Alisa Volkman: So this is where our story begins -- the dramatic moments of the birth of our first son, Declan. Obviously a really profound moment, and it changed our lives in many ways. It also changed our lives in many unexpected ways, and those unexpected ways we later reflected on, that eventually spawned a business idea between the two of us, and a year later, we launched Babble, a website for parents.
Alisa Volkman: câu chuyện của chúng tôi bắt đầu như thế này... những khoảnh khắc chào đời xúc động của con trai đầu lòng của chúng tôi, Declan Tất nhiên đó là một khoảnh khắc rất sâu sắc, và nó thay đổi cuộc sống của chúng tôi theo nhiều cách Nó cũng thay đổi cuộc sống của chúng tôi theo nhiều cách mà chúng tôi không mong đợi, mà chúng tôi sau này ngẫm nghĩ lại thì cuối cùng lại khiến chúng tôi nảy sinh ra một ý tưởng kinh doanh và một năm sau, chúng tôi khai trương Babble, một website dành cho các bậc cha mẹ
Rufus Griscom: Now I think of our story as starting a few years earlier. AV: That's true.
Rufus Griscom: Bây giờ tôi xem câu chuyện của chúng tôi là một sự khởi đầu sớm một vài năm. (AV: Đúng như vậy)
RG: You may remember, we fell head over heels in love.
RG: Các bạn hãy nhớ rằng lúc đó chúng tôi yêu nhau đắm đuối
AV: We did.
AV: Chính thế
RG: We were at the time running a very different kind of website. It was a website called Nerve.com, the tagline of which was "literate smut." It was in theory, and hopefully in practice, a smart online magazine about sex and culture.
RG: Chúng tôi lúc đó đang điều hành một dạng website hoàn toàn khác. Đó là một website tên là Nerve.com câu khẩu hiệu của nó là "Chuyện bậy có văn hóa." Trên lý thuyết, và hy vọng cả trên thực tiễn, đây là một tạp chí trực tuyến thông minh về tình dục và văn hóa.
AV: That spawned a dating site. But you can understand the jokes that we get. Sex begets babies. You follow instructions on Nerve and you should end up on Babble, which we did. And we might launch a geriatric site as our third. We'll see.
AV: Điều đó cho ra đời một website hẹn hò. Nhưng các bạn có thể hiểu người ta hay nói đùa về chúng tôi như thế nào. Tình dục tạo ra những đứa trẻ. Các bạn làm theo những chỉ dẫn trong Nerve và kết cục là các bạn đến với Babble, như chúng tôi vậy. Và chúng tôi rất có thể sẽ khai trương một website thứ ba về tuổi già. Chúng ta sẽ cùng chờ nhé.
RG: But for us, the continuity between Nerve and Babble was not just the life stage thing, which is, of course, relevant, but it was really more about our desire to speak very honestly about subjects that people have difficulty speaking honestly about. It seems to us that when people start dissembling, people start lying about things, that's when it gets really interesting. That's a subject that we want to dive into. And we've been surprised to find, as young parents, that there are almost more taboos around parenting than there are around sex.
RG: Nhưng đối với chúng tôi, sự tiếp nối giữa Nerve và Babble Không chỉ về những giai đoạn trong cuộc sống, tất nhiên là điều này có liên quan mà thực ra sự tiếp nối này thể hiện sự khao khát của chúng tôi được lên tiếng một cách thành thật về những chủ đề mà mọi người thấy khó nói. Đối với chúng tôi, dường như, Khi mọi người bắt đầu muốn giấu giếm, họ bắt đầu nói dối về nhiều thứ, đó là lúc điều này trở nên thực sự thú vị Đó là một chủ đề mà chúng tôi muốn đào sâu. Và chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng, là những bậc phụ huynh trẻ tuổi, Có nhiều điều kiêng kị về việc làm cha me hơn là về tình dục
AV: It's true. So like we said, the early years were really wonderful, but they were also really difficult. And we feel like some of that difficulty was because of this false advertisement around parenting. (Laughter) We subscribed to a lot of magazines, did our homework, but really everywhere you look around, we were surrounded by images like this. And we went into parenting expecting our lives to look like this. The sun was always streaming in, and our children would never be crying. I would always be perfectly coiffed and well rested, and in fact, it was not like that at all.
AV: Đúng vậy. Vậy là như chúng tôi nói, những năm đầu tiên thực sự rất tuyệt vời, nhưng cũng rất khó khăn. Và chúng tôi cảm thấy một số trong những khó khăn đó là kết quả của những quảng cáo sai lầm về việc làm cha mẹ (Cười) Chúng tôi đăng ký mua rất nhiều tạp chí, nghiên cứu rất nhiều, nhưng thật sự, khi bạn nhìn xung quanh, ở đâu cũng thấy những hình ảnh như thế này Và chúng tôi bắt đầu làm cha mẹ kỳ vọng rằng cuộc sống của chúng tôi cũng sẽ trông giống như thế. Mặt trời luôn chiếu rọi và con chúng tôi sẽ không bao giờ khóc lóc. Tôi sẽ luôn luôn trông ngăn nắp gọn gàng và được nghỉ ngơi đầy đủ, và thực tế thì chẳng hề giống như thế một chút nào.
