No other organ, perhaps no other object in human life, is as imbued with metaphor and meaning as the human heart. Over the course of history, the heart has been a symbol of our emotional lives. It was considered by many to be the seat of the soul, the repository of the emotions. The very word "emotion" stems in part from the French verb "émouvoir," meaning "to stir up." And perhaps it's only logical that emotions would be linked to an organ characterized by its agitated movement.
Không có bộ phận nào khác, có lẽ là không có thứ gì khác trong đời sống con người, mang nhiều ý nghĩa và ẩn dụ như trái tim con người. Trong suốt bề dày lịch sử, trái tim đã trở thành biểu tượng của đời sống tình cảm của chúng ta. Nó được nhiều người xem như nơi trú ngụ của tâm hồn, kho lưu trữ của cảm xúc. Chính từ cảm xúc, "emotion", bắt nguồn một phần từ động từ tiếng Pháp "émouvoir", nghĩa là "khuấy động". Và có lẽ, chỉ hợp lý khi cảm xúc phải gắn liền với một cơ quan có kiểu chuyển động khuấy động đặc trưng.
But what is this link? Is it real or purely metaphorical? As a heart specialist, I am here today to tell you that this link is very real. Emotions, you will learn, can and do have a direct physical effect on the human heart.
Nhưng mối liên hệ này là gì? Nó có thật hay chỉ đơn thuần ẩn dụ? Là chuyên gia tim mạch, hôm nay tôi ở đây để nói với các bạn rằng mối liên hệ này là có thật. Các bạn sẽ biết là cảm xúc có thể và có ảnh hưởng vật lý trực tiếp đến trái tim con người.
But before we get into this, let's talk a bit about the metaphorical heart. The symbolism of the emotional heart endures even today. If we ask people which image they most associate with love, there's no question that the Valentine heart would the top the list. The heart shape, called a cardioid, is common in nature. It's found in the leaves, flowers and seeds of many plants, including silphium, which was used for birth control in the Middle Ages and perhaps is the reason why the heart became associated with sex and romantic love.
Nhưng trước khi vào đề, hãy nói một chút về trái tim ẩn dụ. Tính tượng trưng của trái tim cảm xúc vẫn tồn tại đến ngày nay. Nếu chúng ta hỏi mọi người rằng hình ảnh nào có liên hệ đến tình yêu nhất, chắc chắn hình trái tim Valentine sẽ là câu trả lời đứng đầu danh sách. Hình trái tim, gọi là đường hình tim, rất phổ biến trong tự nhiên. Được thấy trong các loại lá, hoa và hạt của nhiều loài cây. bao gồm cả cây silphium, từng được dùng để ngừa thai vào thời Trung Cổ và có lẽ đó là lý do hình trái tim có liên hệ tới tình dục và tình yêu lãng mạn.
Whatever the reason, hearts began to appear in paintings of lovers in the 13th century. Over time, the pictures came to be colored red, the color of blood, a symbol of passion. In the Roman Catholic Church, the heart shape became known as the Sacred Heart of Jesus. Adorned with thorns and emitting ethereal light, it became an insignia of monastic love. This association between the heart and love has withstood modernity. When Barney Clark, a retired dentist with end-stage heart failure, received the first permanent artificial heart in Utah in 1982, his wife of 39 years reportedly asked the doctors, "Will he still be able to love me?"
Bất kể vì lý do gì, trái tim đã bắt đầu xuất hiện trong tranh vẽ về tình yêu ở thế kỷ 13. Qua thời gian, hình trái tim dần trở thành màu đỏ, màu của máu, một biểu tưởng của đam mê. Trong Giáo hội Công giáo La Mã, trái tim dần trở thành Trái tim Thánh Chúa Giêsu. Được bọc trong vòng gai và vầng hào quang lấp lánh, trái tim đó trở thành biểu tượng của tình yêu chúa. Mối liên hệ giữa tình yêu và trái tim vẫn đứng vững cho tới ngày nay. Khi Barney Clark, một nha sĩ đã về hưu bị suy tim giai đoạn cuối, nhận trái tim nhân tạo vĩnh viễn đầu tiên ở bang Utah năm 1982, người vợ 39 năm của ông nghe nói đã hỏi bác sỹ là: "Ông ấy sẽ vẫn yêu tôi chứ?"
