là ông chưa bao giờ nói về cuộc đời trước đây của mình khi ông là một người làm đồ giả.
But there was an episode, I will tell you about, that might have tipped me off. I was in high school and got a bad grade, a rare event for me, so I decided to hide it from my parents. And to do that, I thought I would forge their signature. I started working on my mother’s signature, because my father’s one is absolutely impossible to forge. So, I got working, I took some sheets of paper and started practicing, practicing, practicing, until I reached what I thought was a steady hand, and went into action. Later, while checking my school bag, my mother found my assignment and saw the signature was forged. She yelled at me like never before. I went to hide in my bedroom, under the blankets, and then I waited for my father to come back from work with, one could say, much apprehension. I heard him come in. I remained under the blankets He entered my room, sat on the corner of the bed, and he was silent, so I pulled the blanket from my head, and when he saw me, he started laughing. He was laughing so hard, he could not stop, holding my assignment. Then he said, “Really, Sarah, you could have worked harder! It’s too small!” Indeed, it's rather small.
Nhưng có một sự cố mà tôi sắp kể sau đây, có lẽ là điều khiến tôi nghi ngờ đôi điều. Lúc đó tôi đang học trung học và bị điểm kém, là một chuyện hiếm gặp đối với tôi, nên tôi quyết định giấu bố mẹ tôi. Để làm vậy, tôi lên kế hoạch giả chữ kí của họ. Tôi bắt đầu giả chữ kí của mẹ, bởi vì chữ kí của bố rõ là khó giả. Thế, tôi bắt đầu làm. Tôi lấy vài tờ giấy rồi bắt đầu tập, tập, tập, cho đến khi tôi thấy mình viết cứng tay rồi, và kí thật. Sau đó, trong lúc kiểm tra cặp, mẹ tôi cầm bài tập của tôi lên và lập tức nhìn thấy chữ kí giả. Bà la mắng xối xả chưa từng có. Tôi trốn vào phòng ngủ, nằm dưới chăn, rồi tôi đợi bố tôi đi làm về có thể nói là, với sự sợ hãi kinh khủng. Tôi nghe ông bước bước vào. Tôi vẫn nằm trong chăn. Ông bước vào phòng tôi, ngồi ở góc giường, và im lặng, nên tôi kéo chăn ra khỏi đầu, khi ông nhìn tôi ông phì cười. Ông cười rất dữ, ông không thể dừng lại được, và tay ông thì cầm bài tập của tôi. Rồi ông nói, "Mà thực là, Sarah, đáng ra con có thể tập thêm! Con không thấy nó quá nhỏ à?" Thực ra, nó khá nhỏ.
I was born in Algeria. There I would hear people say my father was a “moudjahid” and that means "fighter." Later on, in France, I loved eavesdroppin on grownups’ conversations, and I would hear all sorts of stories about my father’s former life, especially that he had “done” World War II, that he had "done" the Algerian war. In my head, I thought that “doing” a war meant being a soldier. But knowing my father, and how was a non-violent keen pacifist, I found it very hard to picture him with a helmet and gun. And indeed, I was very far from the mark.
Tôi sinh ra ở Algeria. Ở đó tôi nghe người ta gọi bố tôi là một "moudjahid" có nghĩa là "lính". Sau đó, khi ở Pháp, tôi rất thích nghe trộm người lớn nói chuyện, tôi nghe đủ chuyện về cuộc đời trước đây của bố tôi, đặc biệt là những gì ông đã "làm" trong Thế Chiến II, những gì ông đã "làm" trong chiến tranh Algeria. Và trong đầu, tôi nghĩ rằng "làm" trong một cuộc chiến nghĩa là làm một người lính. Nhưng hiểu bố tôi, và ông luôn nói rằng ông là một người chuộng hòa bình, không bạo lực, tôi thấy thật khó hình dung ông với một cái mũ cối và khẩu súng. Thực sự, hình tượng đó rất xa vời với tôi.