RG: When we lowered the glossy parenting magazine that we were looking at, with these beautiful images, and looked at the scene in our actual living room, it looked a little bit more like this. These are our three sons. And of course, they're not always crying and screaming, but with three boys, there's a decent probability that at least one of them will not be comporting himself exactly as he should.
RG: Khi chúng tôi đặt những quyển tạp chí hào nhoáng về việc làm cha mẹ xuống với những bức ảnh đẹp mà chúng tôi đang xem, và nhìn vào quang cảnh căn phòng chúng tôi ở nó trông giống như thế này. Đây là ba con trai của chúng tôi Và tất nhiên, con chúng tôi không phải lúc nào cúng khóc và la hét, nhưng với ba cậu con trai, có khá nhiều khả năng là ít nhất một trong ba sẽ không xử sự theo cách mà nó nên làm.
AV: Yes, you can see where the disconnect was happening for us. We really felt like what we went in expecting had nothing to do with what we were actually experiencing, and so we decided we really wanted to give it to parents straight. We really wanted to let them understand what the realities of parenting were in an honest way.
AV: Đúng vậy, bạn có thể thấy khi nào thì chúng tôi bị chưng hửng. Chúng tôi thực sự cảm thấy rằng điều mà mình mong đợi chẳng liên quan gì đến những thứ mà chúng tôi thật sự phải trải qua, và vì thế chúng tôi quyết định rằng chúng tôi rất muốn nói thẳng với các vị phụ huynh. Chúng tôi rất muốn cho họ hiểu thực tế của việc làm cha mẹ như thế nào một cách chân thực.
RG: So today, what we would love to do is share with you four parenting taboos. And of course, there are many more than four things you can't say about parenting, but we would like to share with you today four that are particularly relevant for us personally. So the first, taboo number one: you can't say you didn't fall in love with your baby in the very first minute. I remember vividly, sitting there in the hospital. We were in the process of giving birth to our first child.
RG: Vì vậy hôm nay, điều chúng tôi muốn làm là chia sẻ với các bạn 4 điều cấm kị khi làm cha mẹ. Và tất nhiên, có nhiều hơn 4 điều cấm kị mà bạn không thể nói về việc làm cha mẹ, nhưng chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn ngày hôm nay 4 điều cấm kị liên quan cụ thể đến chúng tôi. Điều cầm kị đầu tiền là bạn không thế nói bạn không yêu quý con mình ngay từ giây phút đầu tiên. Tôi nhớ rất rõ khi đang ngồi trong bệnh viện. Chúng tôi đang trong quá trình sinh đứa con đầu lòng.
AV: We, or I?
AV: Chúng tôi, hay là em?
RG: I'm sorry. Misuse of the pronoun. Alisa was very generously in the process of giving birth to our first child -- (AV: Thank you.) -- and I was there with a catcher's mitt. And I was there with my arms open. The nurse was coming at me with this beautiful, beautiful child, and I remember, as she was approaching me, the voices of friends saying, "The moment they put the baby in your hands, you will feel a sense of love that will come over you that is [on] an order of magnitude more powerful than anything you've ever experienced in your entire life." So I was bracing myself for the moment. The baby was coming, and I was ready for this Mack truck of love to just knock me off my feet. And instead, when the baby was placed in my hands, it was an extraordinary moment. This picture is from literally a few seconds after the baby was placed in my hands and I brought him over. And you can see, our eyes were glistening. I was overwhelmed with love and affection for my wife, with deep, deep gratitude that we had what appeared to be a healthy child. And it was also, of course, surreal. I mean, I had to check the tags and make sure. I was incredulous, "Are you sure this is our child?" And this was all quite remarkable. But what I felt towards the child at that moment was deep affection, but nothing like what I feel for him now, five years later.
RG: Anh xin lỗi. Dùng sai đại từ rồi. Alisa đang trong quá trình sinh đứa con đầu lòng của chúng tôi - (AV: Cảm ơn anh.) -- và tôi ở đó, mang theo một cái găng bóng chày. Tôi ở đó với vòng tay mở rộng. Cô y tá tiến lại phía tôi với đứa trẻ xinh đẹp này, và tôi nhớ lại, khi cô ấy đang tiến lại phía tôi, tiếng bạn bè tôi nói, "Khoảnh khắc họ đặt đứa trẻ vào tay bạn, bạn sẽ cảm thấy một cảm giác yêu thương lan tỏa điều này có có sức mạnh hơn bất kì điều gì mà bạn từng chứng kiến trong suốt cuộc đời mình." Vậy nên tôi khích lệ bản thân lúc ấy. Đứa trẻ đang đến, và tôi sắn sàng để cho cái xe tải Mack chở đầy sự yêu thương này xô tôi ngã nhào. Thay vào đó, khi đứa trẻ được đặt vào tay tôi, đó là một giây phút phi thường. Bức ảnh này được chụp vài giây sau đó đứa trẻ được đặt trong tay tôi và chính tôi là người mang nó đến với cuộc đời này Như các bạn thấy, mắt chúng tôi sáng long lanh. Lòng tôi ngập tràn tình yêu giành cho vợ, với lòng biết ơn vô hạn rằng chúng tôi có một đứa trẻ khỏe mạnh. Và điều này tất nhiên rất kì dị. Ý tôi lại tôi phải kiểm trả thẻ đánh dấu cho chắc. Tôi ngờ là "Có chắc đây là con chúng ta không?" Và tất cả những điều này thật kỳ diệu. Nhưng điều tôi cảm thấy đối với đứa trẻ khi đó là sự xúc động sâu sắc, nhưng không hề giống với những gì tôi cảm thấy về con 5 năm sau đó.
