The question today is not: Why did we invade Afghanistan? The question is: why are we still in Afghanistan one decade later? Why are we spending $135 billion? Why have we got 130,000 troops on the ground? Why were more people killed last month than in any preceding month of this conflict? How has this happened? The last 20 years has been the age of intervention, and Afghanistan is simply one act in a five-act tragedy. We came out of the end of the Cold War in despair. We faced Rwanda; we faced Bosnia, and then we rediscovered our confidence. In the third act, we went into Bosnia and Kosovo and we seemed to succeed. In the fourth act, with our hubris, our overconfidence developing, we invaded Iraq and Afghanistan, and in the fifth act, we plunged into a humiliating mess.
Câu hỏi ngày hôm nay không phải là: Tại sao chúng ta xâm lược Afghanistan? Câu hỏi là: Tại sao chúng ta vẫn ở Afghanistan sau một thập niên? Tại sao chúng ta chi 135 tỷ dollar? Tại sao chúng ta có 130,000 quân lính trên chiến trận? Tại sao nhiều người bị sát hại hơn trong tháng trước so với bất kỳ tháng nào trước đó của cuộc xung đột này? Làm thế nào chuyện này lại xảy ra? 20 năm qua đã trở thành thời đại của sự can thiệp, và Afghanistan chỉ là một hồi đơn giản trong một bi kịch năm hồi. Chúng ta bước ra khỏi cuộc Chiến tranh Lạnh trong nỗi tuyệt vọng. Chúng ta đối đầu với Rwanda; với Bosnia; và tìm lại được sự tự tin của mình. Trong hồi thứ ba, chúng ta tới Bosnia và Kosovo và có vẻ như là chúng ta đã thành công. Trong hồi thứ tư, với sự ngạo mạn, và với sự tự tin thái quá đang lớn dần lên, chúng ta xâm lược Iraq và Afghanistan. Và trong hồi thứ năm, chúng ta ngập sâu trong một mớ lộn xộn đáng xấu hổ.
So the question is: What are we doing? Why are we still stuck in Afghanistan? And the answer, of course, that we keep being given is as follows: we're told that we went into Afghanistan because of 9/11, and that we remain there because the Taliban poses an existential threat to global security. In the words of President Obama, "If the Taliban take over again, they will invite back Al-Qaeda, who will try to kill as many of our people as they possibly can." The story that we're told is that there was a "light footprint" initially -- in other words, that we ended up in a situation where we didn't have enough troops, we didn't have enough resources, that Afghans were frustrated -- they felt there wasn't enough progress and economic development and security, and therefore the Taliban came back -- that we responded in 2005 and 2006 with troop deployments, but we still didn't put enough troops on the ground. And that it wasn't until 2009, when President Obama signed off on a surge, that we finally had, in the words of Secretary Clinton, "the strategy, the leadership and the resources." So, as the president now reassures us, we are on track to achieve our goals.
Vậy câu hỏi là: Chúng ta đang làm gì? Tại sao chúng ta vẫn bế tắc ở Afghanistan? Và câu trả lời, tất nhiên, mà chúng ta vẫn cứ nhận được là như sau: Chúng ta được bảo rằng chúng ta tới Afghanistan bởi vụ khủng bố 11/9, và chúng ta ở đó bởi vì quân phiến loạn Taliban là một mối đe dọa tồn tại cho an ninh toàn cầu. Theo lời tổng thống Obama, "Nếu quân Taliban trở lại nắm quyền, chúng sẽ kéo theo quân khủng bố Al-Qaeda, những người sẽ cố gắng giết càng nhiều người của chúng ta càng tốt." Câu chuyện chúng ta được nghe kể là có một sự in dấu nhẹ nhàng ban đầu -- theo một cách nói khác, chúng ta mắc vào một tình huống không có đủ quân, không có đủ trang thiết bị, và người Afghan đã chán nản. Họ không cảm thấy có chút tiến triển nào cũng như sự phát triển kinh tế và an ninh, và vì vậy quân Taliba trở lại. Chúng ta đáp trả vào năm 2005 và 2006 bằng quân tiếp viện, nhưng chúng ta vẫn chưa đưa đủ quân lính lên chiến trận. Và chỉ tới năm 2009, khi tổng thổng Obama cho phép tăng viện, chúng ta mới có đủ, theo lời của Clinton, "chiến thuật, sự lãnh đạo và nguồn lực," vì thế, như tổng thống cam đoan lại với chúng ta, chúng ta đang tiến dần tới việc thực hiện mục tiêu của mình.