One day, while my father was working on a file for us to obtain French nationality, I happened to see some documents. These are real! These are mine, I was born an Argentinean. But the document I happened to see, that would help us build a case for the authorities, was a document from the army thanking my father for his work on behalf of the secret services. And then, suddenly, I went "wow!" My father, a secret agent? It was very James Bond. I wanted to ask him questions, which he didn’t answer. And later, I told myself that one day I would have to question him. By then I was a mother of a little boy and thought it was now time, that he absolutely had to talk to us. I had just become a mother and he was celebrating his 77th birthday, and suddenly I was very, very afraid. I feared he'd go and take his silences with him, and take his secrets with him. I managed to convince him that it was important for us, but possibly also for other people that he shared his story. And so he did and I made a book of it, from which I will read you some excerpts later.
Một ngày, khi bố tôi đang làm việc với một hồ sơ để nhập quốc tịch Pháp cho chúng tôi, tôi chợt thấy vài giấy tờ khiến tôi chú ý. Đó là thật! Những cái đó là của tôi, tôi sinh ra là một người Argentina. Mà giấy tờ tôi chợt thấy sẽ giúp chúng tôi có cơ sở nói với chính quyền là một giấy tờ từ quân đội đại diện cho các tổ chức bí mật cảm ơn bố tôi vì việc ông đã làm. Rồi đột nhiên tôi thốt lên "wow!" Bố tôi, một đặc vụ bí mật? Rất giống James Bond. Tôi muốn hỏi ông nhiều câu hỏi mà ông không trả lời. Sau đó, tôi tự hỏi mình rằng một ngày nào đó tôi sẽ phải hỏi ông. Và rồi tôi làm mẹ và có con trai, cuối cùng quyết định đã đến lúc -- ông nhất định phải nói cho tôi biết. Tôi đã làm mẹ còn ông đang ăn mừng sinh nhật thứ 77, đột nhiên tôi rất rất lo sợ. Tôi sợ ông sẽ đi đem sự im lặng đi cùng và đem theo cả những bí mật. Tôi cố gắng thuyết phục ông rằng câu chuyện đó rất quan trọng với chúng tôi, và có thể còn với những người khác nếu ông chia sẻ. Ông quyết định kể tôi nghe và tôi đã viết một cuốn sách,
Here’s his story: my father was born in Argentina. His parents were of Russian descent. The whole family came to settle in France in the ’30s. His parents were Jewish, Russian and above all, very poor. So at the age of 14, my father had to work. And with his only diploma, the primary school certificate, he found work at a dry cleaner’s. That’s where he discovered something totally magical, when he talks about it, it’s fascinating -- it's the magic of dyeing chemistry. that was during the war and his mother had been killed when he was 15. This coincided with the time when he threw himself body and soul into chemistry as it was the only consolation for his sadness. He would ask his boss many questions all day long, to learn, to gather more and more knowledge, and at night, when no one was looking, he'd put his experience to practice. He was mostly interested in ink bleaching.
mà lát nữa tôi sẽ lấy ra kể một vài trích đoạn. Vậy, chuyện của ông. Bố tôi sinh ra ở Argentina. Bố mẹ ông là người gốc Nga. Cả gia đình đến định cư ở Pháp những năm 30. Bố mẹ ông là người Do Thái, Nga và trên tất cả, họ rất nghèo. Nên năm 14 tuổi bố tôi phải đi làm. Với bằng tốt nghiệp duy nhất, là chứng chỉ tốt nghiệp tiểu học, ông tìm cho mình công việc thợ nhuộm - người lau khô. Đó là nơi ông khám phá ra gì đó thực sự diệu kì, và khi ông nói về điều đó, nó thật tuyệt vời -- đó là ảo thuật của hóa nhuộm. Trong thời gian đó đang diễn ra chiến tranh mẹ ông bị giết khi ông mới 15 tuổi. Sự việc này cùng lúc với khi ông dồn hết tâm trí và sức lực vào hóa học bởi vì đó niềm an ủi duy nhất với ông. Cả ngày ông đặt nhiều câu hỏi với ông chủ để học, để tích lũy nhiều và nhiều kiến thức, đến tối, khi không ai nhìn ngó nữa, ông làm thí nghiệm. Ông gần như rất thích việc tẩy mực.