And so we've done something here that is heretical. We have charted our love for our child over time. (Laughter) This, as you know, is an act of heresy. You're not allowed to chart love. The reason you're not allowed to chart love is because we think of love as a binary thing. You're either in love, or you're not in love. You love, or you don't love. And I think the reality is that love is a process, and I think the problem with thinking of love as something that's binary is that it causes us to be unduly concerned that love is fraudulent, or inadequate, or what have you. And I think I'm speaking obviously here to the father's experience. But I think a lot of men do go through this sense in the early months, maybe their first year, that their emotional response is inadequate in some fashion.
Và chúng tôi đã làm một vài điều kỳ quặc ở đây. Chúng tôi đã lập biểu đồ cho tình yêu chúng chúng tôi giành cho con mình theo thời gian. (Cười) Đều này, như các bạn biết, là một hành động bất bình thường. Bạn không được phép lập biểu đồ tình yêu. Nguyên nhân bạn không được làm điều đó là vì chúng ta coi tình yêu như một thứ nhị nguyên. Hoặc là bạn đang yêu hay không đang yêu. Bạn yêu hoặc không yêu. Và tôi nghĩ rằng, thực ra tình yêu là một quá trình, và tôi nghĩ vấn đề của việc coi tình yêu là một thứ gì đó nhị nguyên là nó khiến chúng ta lo lắng một cách quá mức rằng tình yêu là giả dối, không thích đáng hoặc bạn đang làm sao đó. Và tôi nghĩ rằng tôi đang nói về kinh nghiệm của người làm cha. Nhưng tôi nghĩ rất nhiều đàn ông cũng đã trải qua cảm giác này trong những tháng đầu tiên, có thể trong năm đầu đời của đứa trẻ, phản ứng xúc cảm của họ nhiều khi không thỏa đáng.
AV: Well, I'm glad Rufus is bringing this up, because you can notice where he dips in the first years where I think I was doing most of the work. But we like to joke, in the first few months of all of our children's lives, this is Uncle Rufus. (Laughter)
AV: Tôi rất mừng vì Rufus đã nói về điều này, bởi vì bạn có thể nhận thấy khi nào anh ấy tụt dốc trong những năm đầu tiên khi đó tôi nghĩ tôi đang làm hầu hết mọi việc. Nhưng chúng tôi thích đùa rằng, trong những tháng đầu đời của các con chúng tôi, đây là ông Chú Rufus. (Cười)
RG: I'm a very affectionate uncle, very affectionate uncle.
RG: Tôi là một ông chú đầy trìu mến đấy.
AV: Yes, and I often joke with Rufus when he comes home that I'm not sure he would actually be able to find our child in a line-up amongst other babies. So I actually threw a pop quiz here onto Rufus.
AV: Phải và tôi thường đùa với Rufus khi anh ấy về nhà là tôi không chắc liệu ảnh ấy có thể nhận mặt con chúng tôi khi cho bé nằm dàn hàng ngang giữa những đứa trẻ khác. Vậy nên tôi thường đưa ra một câu đố bất ngờ cho Rufus.
RG: Uh oh.
RG: Thôi rồi.
AV: I don't want to embarrass him too much. But I am going to give him three seconds.
AV: Tôi không muốn làm anh ấy xấu hổ quá. Nhưng tôi sẽ cho anh ấy 3 giây.
RG: That is not fair. This is a trick question. He's not up there, is he?
RG: Thật không công bằng. Đây là một câu đố mẹo. Con không có trong đó, đúng không?
AV: Our eight-week-old son is somewhere in here, and I want to see if Rufus can actually quickly identify him.
AV: Đứa con trai 8 tuần tuổi của chúng tôi đang nằm đâu đó trong đó, và tôi muốn xem xem Rufus có thể nhanh chóng nhận được mặt con không.
RG: The far left. AV: No!
RG: Đứa ngoài cùng bên trái. AV: Không phải!
(Laughter)
(Cười)
RG: Cruel.
RG: Đồ độc ác.
AV: Nothing more to be said.