All of this is wrong. Every one of those statements is wrong. Afghanistan does not pose an existential threat to global security. It is extremely unlikely the Taliban would ever be able to take over the country -- extremely unlikely they'd be able to seize Kabul. They simply don't have a conventional military option. And even if they were able to do so, even if I'm wrong, it's extremely unlikely the Taliban would invite back Al-Qaeda. From the Taliban's point of view, that was their number one mistake last time. If they hadn't invited back Al-Qaeda, they would still be in power today.
Tất cả đều sai. Từng câu khẳng định đó đều sai. Afghanistan không hề đưa ra một đe dọa tồn tại tới an ninh toàn cầu. Và cũng vô cùng khó xảy ra chuyện quân Taliban có thể giành lại chính quyền -- vô cùng khó để chúng có thể chiếm giữ Kabul. Họ đơn giản là không có lựa chọn quân sự thông thường. Và nếu ngay cả khi họ có thể làm vậy, ngay cả khi tôi sai, cũng vô cùng khó xảy ra trường hợp quân Taliban sẽ mời gọi quân khủng bố Al-Qaeda. Từ góc nhìn của quân Taliban, đó là sai lầm lớn nhất của họ lần trước đó. Nếu họ đã không mời Al-Qaeda trở lại, họ vẫn nắm quyền tới ngày hôm nay.
And even if I'm wrong about those two things, even if they were able to take back the country, even if they were to invite back Al-Qaeda, it's extremely unlikely that Al-Qaeda would significantly enhance its ability to harm the United States or harm Europe. Because this isn't the 1990s anymore. If the Al-Qaeda base was to be established near Ghazni, we would hit them very hard, and it would be very, very difficult for the Taliban to protect them.
Và ngay cả khi tôi nhầm lẫn về hai điều đó, ngay cả khi họ có thể chiếm lại đất nước, ngay cả khi họ mời quân khủng bố quay trở lại, cũng vô cùng khó khăn để Al-Qaeda có thể tăng cường mạnh mẽ khả năng gây tổn hại tới nước Mỹ hoặc Châu Âu. Bởi đây không còn là những năm 90 nữa. Nếu căn cứ của Al-Qaeda được đóng gần Ghazni, chúng ta có thể tấn công mạnh vào đó, và sẽ rất khó khăn để quân Taliban có thể bảo vệ chúng.
Furthermore, it's simply not true that what went wrong in Afghanistan is the light footprint. In my experience, in fact, the light footprint was extremely helpful. And these troops that we brought in -- it's a great picture of David Beckham there on the sub-machine gun -- made the situation worse, not better. When I walked across Afghanistan in the winter of 2001-2002, what I saw was scenes like this. A girl, if you're lucky, in the corner of a dark room -- lucky to be able to look at the Koran. But in those early days when we're told we didn't have enough troops and enough resources, we made a lot of progress in Afghanistan. Within a few months, there were two and a half million more girls in school. In Sangin where I was sick in 2002, the nearest health clinic was within three days walk. Today, there are 14 health clinics in that area alone. There was amazing improvements. We went from almost no Afghans having mobile telephones during the Taliban to a situation where, almost overnight, three million Afghans had mobile telephones. And we had progress in the free media. We had progress in elections -- all of this with the so-called light footprint.