All this to tell you that if my father became a forger, actually, it was almost by accident. His family was Jewish, so they were hunted down. They were all arrested eventually and taken to the Drancy camp. They got out at the last minute thanks to their Argentinean papers. They were out, but still in danger. The “Jew” stamp was still on their papers. It was my grandfather who decided they needed forged documents. My father had been instilled with such respect for the law that although he was being persecuted, he’d never thought of forged papers. But it was he who went to meet a man from the Resistance.
Tất cả những điều này là để nói rằng nếu bố tôi thực là người làm đồ giả thì gần như do ngẫu nhiên. Gia đình ông là người Do Thái, vì thế họ bị truy lùng. Cuối cùng họ đều bị bắt và bị đưa tới trại Drancy họ xoay sở để chạy trốn vào phút cuối cùng, nhờ vào giấy tờ quốc tích Argentina. Họ đã thoát, nhưng họ luôn gặp nguy hiểm. Cái nhãn "Do Thái" to lớn vẫn nằm trên giấy tờ tùy thân. Chính ông tôi là người quyết định cần giấy tờ giả mạo. Bố tôi luôn luôn tuân thủ luật lệ cho dù ông bị ngược đãi, ông cũng không bao giờ nghĩ đến giấy tờ giả. Nhưng chính ông là người đến gặp người đàn ông quân Kháng chiến.
Back then, documents had hard covers, they were filled in by hand, and they stated your job. In order to survive, he needed work. He asked the man to write "dyer." Suddenly, the man looked very, very interested. “As a “dyer,” do you know how to bleach ink marks?” Of course, he knew. Suddenly, the man started explaining that actually the whole Resistance had a huge problem: even the top experts could not manage to bleach an ink called “indelible,” the "Waterman" blue ink. And my father immediately replied that he knew exactly how to bleach it. The man was very impressed with this 17-year-old who could immediately give him the formula, so he recruited him. Unknowingly, my father had just invented something you find in every schoolchild’s pencil case: the so-called "correction pen." (Applause)
Vào thời đó giấy tờ có bìa cứng, và được điền bằng tay, nêu công việc của bạn. Để sống sót, ông cần có việc làm Ông yêu cầu người đàn ông đó viết chữ "thợ nhuộm". Người đàn ông đột nhiên nhìn rất, rất thích thú. Là một "thợ nhuộm", bạn có biết cách để tẩy dấu mực? Tất nhiên là ông biết. Đột nhiên người đó bắt đầu giải thích rằng thực ra toàn quân Kháng chiến có một vấn đề lớn: thậm chí những chuyên gia hàng đầu cũng không thể xóa được dấu mực, gọi là "không tẩy", mực xanh "Waterman" Bố tôi lập tức trả lời rằng ông biết chính xác cách tẩy đi như thế nào. Lúc đó, người đàn ông đó hẳn rất ấn tượng với cậu thanh niên 17 tuổi này người ngay tức khắc cho ông cái công thức, nên ông đã nhận cậu ta. Thực ra, dù không biết gì về nó, ông đã phát minh ra một thứ mà chúng ta có thể thấy ở bất cứ hộp bút học sinh nào: được gọi là "bút xóa" (Vỗ tay)
But it was only the beginning. That's my father. As soon as he got to the lab, though he was the youngest, he immediately saw there was a problem with the making of forged documents. All the groups would stop at falsifying.. But demand was ever-growing and it was difficult to tamper with existing documents. He thought they should be made from scratch. He started a press and started photoengraving. He started making rubber stamps, inventing all kind of things -- he invented a centrifuge using a bicycle wheel. Anyway, he had to do all this because he was completel obsessed with output. He had made a simple calculation: In one hour, he could make 30 forged documents. If he slept one hour, 30 people would die.