AV: Không còn gì để nói
(Laughter)
(Cười)
I'll move on to taboo number two. You can't talk about how lonely having a baby can be. I enjoyed being pregnant. I loved it. I felt incredibly connected to the community around me. I felt like everyone was participating in my pregnancy, all around me, tracking it down till the actual due-date. I felt like I was a vessel of the future of humanity. That continued into the the hospital. It was really exhilarating. I was shower with gifts and flowers and visitors. It was a really wonderful experience, but when I got home, I suddenly felt very disconnected and suddenly shut in and shut out, and I was really surprised by those feelings. I did expect it to be difficult, have sleepless nights, constant feedings, but I did not expect the feelings of isolation and loneliness that I experienced, and I was really surprised that no one had talked to me, that I was going to be feeling this way. And I called my sister whom I'm very close to -- and had three children -- and I asked her, "Why didn't you tell me I was going to be feeling this way, that I was going to have these -- feeling incredibly isolated?" And she said -- I'll never forget -- "It's just not something you want to say to a mother that's having a baby for the first time."
Tôi sẽ nói tiếp điều cấm kỵ số hai. Bạn không thế nói về việc có con sẽ cô đơn như thế nào. Tôi thích mang thai. Tôi thật sự thích. Tôi cảm thấy được kết nối một cách kì diệu với cộng động xung quanh mình. Tôi cảm thấy tất cả mọi người đang tham gia vào quá trình mang thai của mình, tất cả tập trung xung quanh mình, cùng đếm ngược đến thời điềm vượt cạn. Tôi cảm thấy rằng tôi là một con thuyền chở tương lai của loài người. Điều này tiếp tục cả khi tôi vào viện. Điều này thật háo hức. Tôi tắm trong quà tặng và hoa và người đến thăm. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời, nhưng khi tôi về nhà, tôi đột nhiên cảm thấy bị cắt đứt bị cô lập và ruồng bỏ. và tôi rất ngạc nhiên vì những cảm xúc này. Tôi không mong đợi điều này sẽ khó khăn đến vậy, khi có những đêm mất ngủ, cho con ăn liên tục, nhưng tôi không hề mong đợi cảm giác của sự cô lập và cô đơn mà tôi đã trải qua, và tôi thật sự ngạc nhiên rằng chẳng ai nói với tôi rằng tôi sẽ cảm thấy những điều này. Và tôi gọi cho chị gái người rất thân với tôi - và có 3 đứa con - và tôi hỏi chị ấy "Tại sao chị không nói với em rằng em sẽ cảm thấy thế này, rằng em sẽ có những cảm giác bị cô lập khủng khiếp thế này?" Và chị ấy nói - Tôi không bao giờ quên - "Đó không phải là điều bạn muốn nói với một người mẹ đang chuẩn bị có đứa con đầu lòng."
RG: And of course, we think it's precisely what you really should be saying to mothers who have kids for the first time. And that this, of course, one of the themes for us is that we think that candor and brutal honesty is critical to us collectively being great parents. And it's hard not to think that part of what leads to this sense of isolation is our modern world. So Alisa's experience is not isolated. So your 58 percent of mothers surveyed report feelings of loneliness. Of those, 67 percent are most lonely when their kids are zero to five -- probably really zero to two. In the process of preparing this, we looked at how some other cultures around the world deal with this period of time, because here in the Western world, less than 50 percent of us live near our family members, which I think is part of why this is such a tough period. So to take one example among many: in Southern India there's a practice known as jholabhari, in which the pregnant woman, when she's seven or eight months pregnant, moves in with her mother and goes through a series of rituals and ceremonies, give birth and returns home to her nuclear family several months after the child is born. And this is one of many ways that we think other cultures offset this kind of lonely period.
RG: Và tất nhiên, chúng tôi nghĩ đó chính xác là điều bạn cần nói cho các bà mẹ chuẩn bị sinh con đầu lòng. Và rằng điều này, tất nhiên, một trong những chủ điểm cho chúng tôi là điều mà chúng tôi nghĩ rằng sự thẳng thẳng và chân thật dù nghiệt ngã là điều rất quan trọng cho tất cả chúng ta để trở thành những bậc phụ huynh tuyệt với. Và khó mà có thể không nghĩ rằng cảm giác bị cô lập này một phần là do thế giới hiện đại của chúng ta. Vậy nên trải nghiệm của Alisa không phải là duy nhất. Vậy nên 58% những bà mẹ được hỏi đều cho biết đã trải qua cảm giác cô đơn. Trong số họ, 67% cảm thấy cô đơn nhất khi con của mình ở độ tuổi từ 0 đến 5 - có thể thực tế là từ 0 đến 2 tuổi. Trong quá trình chuẩn bị bài trình bày này, chúng tôi đã xem một vài nền văn hóa khác trên thế giới đối phó với khoảng thời gian này như thế nào, bởi vì ở trong thế giới phương Tây này, chưa đến 50% chúng ta sống gần các thành viên khác trong gia đình, điều mà theo tôi là một phần nguyên nhân làm giai đoạn này khó khăn đến vậy. Thế nên hãy xem một trong rất nhiều ví dụ: ở miền Nam Ấn Độ có một phong tục gọi là jholabhari, theo đó, người phụ nữ đang ở cữ, khi mang thai đến 7 hay 8 tháng, chuyển về sống với mẹ đẻ của cô ấy và phải trải qua một loạt các nghi lễ, sinh con và quay về gia đình chính của cô ấy vài tháng sau khi đứa trẻ ra đời. Và đây là một trong số nhiều cách mà chúng tôi nghĩ các nền văn hóa khác giải quyết cho giai đoạn cô đơn này.