Today, we know that the heart is not the source of love or the other emotions, per se; the ancients were mistaken. And yet, more and more, we have come to understand that the connection between the heart and the emotions is a highly intimate one. The heart may not originate our feelings, but it is highly responsive to them. In a sense, a record of our emotional life is written on our hearts. Fear and grief, for example, can cause profound cardiac injury. The nerves that control unconscious processes such as the heartbeat can sense distress and trigger a maladaptive fight-or-flight response that triggers blood vessels to constrict, the heart to gallop and blood pressure to rise, resulting in damage. In other words, it is increasingly clear that our hearts are extraordinarily sensitive to our emotional system, to the metaphorical heart, if you will.
Ngày nay chúng ta biết là trái tim không phải nguồn gốc của tình yêu hay các cảm xúc khác, về bản chất; cổ nhân đã hiểu lầm. Tuy nhiên, ngày càng ngày, chúng ta dần hiểu được mối liên hệ giữa trái tim và các cảm xúc là rất mật thiết. Trái tim có thể không phải là nguồn gốc các cảm xúc. nhưng nó phản ứng rất mạnh với chúng. Ở mặt nào đó, đời sống tình cảm của chúng ta được lưu lại trong tim. Ví dụ, nỗi sợ và đau buồn có thể gây tổn thương lớn cho tim. Các dây thần kinh kiểm soát hoạt động vô thức như nhịp tim có thể cảm nhận căng thẳng và kích hoạt phản ứng chiến-hay-chạy khó thích nghi, nó làm cho mạch máu thắt lại, tim đập nhanh và tăng huyết áp, dẫn đến thương tổn. Nói cách khác, càng lúc ta càng thấy rõ rằng tim chúng ta cực kỳ nhạy cảm với hệ cảm xúc của mình, với trái tim ẩn dụ, nói cách khác.
There is a heart disorder first recognized about two decades ago called "takotsubo cardiomyopathy," or "the broken heart syndrome," in which the heart acutely weakens in response to intense stress or grief, such as after a romantic breakup or the death of a loved one. As these pictures show, the grieving heart in the middle looks very different than the normal heart on the left. It appears stunned and frequently balloons into the distinctive shape of a takotsubo, shown on the right, a Japanese pot with a wide base and a narrow neck. We don't know exactly why this happens, and the syndrome usually resolves within a few weeks. However, in the acute period, it can cause heart failure, life-threatening arrhythmias, even death.
Có một loại bệnh tim lần đầu được phát hiện cách đây hai thập kỷ có tên "bệnh cơ tim takotsubo" hay "hội chứng vỡ tim"; tim suy nghiêm trọng khi phản ứng với căng thẳng hoặc đau buồn tột độ như khi chia tay người yêu hoặc có người thân bị chết. Như trong những ảnh này, quả tim đau buồn ở giữa nhìn rất khác so với trái tim bình thường bên trái. Nó có vẻ bị đơ và thường phồng lên thành hình đặc trưng của một cái bình takotsubo, hình nằm bên phải, một loại bình Nhật có đáy rộng và cổ hẹp. Chúng ta không biết chính xác tại sao lại như vậy, và hội chứng này sẽ hết sau vài tuần. Tuy nhiên, ở giai đoạn trầm trọng, nó có thể gây suy tim, rối loạn nhịp tim nguy hiểm tính mạng, thậm chí tử vong.
For example, the husband of an elderly patient of mine had died recently. She was sad, of course, but accepting. Maybe even a bit relieved. It had been a very long illness; he'd had dementia. But a week after the funeral, she looked at his picture and became tearful. And then she developed chest pain, and with it, came shortness of breath, distended neck veins, a sweaty brow, a noticeable panting as she was sitting up in a chair -- all signs of heart failure. She was admitted to the hospital, where an ultrasound confirmed what we already suspected: her heart had weakened to less than half its normal capacity and had ballooned into the distinctive shape of a takotsubo. But no other tests were amiss, no sign of clogged arteries anywhere. Two weeks later, her emotional state had returned to normal and so, an ultrasound confirmed, had her heart.