Nhưng đó chỉ mới là bắt đầu. Đó là bố tôi. Ngay khi ông vào phòng thí nghiệm, dù ông là người trẻ tuổi nhất, ông lập tức nhận thấy có một vấn đề với việc làm giấy tờ giả. Hoạt động làm giả không có cải tiến nào thêm. Nhưng nhu cầu thì vẫn tăng và việc làm giả trên các giấy tờ đã có sẵn thật khó. Ông tự nhủ cần phải làm giả ngay từ đầu. Ông bắt đầu làm máy in. Ông làm bản khắc quang. Ông khởi xướng làm mấy con tem bằng cao su. Ông bắt đầu phát minh ra đủ kiểu đồ -- với một số vật liệu ông đã tạo ra máy ly tâm từ một cái bánh xe đạp. Dù sao đi nữa, ông phải làm tất cả những việc này vì ông hoàn toàn bị ám ảnh của thành phẩm đạt được. Ông đã làm một phép tính đơn giản: Trong một giờ ông có thể làm được 30 giấy tờ giả. Nếu ông ngủ một giờ, 30 người sẽ chết.
This sense of responsability for other people’s lives when he was just 17 -- and also his guilt for being a survivor, since he had escaped the camp when his friends had not -- stayed with him all his life. And this is maybe explains why, for 30 years, he continued to make false papers at the cost of every sacrifice. I'd like to talk about those sacrifices, because there were many. There were obviously financial sacrifices because he always refused to be paid. To him, being paid would have meant being a mercenary. If he had accepted payment, he wouldn't be able to say "yes" or "no" depending on what he deemed a just or unjust cause. So he was a photographer by day, and a forger by night for 30 years. He was broke all of the time.
Ông ý thức mình phải có trách nhiệm cho tính mạng của người khác khi chỉ mới 17 tuổi -- và còn cảm thấy tội lỗi vì là kẻ sống sót, vì ông trốn khỏi trại giam còn bạn bè ông thì không -- ý thức đó theo suốt cuộc đời ông. Và điều này có thể giải thích vì sao, trong 30 năm, ông tiếp tục làm giấy tờ giả mạo trả giá bằng sự hi sinh. Tôi muốn nói về những hi sinh đó, bởi vì có quá nhiều. Rõ ràng có sự hi sinh về tiền của bởi vì ông luôn từ chối nhận tiền trả công. Đối với ông, nhận tiền có nghĩa là một con buôn vụ lợi. Nếu ông nhận tiền công, ông sẽ không thể nói "có" hay "không" khi ông cho rằng có một lý do thỏa đáng hay không thỏa đáng. Vì vậy ông làm nghề nhiếp ảnh vào ban ngày, và làm thợ làm giả vào ban đêm trong 30 năm. Đối với ông đã không còn thời gian ngày và đêm.
Then there were the emotional sacrifices: How can one live with a woman while having so many secrets? How can one explain what one does at night in the lab, every single night? Of course, there was another kind of sacrifice involving his family that I understood much later. One day my father introduced me to my sister. He also explained to me that I had a brother, too, and the first time I saw them I must have been three or four, and they were 30 years older than me. They are both in their sixties now.
Và rồi còn cả sự hi sinh về cảm xúc: Làm sao có thể sống với một người phụ nữ khi có nhiều bí mật như vậy được? Làm sao một người có thể giải thích ông làm gì trong phòng thí nghiệm vào ban đêm, tất cả các đêm? Tất nhiên, còn có một sự hi sinh khác nữa liên quan tới gia đình mà về sau tôi mới hiểu nhiều hơn. Một ngày bố tôi giới thiệu tôi với chị gái tôi. Ông còn giải thích rằng tôi có một anh trai nữa, và lần đầu tôi gặp họ tôi chỉ mới 3 hay 4 tuổi, còn họ lớn hơn tôi 30 tuổi. Giờ thì họ đều đã ở tuổi ngũ tuần.