AV: So taboo number three: you can't talk about your miscarriage -- but today I'll talk about mine. So after we had Declan, we kind of recalibrated our expectations. We thought we actually could go through this again and thought we knew what we would be up against. And we were grateful that I was able to get pregnant, and I soon learned that we were having a boy, and then when I was five months, we learned that we had lost our child. This is actually the last little image we have of him. And it was obviously a very difficult time -- really painful. As I was working through that mourning process, I was amazed that I didn't want to see anybody. I really wanted to crawl into a hole, and I didn't really know how I was going to work my way back into my surrounding community. And I realize, I think, the way I was feeling that way, is on a really deep gut level, I was feeling a lot of shame and embarrassed, frankly, that, in some respects, I had failed at delivering what I'm genetically engineered to do. And of course, it made me question, if I wasn't able to have another child, what would that mean for my marriage, and just me as a woman. So it was a very difficult time. As I started working through it more, I started climbing out of that hole and talking with other people. I was really amazed by all the stories that started flooding in. People I interacted with daily, worked with, was friends with, family members that I had known a long time, had never shared with me their own stories. And I just remember feeling all these stories came out of the woodwork, and I felt like I happened upon this secret society of women that I now was a part of, which was reassuring and also really concerning. And I think, miscarriage is an invisible loss. There's not really a lot of community support around it. There's really no ceremony, rituals, or rites. And I think, with a death, you have a funeral, you celebrate the life, and there's a lot of community support, and it's something women don't have with miscarriage.
AV: Điều cấm kỵ thứ 3: bạn không thể nói về việc mình bị sảy thai - nhưng hôm nay tôi sẽ nói về chuyện của tôi. Sau khi chúng tôi có Declan, chúng tôi đã phải điều chỉnh lại những kỳ vọng của mình. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể thực sự trải qua những điều này một lần nữa và nghĩ rằng chúng tôi biết sẽ phải đối mặt với điều gì. Và chúng tôi biết ơn rằng tôi có thể mang thai, và ngay sau đó tôi được biết chúng tôi sẽ có một bé trai, và sau đó khi tôi mang thai được 5 tháng, chúng tôi được biết rằng chúng tôi đã mất đứa bé. Đây thật sự là bức ảnh nhỏ bé cuối cùng của đứa trẻ mà chúng tôi có. Và đó rõ ràng là một khoảng thời gian rất khó khăn --- cực kỳ đau đớn. Khi tôi đang trong giai đoạn buồn khổ đó, Tôi ngạc nhiên nhận thấy rằng mình không muốn gặp bất kỳ ai. Tôi chỉ muốn bò vào 1 cái hố, và tôi thật sự không biết làm thế nào mình có thể cố gắng quay trở lại cộng đồng xung quanh mình. Và tôi nhận ra là, tôi nghĩ, cách mà tôi cảm nhận, trong sâu thẳm tim mình, tôi cảm thấy hết sức tủi hổ và, thẳng thắn mà nói, xấu hổ vì, ở một khía cạnh nào đó, tôi đã thất bại trong việc thực hiện một công việc mà tôi đã được lập trình sẵn về mặt di truyền học để làm. Và tất nhiên, điều này khiến tôi đặt câu hỏi, có phải tôi không thể có con lần nữa, điều đó sẽ có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc hôn nhân của tôi, và chính bản thân tôi, với tư cách là một người phụ nữ. Vì vậy đây là một giai đoạn hết sức khó khăn. Khi tôi bắt đầu cố gắng hơn để vượt qua nó, Tôi bắt đầu trèo ra khỏi cái hố và nói chuyện với những người khác. Tôi thật sự ngạc nhiên bởi tất cả những câu chuyện mà tôi được chia sẻ ngày càng nhiều. Những người tôi tiếp xúc hàng ngày, làm việc cùng, bạn của tôi, những thành viên gia đình mà tôi đã quen biết từ lâu, chưa bao giờ chia sẻ với tôi những câu chuyện của họ. Và tôi nhớ mình cảm thấy tất cả những câu chuyện này hết sức mộc mạc, và tôi cảm thấy như tôi bỗng tìm thấy một thế giới bí mật của những người phụ nữ m à giờ đây tôi là một phần trong đó điều này khiến tôi an tâm nhưng cũng rất lo lắng. Và tôi nghĩ rằng, việc sảy thai là một một sự mất mát vô hình. Không có nhiều sự hỗ trợ từ cộng đồng đối với việc này. Không hề có một nghi lễ, nghi thức nào. Và tôi nghĩ rằng, khi một người qua đời, bạn tổ chức một lễ tang, bạn chúc mừng cuộc sống đã qua, và nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ cộng đồng, và đó là một điều mà phụ nữ không có khi họ bị sảy thai.