Ví dụ, bà lão bệnh nhân của tôi có ông chồng vừa mới mất. Bà ấy buồn, đương nhiên, nhưng chấp nhận. Thậm chí có thể thấy đôi chút nhẹ nhõm. Ông ấy đã mắc bệnh rất lâu; ông bị suy giảm trí nhớ. Nhưng một tuần sau đám tang, bà ấy ngắm di ảnh ông và bắt đầu đẫm lệ. Rồi bà bắt đầu tức ngực, kèm theo đó là khó thở, sưng tĩnh mạch cổ, đổ mồ hôi trán, thở dốc dù đang ngồi trên ghế -- toàn là dấu hiệu của suy tim. Bà được nhập viện, kết quả siêu âm khẳng định điều chúng tôi nghi ngờ: tim của bà đã yếu đi một nửa so với khả năng bình thường và nó đã phình lên thành hình takotsubo đặc trưng. Nhưng các xét nghiệm khác đều ổn, không hề thấy dấu hiệu của tắc động mạch ở đâu hết. Hai tuần sau, trạng thái cảm xúc của bà trở lại bình thường và kết quả siêu âm khẳng định, tim bà cũng thế.
Takotsubo cardiomyopathy has been linked to many stressful situations, including public speaking --
Bệnh cơ tim Takotsubo có liên quan đến nhiều tình huống gây căng thẳng, kể cả việc nói trước đám đông --
(Laughter)
(Tiếng cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
domestic disputes, gambling losses, even a surprise birthday party.
mâu thuẫn gia đình, thua bài bạc, thậm chí cả tiệc sinh nhật bất ngờ.
(Laughter)
(Tiếng cười)
It's even been associated with widespread social upheaval, such as after a natural disaster. For example, in 2004, a massive earthquake devastated a district on the largest island in Japan. More than 60 people were killed, and thousands were injured. On the heels of this catastrophe, researchers found that the incidents of takotsubo cardiomyopathy increased twenty-four-fold in the district one month after the earthquake, compared to a similar period the year before. The residences of these cases closely correlated with the intensity of the tremor. In almost every case, patients lived near the epicenter.
Nó thậm chí còn liên quan đến những biến động xã hội diện rộng như sau các thảm họa tự nhiên. Ví dụ, năm 2004, một trận động đất lớn đã tàn phá một quận thuộc hòn đảo lớn nhất Nhật Bản. Hơn 60 người chết, hàng ngàn người bị thương. Ngay sau thảm họa này, các nhà nghiên cứu thấy rằng số trường hợp mắc bệnh cơ tim takotsubo tăng gấp 24 lần trong quận chỉ sau một tháng trận động đất, so với cùng kỳ năm trước. Nơi ở của những bệnh nhân này có liên quan mật thiết với cường độ chấn động. Đa phần trường hợp, bệnh nhân sống gần tâm chấn.
Interestingly, takotsubo cardiomyopathy has been seen after a happy event, too, but the heart appears to react differently, ballooning in the midportion, for example, and not at the apex. Why different emotional precipitants would result in different cardiac changes remains a mystery. But today, perhaps as an ode to our ancient philosophers, we can say that even if emotions are not contained inside our hearts, the emotional heart overlaps its biological counterpart, in surprising and mysterious ways.
Hay nữa là, bệnh cơ tim takotsubo cũng xảy ra sau các sự kiện vui, nhưng tim có vẻ phản ứng theo cách khác, chẳng hạn, nó phình lên ở giữa chứ không phải ở đỉnh. Lý do vì sao kết tủa cảm xúc khác nhau sẽ làm tim thay đổi khác nhau vẫn còn là bí ẩn. Nhưng ngày nay, có lẽ là lời ngợi ca các triết gia cổ đại, chúng ta có thể nói rằng ngay cả khi cảm xúc không được chứa trong tim, nhưng phần tình cảm của tim lại lấn át phần sinh học của nó, một cách không ngờ và bí ẩn.
Heart syndromes, including sudden death, have long been reported in individuals experiencing intense emotional disturbance or turmoil in their metaphorical hearts. In 1942, the Harvard physiologist Walter Cannon published a paper called "'Voodoo' Death," in which he described cases of death from fright in people who believed they had been cursed, such as by a witch doctor or as a consequence of eating taboo fruit. In many cases, the victim, all hope lost, dropped dead on the spot. What these cases had in common was the victim's absolute belief that there was an external force that could cause their demise, and against which they were powerless to fight. This perceived lack of control, Cannon postulated, resulted in an unmitigated physiological response, in which blood vessels constricted to such a degree that blood volume acutely dropped, blood pressure plummeted, the heart acutely weakened, and massive organ damage resulted from a lack of transported oxygen.