In order to write the book, I asked my sister questions. I wanted to know who my father was, who was the father she had known. She explained that the father that she’d had would tell them he’d come and pick them up on Sunday to go for a walk. They would get all dressed up and wait for him, but he would almost never come. He'd say, "I'll call." He wouldn't call. And then he would not come. Then one day he totally disappeared. Time passed, and they thought he had surely forgotten them, at first. Then as time passed, after almost two years, they thought, "Well, perhaps our father has died." And then I understood that asking my father so many questions was stirring up a whole past he probably didn’t feel like talking about because it was painful. And while my half brother and sister thought they’d been abandoned, orphaned, my father was making false papers. And if he did not tell them, it was of course to protect them.
Để viết cuốn sách đó, tôi hỏi chị gái tôi. Tôi muốn biết bố tôi là ai, người bố mà chị biết. Chị giải thích rằng người bố mà chị có sẽ nói với anh chị là ông sẽ đến đón vào ngày Chủ nhật để dắt đi bộ. Họ sẽ thay quần áo chỉnh tề và đợi ông, nhưng ông sẽ không bao giờ đến. Ông sẽ nói "Bố sẽ gọi". Ông không gọi. Và rồi ông không đến Một ngày nọ ông biến mất hoàn toàn. Thời gian trôi qua, lúc đầu họ nghĩ ông hẳn đã quên mất họ rồi. Thời gian trôi, và cuối cùng sau gần 2 năm, họ nghĩ "Có lẽ bố chúng ta đã chết". Và thế là tôi hiểu việc hỏi bố quá nhiều câu hỏi đã xoáy vào cả quá khứ ông không muốn nói về vì nó đau đớn. Và trong khi anh chị khác mẹ của tôi nghĩ rằng mình đã bị bỏ rơi, mồ côi, thì bố tôi đang làm giấy tờ giả. Và nếu ông không nói cho họ biết là bởi vì muốn bảo vệ họ.
After the Liberation, he made false papers so the survivors of concentration camps could immigrate to Palestine before the creation of Israel. As he was a staunch anti-colonialist, he made false papers for Algerians during the Algerian war. After the Algerian war, at the heart of the internationa resistance movements, his name circulated and the whole world came knocking at his door. In Africa there were countrie fighting for their independence: Guinea, Guinea-Bissau, Angola. And then my father connected with Nelson Mandela’ anti-apartheid party. He made forged papers for persecuted black South Africans.
Sau giải phóng, ông làm giấy tờ giả để những người sống sót trong các trại tập trung di cư tới Palestine trước khi lập ra nước Israel. Sau đó, ông là một người trung thành chống đối thực dân, ông làm giấy tờ cho người Algeria trong chiến tranh Algeria. Sau chiến tranh Algeria, ở tại trái tim của phong trào kháng chiến quốc tế tên ông được lưu truyền, và cả thế giới đến gõ cửa nhà ông. Ở Châu Phi có các nước đấu tranh giành độc lập: Guinea, Guinea-Bissau, Angola. Rồi bố tôi liên hệ với tổ chức chống phân biệt chủng tộc của Nelson Mandela. Ông làm giấy tờ giả cho những người da đen Nam Phi bị ngược đãi.
There was also Latin America. My father helped those who resisted dictatorships in the Dominican Republic, Haiti, and then it was the turn of Brazil, Argentina, Venezuela, El Salvador, Nicaragua, Colombia, Peru, Uruguay, Chile and Mexico. Then there was the Vietnam War. My father made forged papers for the American deserters who refused to take up arms against the Vietnamese. Europe was not spared either. My father made forged papers for the dissidents against Franco in Spain, Salazar in Portugal, against the colonels’ dictatorship in Greece, and even in France. There, just once, it happened in May of 1968. My father watched, benevolently, of course, the demonstrations of the month of May, but his heart was elsewhere, and so was his time because he had over 15 countries to serve.