RG: Which is too bad because, of course, it's a very common and very traumatic experience. Fifteen to 20 percent of all pregnancies result in miscarriage, and I find this astounding. In a survey, 74 percent of women said that miscarriage, they felt, was partly their fault, which is awful. And astoundingly, 22 percent said they would hide a miscarriage from their spouse.
RG: Đây thật là một điều tồi tệ, bởi vì, dĩ nhiên rồi, đây là một trải nghiệm hết sức phổ biến và đau thương. 15-20% số lần mang thai sẽ kết thúc bằng việc sảy thai, và tôi thấy điều này thật đáng sửng sốt. Trong một cuộc điều tra, 74% những người phụ nữ nói rằng họ cảm thấy rằng việc sảy thai một phần là do lỗi của họ, điều này thật kinh khủng. Và thật đáng ngạc nhiên, 22% nói rằng họ sẽ giấu nhẹm việc bị sảy thai không cho chồng mình biết.
So taboo number four: you can't say that your average happiness has declined since having a child. The party line is that every single aspect of my life has just gotten dramatically better ever since I participated in the miracle that is childbirth and family. I'll never forget, I remember vividly to this day, our first son, Declan, was nine months old, and I was sitting there on the couch, and I was reading Daniel Gilbert's wonderful book, "Stumbling on Happiness." And I got about two-thirds of the way through, and there was a chart on the right-hand side -- on the right-hand page -- that we've labeled here "The Most Terrifying Chart Imaginable for a New Parent." This chart is comprised of four completely independent studies. Basically, there's this precipitous drop of marital satisfaction, which is closely aligned, we all know, with broader happiness, that doesn't rise again until your first child goes to college. So I'm sitting here looking at the next two decades of my life, this chasm of happiness that we're driving our proverbial convertible straight into. We were despondent.
Điều tối kỵ thứ tư. Bạn không thể nói rằng mức độ hạnh phúc trung bình của mình đã giảm kể từ khi sinh em bé. Điều tôi phải nói là tất cả các mặt trong cuộc sống của tôi đã trở nên tốt đẹp hơn một cách đáng kể kể từ khi thôi tham gia vào điều kỳ diệu mang tên sinh con và gia đình. Tôi sẽ không bao giờ quên, tôi luôn nhớ về ngày này một cách rõ nét khi con trai đầu lòng của chúng tôi, Declan, được 9 tháng tuổi. và tôi đang ngồi trên ghế sô pha, và đọc quyển sách tuyệt vời của Daniel Gilbert tên là "Bắt gặp hạnh phúc" Và khi tôi đọc được hai phần ba quyển sách, có một biểu đồ ở phía bên phải -- O trang bên phải -- và chúng tôi đã đánh dấu ở đây là "Biều đồ đáng sợ nhất có thể tưởng tượng được cho một người mới làm cha mẹ." Đồ thị này bao gồm bốn nghiên cứu hoàn toàn độc lập. Về cơ bản, có một sự trượt dốc thẳng đứng của sự thỏa mãn với hôn nhân, có liên quan mật thiết, chúng ta đều biết, với hạnh phúc theo nghĩa rộng hơn, và nó không hề tăng lên trở lại cho đến khi đứa con đầu lòng vào đại học. Khi ấy tôi ngồi đó, nghĩ đến hai hai thập kỷ tiếp theo của cuộc đời mình, Vực thẳm của sự hạnh phúc này mà chúng tôi đang tiến thẳng vào trên chiếc xe mui trần của mình mà ai cũng biết Chúng tôi cảm thấy chán nản.
AV: So you can imagine, I mean again, the first few months were difficult, but we'd come out of it, and were really shocked to see this study. So we really wanted to take a deeper look at it in hopes that we would find a silver lining.
AV: Vậy bạn có thể hình dung, ý tôi là hình dung lại, những tháng đầu tiên rất khó khăn, nhưng chúng tôi đã vượt qua và thật sự kinh ngạc khi đọc được nghiên cứu này. Vậy nên chúng tôi rất muốn nghiên cứu nó sâu hơn với hy vọng rằng chúng tôi sẽ tìm thấy một tia hy vọng.
RG: And that's when it's great to be running a website for parents, because we got this incredible reporter to go and interview all the scientists who conducted these four studies. We said, something is wrong here. There's something missing from these studies. It can't possibly be that bad. So Liz Mitchell did a wonderful job with this piece, and she interviewed four scientists, and she also interviewed Daniel Gilbert, and we did indeed find a silver lining. So this is our guess as to what this baseline of average happiness arguably looks like throughout life. Average happiness is, of course, inadequate, because it doesn't speak to the moment-by-moment experience, and so this is what we think it looks like when you layer in moment-to-moment experience. And so we all remember as children, the tiniest little thing -- and we see it on the faces of our children -- the teeniest little thing can just rocket them to these heights of just utter adulation, and then the next teeniest little thing can cause them just to plummet to the depths of despair. And it's just extraordinary to watch, and we remember it ourselves. And then, of course, as you get older, it's almost like age is a form of lithium.