Các hội chứng tim mạch, kể cả đột tử, từ lâu đã thấy xuất hiện ở người trải qua những nhiễu loạn cảm xúc dữ dội hoặc xáo trộn mạnh trong tim ẩn dụ. Năm 1942, nhà sinh lý học Harvard, Walter Cannon, đã có bài viết tựa là "'Voodoo' Death," trong đó ông mô tả các trường hợp tử vong do sợ hãi ở những người tin rằng họ bị nguyền rủa, chẳng hạn bị thầy phù thủy nguyền hoặc do ăn phải trái cây cấm kỵ. Trong nhiều trường hợp, nạn nhân trở nên vô vọng và chết ngay tại chỗ. Những trường hợp này có một điểm chung là nạn nhân đều tin tuyệt đối rằng có một ngoại lực nào đó có thể lấy mạng họ và khiến họ bất lực không thể chống cự. Việc mất kiểm soát nhận thức này, theo Cannon, gây ra một phản ứng sinh lý học không thuyên giảm, các mạch máu sẽ thắt lại đến mức độ mà thể tích máu giảm mạnh, huyết áp hạ đột ngột, tim cực kỳ yếu, và các cơ quan bị tổn thương lớn do thiếu ô-xy cung cấp.
Cannon believed that voodoo deaths were limited to indigenous or "primitive" people. But over the years, these types of deaths have been shown to occur in all manner of modern people, too. Today, death by grief has been seen in spouses and in siblings. Broken hearts are literally and figuratively deadly.
Cannon tin rằng các trường hợp tử vong Voodoo chỉ giới hạn ở dân bản địa hoặc người "nguyên thủy". Nhưng qua nhiều năm, người ta thấy kiểu tử vong này cũng xảy ra ở đủ mọi loại người thời hiện đại. Ngày nay, chết do đau buồn được thấy ở những bạn đời hay anh chị em ruột. "Trái tim tan vỡ" hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng đều nguy hiểm.
These associations hold true even for animals. In a fascinating study in 1980 published in the journal "Science," researchers fed caged rabbits a high-cholesterol diet to study its effect on cardiovascular disease. Surprisingly, they found that some rabbits developed a lot more disease than others, but they couldn't explain why. The rabbits had very similar diet, environment and genetic makeup. They thought it might have something to do with how frequently the technician interacted with the rabbits. So they repeated the study, dividing the rabbits into two groups. Both groups were fed a high-cholesterol diet. But in one group, the rabbits were removed from their cages, held, petted, talked to, played with, and in the other group, the rabbits remained in their cages and were left alone. At one year, on autopsy, the researchers found that the rabbits in the first group, that received human interaction, had 60 percent less aortic disease than rabbits in the other group, despite having similar cholesterol levels, blood pressure and heart rate.
Những mối liên hệ này cũng đúng ngay với động vật. Trong một nghiên cứu thú vị năm 1980 được công bố trên tạp chí Science, các nhà nghiên cứu đã cho thỏ nuôi nhốt ăn chế độ cholesterol cao để nghiên cứu ảnh hưởng của nó đối với bệnh tim mạch. Ngạc nhiên là, họ thấy rằng một số con thỏ phát triển bệnh nhiều hơn những con khác, nhưng họ không biết tại sao. Các con thỏ đều có chế độ ăn, môi trường sống và cấu trúc gen giống nhau. Họ nghĩ rằng nó có thể liên quan đến tần suất tương tác của các kỹ thuật viên với lũ thỏ. Nên họ làm lại nghiên cứu, chia lũ thỏ thành hai nhóm. Cả hai nhóm đều được ăn chế độ cholesterol cao. Nhưng ở nhóm một, thỏ được thả ra khỏi chuồng, được ôm ấp, vuốt ve, trò chuyện, được chơi cùng, còn ở nhóm kia, thỏ vẫn bị nhốt trong chuồng và để một mình. Sau một năm, khi giải phẫu xác, các nhà nghiên cứu thấy rằng thỏ ở trong nhóm một, nhóm được tương tác với con người, mắc bệnh động mạch chủ ít hơn 60% so với thỏ trong nhóm hai, mặc dù có cùng mức cholesterol, huyết áp và nhịp tim.