Cũng có Mỹ Latinh nữa. Bố tôi đã giúp những người chống lại chế độ độc tài ở Cộng hòa Dominica, Haiti, và rồi chuyển qua Brazil, Argentina, Venezuela, El Salvador, Nicaragua, Colombia, Peru, Uruguay, Chile và Mexico. Và rồi cả chiến tranh Việt Nam. Bố tôi làm giấy tờ giả cho lính đào ngũ Mỹ họ là những người không muốn đưa tay chống lại người Việt Nam. Cũng không ngoại trừ Châu Âu. Bố tôi đã làm giả giấy tờ cho những người chống đối Franco ở Tây Ban Nha, Salazar ở Bồ Đào Nha, chống lại chế độ độc tài của tên đại tá ở Hy Lạp, và thậm chí cả ở Pháp. Chỉ có một lần, xảy ra vào tháng 5 năm 1968. Bố tôi hẳn nhiên rất quan tâm theo dõi các cuộc biểu tình trong tháng Năm, nhưng trái tim ông lại ở nơi khác, cũng như thời gian của ông vì ông có hơn 15 nước để phục vụ.
Once, though, he agreed to make false papers for someone you might recognize. (Laughter) He was much younger in those days, and my father agreed to make false papers to enable him to come back and speak at a meeting. He told me that those false papers were the most media-relevant and the least useful he’d had to make in all his life. But, he agreed to do it, even though Daniel Cohn-Bendit’s life was not in danger, just because it was a good opportunity to mock the authorities, and to show them that there’s nothin more porous than borders -- and that ideas have no borders.
Có một lần, ông nhận lời làm giấy tời giả cho một người bạn có thể thấy quen. (Cười) Những ngày đó ông trẻ hơn nhiều, và bố tôi nhận làm hồ sơ giả để ông có thể trở lại và diễn thuyết ở một cuộc họp. Ông nói với tôi rằng những giấy tờ đó dính dáng tới truyền thông nhất và ít hữu ích nhất mà ông từng làm trong suốt đời. Nhưng, ông đồng ý làm, thậm chí dù Daniel Cohn-Bendit không bị nguy hiểm gì cả, chỉ vì đó là một cơ hội tốt để qua mặt các nhà chức trách, và để cho họ thấy không có gì thưa rỗng hơn là những ranh giới -- mà ý tưởng thì không có ranh giới.
All my childhood, while my friends’ dads would tell them Grimm’s fairy tales, my father would tell me stories about very unassuming heroes with unshakeable utopias who managed to make miracles. And those heroes did not need an army behind them. Anyhow, nobody would have followed them, except for a handful [of] men and women of conviction and courage. I understood much later that it was his own story my father would tell me to get me to sleep. I asked him whether, considering the sacrifices he had to make, he ever had any regrets. He said no. He told me that he would have been unable to witness or submit to injustice without doing anything. He was persuaded, and he's still convinced that another world is possible -- a world where no one would ever need a forger. He's still dreaming about it. My father is here in the room today. His name is Adolfo Kaminsky and I’m going to ask him to stand up. (Applause) Thank you.
Cả tuổi thơ tôi, trong khi bố của bạn bè kể chúng nghe chuyện cổ Grimm, bố tôi kể tôi chuyện về những người hùng rất thầm lặng có lý tưởng sống khó lay chuyển họ đã tạo nên những điều kì diệu. Những anh hùng đó không cần một quân đội phía sau họ. Dù sao đi nữa, không ai theo họ cả, ngoại trừ một ít đàn ông và phụ nữ có niềm tin và lòng can đảm. Về sau tôi hiểu hơn rằng đó thực ra là câu chuyện của riêng ông, bố tôi kể để đưa tôi vào giấc ngủ. Tôi hỏi ông có khi nào nghĩ đến những hi sinh của ông, có khi nào ông tiếc nuối. Ông nói không. Ông nói rằng ông không thể chứng kiến hay chịu đựng bất công mà không làm gì cả. Ông đã tin, và đến giờ ông vẫn tin rằng có thể có một thế giới khác -- một thế giới mà ở nơi đó không ai cần phải một người làm giả. Ông vẫn mơ về nó. Bố tôi đang có mặt trong phòng này ngày hôm nay. Ông tên là Adolfo Kaminsky, và tôi sẽ mời ông đứng dậy. (Vỗ tay) Cảm ơn.