RG: Đó là khi mọi chuyện trở nên tuyệt vời khi điều hành một website giành cho các bậc phụ huynh bởi vì chúng tôi có một phóng viên rất giỏi để đi phỏng vấn tất cả các nhà khoa học đã tiến hành bốn nghiên cứu này. Chúng tôi nói, có điều gì đó bị sai ở đây. Những nghiên cứu này bị thiếu sót gì đó. Nó không thể tồi tệ như thế được. Vì vậy Liz Mitchel đã thật sự tuyệt vời với việc này, và cô ấy phỏng vấn bốn nhà khoa học và kể cả Daniel Gilbert, và chúng tôi thật sự đã tìm ra một tia hy vọng. Và đây là phỏng đoán của chúng tôi về mức độ hạnh phútrung bình này được cho rằng trông giống như mức độ hạnh phúc xuyên suốt cuộc đời chúng ta. Tất nhiên, mức hạnh phúc trung bình là không thỏa đáng, bởi nó không ứng với những trải nghiệm trong từng thời điểm, và đây là đồ thị mà chúng tôi hình dung khi bạn thêm vào những trải nghiệm trong từng thời điểm. Và chúng ta đều nhớ rằng những đứa trẻ, những thứ vặt vãnh tí xíu -- và chúng ta có thể thấy trên gương mặt của con cái chúng ta -- những thứ vặt vãnh tí xíu có thể khiến chúng bay lên tột đỉnh của sự sung sướng và sau đó, những điều vặt vãnh nhỏ nhặt có thể khiến chúng lao thẳng xuống vực sâu của sự đau khổ. Và được chứng kiến những điều này thật kỳ diệu, và chúng ta cũng ghi nhớ chúng. Và sau đó, dĩ nhiên là khi bạn già đi nó giống như tuổi tác là một dạng Liti vậy.
As you get older, you become more stable. And part of what happens, I think, in your '20s and '30s, is you start to learn to hedge your happiness. You start to realize that "Hey, I could go to this live music event and have an utterly transforming experience that will cover my entire body with goosebumps, but it's more likely that I'll feel claustrophobic and I won't be able to get a beer. So I'm not going to go. I've got a good stereo at home. So, I'm not going to go." So your average happiness goes up, but you lose those transcendent moments.
Khi bạn già đi, bạn trở nên ổn định hơn. Và một phần của những việc xảy ra, theo tôi, khi bạn đang ở lứa tuổi 20 - 30, là bạn bắt đầu học cách rào sự hạnh phúc của mình lại. Bạn bắt đầu nhận ra rằng "Này, mình có thể đi xem buổi trình diễn ca nhạc trực tiếp này và có một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ có thể khiến cả người mình nổi da gà, nhưng có vẻ mình sẽ cảm thấy bị ngột ngạt và mình sẽ không thể uống bia. Vậy thì mình sẽ không đi nữa. Mình có một giàn âm thanh tốt ở nhà. Thế thôi, mình không đi nữa." Vậy là mức độ hạnh phúc trung bình của bạn tăng lên, nhưng bạn sẽ mất đi những khoảng khắc phi thường.
AV: Yeah, and then you have your first child, and then you really resubmit yourself to these highs and lows -- the highs being the first steps, the first smile, your child reading to you for the first time -- the lows being, our house, any time from six to seven every night. But you realize you resubmit yourself to losing control in a really wonderful way, which we think provides a lot of meaning to our lives and is quite gratifying.
AV: Đúng vậy, và khi bạn có đứa con đầu lòng, và khi đó bạn lại gặp phải những lúc lên xuống như vậy -- những lúc đồ thị đi lên là khi con bạn có những bước đi đầu tiên, có nụ cười đầu tiên, con bạn đọc cho bạn nghe lần đầu tiên -- những lúc đồ thị đi lên là ngôi nhà của chúng tôi, bất kỳ lúc nào trong khoảng 6 đến 7 giờ mỗi tối. Những bạn nhận ra rằng, bạn sẽ chấp nhận mất kiểm soát theo một cách hết sức tuyệt vời, mà chúng tôi nghĩ rằng có nhiều ý nghĩa với cuộc sống của chúng ta và thật sự khiến ta hài lòng.
RG: And so in effect, we trade average happiness. We trade the sort of security and safety of a certain level of contentment for these transcendent moments. So where does that leave the two of us as a family with our three little boys in the thick of all this? There's another factor in our case. We have violated yet another taboo in our own lives, and this is a bonus taboo.
RG: Và tổng kết lại, chúng ta đánh đổi hạnh phúc trung bình. Chúng ta đánh đổi một dạng an toàn, bình yên của sự thoả mãn ở một mức độ nhất định để lấy những khoảnh khắc phi thường này. Và điều này đã tác động thế nào đến hai chúng tôi với một gia đình với 3 cậu con trai nhỏ khi đang dấn sâu vào tất cả những điều này? Có một yếu tố khác trong trường hợp của chúng tôi. Chúng tôi đã phạm vào một điều tối kỵ khác trong cuộc sống của mình, và đâu là một điều tối kỵ thưởng thêm.