Hơn nữa, nó không chỉ đơn giản rằng sai lầm tại Afghanistan là bước in dấu nhẹ nhàng. Theo kinh nghiệm của tôi, thực ra là, bước in dấu nhẹ nhàng cực kỳ có lợi. Và những quân lính chúng ta mang thêm vào -- là hình ảnh chuẩn xác về David Beckham trên những khẩu súng máy chìm -- làm tình hình trở nên tồi tệ hơn, chứ không tốt hơn. Khi tôi đặt chân tới Afghanistan vào mùa đông 2001 - 2002, tôi đã nhìn thấy những quang cảnh như thế này. Một cô bé, nếu may mắn, trong góc phòng tối -- may mắn có thể đọc được kinh Koran. Nhưng trong những ngày đầu đó khi chúng ta được bảo là chúng ta không có đủ quân lực, chúng ta đã tạo ra nhiều tiến triển ở Afghanistan. Trong vài tháng, đã có thêm hơn 2,5 triệu bé gái được đến trường. Tại Sangin nơi tôi bị ốm vào năm 2002, phòng khám gần nhất cách ba ngày đi bộ. Ngày nay, có 14 phòng khám chỉ riêng trong khu vực đó. Đã có những tiến bộ tuyệt vời. Chúng ta từ chỗ hầu như không có người Afghan nào có điện thoại di động dưới thời Taliban tới một tình huống là, gần như sau một đêm, 3 triệu người Afghan có di động. Và chúng ta đã có những tiến bộ về truyền thông tự do. Chúng ta có những tiến bộ về bầu cử -- tất cả đi kèm với thứ mà ta gọi là "bước in dấu nhẹ nhàng".
But when we began to bring more money, when we began to invest more resources, things got worse, not better. How? Well first see, if you put 125 billion dollars a year into a country like Afghanistan where the entire revenue of the Afghan state is one billion dollars a year, you drown everything. It's not simply corruption and waste that you create; you essentially replace the priorities of the Afghan government, the elected Afghan government, with the micromanaging tendencies of foreigners on short tours with their own priorities. And the same is true for the troops.
Nhưng khi chúng ta bắt đầu đổ thêm nhiều tiền, khi chúng ta bắt đầu đầu tư vào nhiều trang thiết bị hơn, mọi thứ trở nên tồi tệ chứ không tốt hơn. Sao vậy? Đầu tiên hãy nhìn vào việc nếu bạn đổ 125 tỉ dollar một năm vào một đất nước như Afghanistan nơi mà tổng thu nhập quốc dân là 1 tỉ dollar 1 năm, bạn sẽ nhấn chìm mọi thứ. Nó không chỉ đơn thuần là sự tham nhũng và lãng phí mà bạn tạo nên; bạn đã về bản chất thay thế những ưu tiên của chính phủ Afghanistan, chính phủ có được nhờ bầu cử, với những xu hướng quản lý vi mô của khách nước ngoài trong các chuyến du lịch ngắn ngày với những ưu tiên của riêng họ. Và điều tương tự xảy ra với quân lính.
When I walked across Afghanistan, I stayed with people like this. This is Commandant Haji Malem Mohsin Khan of Kamenj. Commandant Haji Malem Mohsin Khan of Kamenj was a great host. He was very generous, like many of the Afghans I stayed with. But he was also considerably more conservative, considerably more anti-foreign, considerably more Islamist than we'd like to acknowledge. This man, for example, Mullah Mustafa, tried to shoot me. And the reason I'm looking a little bit perplexed in this photograph is I was somewhat frightened, and I was too afraid on this occasion to ask him, having run for an hour through the desert and taken refuge in this house, why he had turned up and wanted to have his photograph taken with me. But 18 months later, I asked him why he had tried to shoot me. And Mullah Mustafa -- he's the man with the pen and paper -- explained that the man sitting immediately to the left as you look at the photograph, Nadir Shah had bet him that he couldn't hit me. Now this is not to say Afghanistan is a place full of people like Mullah Mustafa. It's not; it's a wonderful place full of incredible energy and intelligence. But it is a place where the putting-in of the troops has increased the violence rather than decreased it.