Today, the care of the heart has become less the province of philosophers, who dwell upon the heart's metaphorical meanings, and more the domain of doctors like me, wielding technologies that even a century ago, because of the heart's exalted status in human culture, were considered taboo. In the process, the heart has been transformed from an almost supernatural object imbued with metaphor and meaning into a machine that can be manipulated and controlled. But this is the key point: these manipulations, we now understand, must be complemented by attention to the emotional life that the heart, for thousands of years, was believed to contain.
Ngày nay, chăm sóc tim mạch ít thuộc phạm vi của các triết gia, những người chỉ dừng lại ở nghĩa bóng của trái tim; mà thuộc nhiều hơn phạm vi của các bác sĩ như tôi, sử dụng những công nghệ mà thậm chí một thế kỷ trước, khi văn hóa con người còn xem trái tim là cao quý, bị cho là cấm kỵ. Trong quá trình đó, trái tim đã thay đổi từ một thứ gần như siêu nhiên mang đầy ẩn dụ và ý nghĩa thành một cỗ máy có thể thao túng và điều khiển được. Nhưng đây là điểm mấu chốt: giờ chúng ta đã hiểu, những thao túng này, phải được bồi dưỡng bằng việc quan tâm đến đời sống tình cảm vốn được tin tồn tại trong tim trong hàng ngàn năm.
Consider, for example, the Lifestyle Heart Trial, published in the British journal "The Lancet" in 1990. Forty-eight patients with moderate or severe coronary disease were randomly assigned to usual care or an intensive lifestyle that included a low-fat vegetarian diet, moderate aerobic exercise, group psychosocial support and stress management advice. The researchers found that the lifestyle patients had a nearly five percent reduction in coronary plaque. Control patients, on the other hand, had five percent more coronary plaque at one year and 28 percent more at five years. They also had nearly double the rate of cardiac events, like heart attacks, coronary bypass surgery and cardiac-related deaths.
Ví dụ, xem xét Thử nghiệm Tim mạch Lối sống, đã được công bố trên tạp chí Anh "The Lancet" năm 1990. 48 bệnh nhân mắc bệnh mạch vành vừa hoặc nặng được chỉ định ngẫu nhiên để chăm sóc thường hay lối sống chuyên sâu bao gồm chế độ ăn chay ít béo, tập thể dục nhịp điệu chừng mực, hỗ trợ tâm lý xã hội theo nhóm, và tư vấn kiểm soát căng thẳng. Các nhà nghiên cứu thấy rằng các bệnh nhân có lối sống đã giảm gần năm phần trăm mảng bám mạch vành. Ngược lại, bệnh nhân điều trị thường có mảng bám mạch vành nhiều hơn năm phần trăm sau một năm và thêm 28 phần trăm sau năm năm. Họ cũng có gần gấp đôi tỷ lệ các biến cố tim, như đau tim, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và tử vong liên quan đến tim.
Now, here's an interesting fact: some patients in the control group adopted diet and exercise plans that were nearly as intense as those in the intensive lifestyle group. Their heart disease still progressed. Diet and exercise alone were not enough to facilitate coronary disease regression. At both one- and five-year follow-ups, stress management was more strongly correlated with reversal of coronary disease than exercise was.
Có một sự thật rất thú vị: vài bệnh nhân nhóm thường đã áp dụng kế hoạch tập thể dục và ăn kiêng gần như khắt khe giống các bệnh nhân trong nhóm lối sống chuyên sâu. Bệnh tim của họ vẫn phát triển. Ăn kiêng và tập luyện chưa đủ để giúp làm giảm bệnh mạch vành. Theo dõi sau một năm và cả sau năm năm, kiểm soát căng thẳng có tương quan mạnh hơn với việc đảo ngược bệnh mạch vành hơn việc tập thể dục.
No doubt, this and similar studies are small, and, of course, correlation does not prove causation. It's certainly possible that stress leads to unhealthy habits, and that's the real reason for the increased cardiovascular risk. But as with the association of smoking and lung cancer, when so many studies show the same thing, and when there are mechanisms to explain a causal relationship, it seems capricious to deny that one probably exists. What many doctors have concluded is what I, too, have learned in my nearly two decades as a heart specialist: the emotional heart intersects with its biological counterpart in surprising and mysterious ways.