AV: A quick bonus taboo for you, that we should not be working together, especially with three children -- and we are.
AV: Một điều tối kỵ ngắn gọn cho bạn, rằng chúng tôi không nên làm việc chung, đặc biệt là với 3 đứa con -- nhưng chúng tôi đang làm như vậy.
RG: And we had reservations about this on the front end. Everybody knows, you should absolutely not work with your spouse. In fact, when we first went out to raise money to start Babble, the venture capitalists said, "We categorically don't invest in companies founded by husbands and wives, because there's an extra point of failure. It's a bad idea. Don't do it." And we obviously went forward. We did. We raised the money, and we're thrilled that we did, because in this phase of one's life, the incredibly scarce resource is time. And if you're really passionate about what you do every day -- which we are -- and you're also passionate about your relationship, this is the only way we know how to do it. And so the final question that we would ask is: can we collectively bend that happiness chart upwards? It's great that we have these transcendent moments of joy, but they're sometimes pretty quick. And so how about that average baseline of happiness? Can we move that up a little bit?
RG: Và chúng tôi đã nói về điều này ở ngay lúc đầu. Tất cả mọi người đều biết rằng, bạn tuyệt đối không nên hợp tác cùng người bạn đời của mình. Trên thực tế, khi chúng tôi bắt đầu đi kêu gọi tài trợ để mở Babble, những nhà đầu tư mạo hiểm nói, "Chúng tôi dứt khoát không đầu tư cho những công ty được thành lập bởi những cặp vợ chồng, bởi vì có rủi ro thất bại cao hơn. Đây là một ý tưởng tồi. Đừng thực hiện nó." Và rõ ràng là chúng tôi vẫn tiến hành. Chúng tôi đã làm. Chúng tôi huy động vốn, và chúng tôi rất hồi hộp vì mình đã tiến hành, bởi vì trong giai đoạn này của cuộc đời mỗi người, chúng tôi rất hạn chế về mặt quỹ thời gian. Và nếu bạn thật sự đam mê về việc gì đó mà bạn làm hàng ngày -- như chúng tôi -- và bạn cũng đầy nhiệt huyết với mối quan hệ của mình, đây là cách duy nhất mà chúng tôi biết để làm được điều này. Và vì vậy câu hỏi cuối cùng mà chúng tôi hỏi là: chúng ta có thể bẻ ngược biểu đồ hạnh phúc cùng với nhau được không? Thật tuyệt khi chúng ta có những giây phút sung sướng phi thường này những đôi khi chúng diễn ra quá nhanh. Vậy còn đường hạnh phúc trung bình thì sao? Liệu chúng ta có thể tăng nó lên một chút không?
AV: And we kind of feel that the happiness gap, which we talked about, is really the result of walking into parenting -- and really any long-term partnership for that matter -- with the wrong expectations. And if you have the right expectations and expectation management, we feel like it's going to be a pretty gratifying experience.
AV: Và chúng tôi có cảm giác rằng, khoảng cách hạnh phúc, mà chúng tôi nói tới, thực sự là kết quả của việc bắt đầu làm cha mẹ, và bước vào bất kỳ một mối quan hệ lâu dài nào để đi đến điều đó -- với những kỳ vọng sai lầm. Và nếu bạn có những kỳ vọng đúng đắn và quản lý kỳ vọng một cách đúng đắn, chúng tôi cảm thấy rằng đó sẽ là một trải nghiệm rất đáng phấn khởi.
RG: And so this is what -- And we think that a lot of parents, when you get in there -- in our case anyway -- you pack your bags for a trip to Europe, and you're really excited to go. Get out of the airplane, it turns out you're trekking in Nepal. And trekking in Nepal is an extraordinary experience, particularly if you pack your bags properly and you know what you're getting in for and you're psyched. So the point of all this for us today is not just hopefully honesty for the sake of honesty, but a hope that by being more honest and candid about these experiences, that we can all collectively bend that happiness baseline up a little bit.
RG: Và đây là điều mà -- Và chúng tôi nghĩ là có rất nhiều bậc cha mẹ, khi bạn đang trong quá trình đó - trong trường hợp của chúng tôi -- bạn xếp hành lý cho một chuyến du lịch đến châu Âu và bạn rất háo hức. Khi ra khỏi máy bay, hóa ra bạn đang du lịch bụi ở Nepal Và du lịch bụi ở Nepal là một trải nghiệm kỳ thú, đặc biệt khi bạn xếp hành lý đúng cách và bạn biết bạn sẽ đối mặt những điều gì và bạn được chuẩn bị tâm lý. Vậy mấu chốt của điều này cho chúng ta ngày hôm nay không chỉ là thành thật chỉ để thành thật, mà còn là hy vọng rằng thành thật và chân thành hơn về những trải nghiệm trên, giúp tất cả chúng ta bẻ ngược đồ thị hành phúc của chúng ta lên một chút.
RG + AV: Thank you.
RG + AV: Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)