Rõ ràng, nghiên cứu này và những cái tương tự đều nhỏ, và dĩ nhiên, tương quan không chứng minh được quan hệ nhân quả. Chỉ có thể chắc chắn rằng căng thẳng dẫn đến những thói quen không lành mạnh, và đó là nguyên nhân thực sự cho nguy cơ mắc bệnh tim ngày càng tăng. Nhưng cũng như sự liên quan của hút thuốc và ung thư phổi, tuy rất nhiều nghiên cứu chỉ ra cùng một điều, và tuy có các cơ chế để giải thích mối quan hệ nhân quả, nhưng có vẻ bất thường nếu phủ nhận rằng có một thứ chắc chắn tồn tại. Điều mà nhiều bác sỹ đã kết luận cũng là điều mà tôi rút ra được trong gần hai thập kỷ làm chuyên gia tim mạch: phần cảm xúc của tim tương giao với phần sinh học của nó theo cách ngạc nhiên và đầy bí ẩn.
And yet, medicine today continues to conceptualize the heart as a machine. This conceptualization has had great benefits. Cardiology, my field, is undoubtedly one of the greatest scientific success stories of the past 100 years. Stents, pacemakers, defibrillators, coronary bypass surgery, heart transplants -- all these things were developed or invented after World War II.
Chưa hết, y học ngày nay vẫn tiếp tục khái niệm trái tim là một cái máy. Khái niệm này có những cái lợi lớn. Tim mạch, lĩnh vực của tôi, chắc chắn là một trong những câu chuyện khoa học thành công lớn nhất trong 100 năm qua. Stent mạch vành, máy tạo nhịp tim, phẫu thuật bắc cầu mạch vành, ghép tim -- tất cả những thứ này được phát triển hoặc phát minh sau Thế chiến II.
However, it's possible that we are approaching the limits of what scientific medicine can do to combat heart disease. Indeed, the rate of decline of cardiovascular mortality has slowed significantly in the past decade. We will need to shift to a new paradigm to continue to make the kind of progress to which we have become accustomed. In this paradigm, psychosocial factors will need to be front and center in how we think about heart problems.
Tuy nhiên, rất có thể rằng chúng ta đang tiến đến giới hạn của những gì y học có thể làm để chống lại bệnh tim. Thật vậy, tốc độ giảm tỷ lệ tử vong do tim mạch đã chậm lại đáng kể trong thập kỷ qua. Chúng ta cần chuyển sang một mô thức mới để tiếp tục tạo ra kiểu tiến bộ mà chúng ta đã quen thuộc. Ở mô thức này, yếu tố tâm lý xã hội sẽ phải là trọng tâm hàng đầu trong cách chúng ta nghĩ về bệnh lý tim mạch.
This is going to be an uphill battle, and it remains a domain that is largely unexplored. The American Heart Association still does not list emotional stress as a key modifiable risk factor for heart disease, perhaps in part because blood cholesterol is so much easier to lower than emotional and social disruption.
Đây sẽ là một cuộc chiến cam go, và vẫn là một lĩnh vực phần lớn chưa được khám phá. Hiệp hội Tim mạch Hoa kỳ vẫn chưa liệt kê căng thẳng cảm xúc là yếu tố nguy cơ khả biến cho các bệnh về tim, có lẽ một phần vì giảm cholesterol trong máu dễ hơn nhiều so với giảm xáo trộn cảm xúc và xã hội.
There is a better way, perhaps, if we recognize that when we say "a broken heart," we are indeed sometimes talking about a real broken heart. We must, must pay more attention to the power and importance of the emotions in taking care of our hearts.
Có lẽ, sẽ có giải pháp tốt hơn, nếu chúng ta nhận ra rằng khi chúng ta nói "trái tim tan vỡ", là thực ra đôi khi chúng ta đang nói đến trái tim tan vỡ thật. Chúng ta phải để ý nhiều hơn tới sức mạnh và tầm quan trọng của các cảm xúc trong việc chăm sóc tim của mình.
Emotional stress, I have learned, is often a matter of life and death.
Tôi rút ra được rằng, căng thẳng cảm xúc, thường là vấn đề sinh tử.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)