Khi tôi tới Afghanistan, tôi đã ở với những người như thế này. Đây là Sĩ quan Haji Malem Mohsin Khan của Kamenji. Sĩ quan Haji Malem Mohsin Khan của Kamenji là một vị chủ nhà tuyệt vời. Ông ấy rất rộng lượng như rất nhiều người Afghan tôi đã từng ở cùng. Nhưng ông ấy cũng khá bảo thủ, khá bài ngoại, và mang đậm tinh thần Hồi giáo hơn là chúng ta muốn biết. Ví dụ như người này, Mullah Mustafa, đã cố bắn tôi. Và lý do tôi trông tôi hơi bối rối trong tấm ảnh này là tôi đã hơi e sợ, và tôi đã quá e sợ trong trường hợp này để hỏi anh ta, người đã chạy một tiếng qua sa mạc tới tị nạn ở ngôi nhà này, tại sao anh ta lại đến đó và muốn chụp bức ảnh này cùng tôi. Nhưng 18 tháng sau, tôi đã hỏi anh ta tại sao anh ta lại muốn bắn tôi. Và Mullag Mustafa -- người đàn ông cầm giấy bút -- giải thích rằng người đàn ông đứng ngay phía bên trái tấm hình, Nadir Shah đã cược rằng anh ta không thể đánh tôi. Ý tôi không phải là Afghanistan là nơi có đầy những người như Mullah Mustafa. Không hề; đó là một nơi tuyệt vời căng tràn sức sống và sự thông minh đến khó tin. Nhưng đó là một nơi mà sự tăng viện binh đã làm tăng sự bạo lực, hơn là làm giảm nó.
2005, Anthony Fitzherbert, an agricultural engineer, could travel through Helmand, could stay in Nad Ali, Sangin and Ghoresh, which are now the names of villages where fighting is taking place. Today, he could never do that. So the idea that we deployed the troops to respond to the Taliban insurgency is mistaken. Rather than preceding the insurgency, the Taliban followed the troop deployment, and as far as I'm concerned, the troop deployment caused their return.
Vào năm 2005, Anthony Fitzherbert, một kỹ sư nông nghiệp, có thể du hành qua Helmand, có thể ở Nad Ali, Sangin và Ghoresh, những ngôi làng mà giờ đang diễn ra các cuộc tranh đấu. Ngày nay, anh ấy sẽ không thể làm được điều đó. Vậy tôi cho rằng việc chúng ta thêm viện binh để đáp trả cho sự nổi loạn của Taliban là sai lầm. Thay vì rút lui, quân Taliban nối đuôi quân tiếp viện. Như tôi để ý thấy, viện binh khiến họ quay trở lại.
Now is this a new idea? No, there have been any number of people saying this over the last seven years. I ran a center at Harvard from 2008 to 2010, and there were people like Michael Semple there who speak Afghan languages fluently, who've traveled to almost every district in the country. Andrew Wilder, for example, born on the Pakistan-Iranian border, served his whole life in Pakistan and Afghanistan. Paul Fishstein who began working there in 1978 -- worked for Save the Children, ran the Afghan research and evaluation unit. These are people who were able to say consistently that the increase in development aid was making Afghanistan less secure, not more secure -- that the counter-insurgency strategy was not working and would not work. And yet, nobody listened to them. Instead, there was a litany of astonishing optimism.
Đây có phải là một quan điểm mới không? Không, đã có rất nhiều người khẳng định như vậy suốt bảy năm qua. Tôi điều hành một trung tâm ở Harvard từ năm 2008 đến 2010. Và đã có những người như Michael Semple ở đó những người nói tiếng Afghan trôi chảy, những người đã đặt chân tới hầu hết các thành phố trên đất nước. Ví như Andrew Wilder, được sinh ra ở khu vực biên giới Pakistan - Iran, phục vụ cả đời tại Pakistan và Afghanistan. Paul Fishstein người bắt đầu làm việc tại đó vào năm 1978 -- làm việc cho "Save the Children" (Hội bảo vệ trẻ em) điều hành đơn vị nghiên cứu và đánh giá khu vực Afghan. Đó là những người có thể khẳng định chắc chắn rằng sự tăng viện đã khiến Afghanistan trở nên bất ổn hơn chứ không phải ngược lại -- và chiến thuật chống phản loạn đã không có tác dụng và sẽ không có tác dụng. Dù vậy, chẳng ai nghe họ. Thay vào đó, lại là một sự lạc quan đáng ngạc nhiên.
Beginning in 2004, every general came in saying, "I've inherited a dismal situation, but finally I have the right resources and the correct strategy, which will deliver," in General Barno's word in 2004, the "decisive year." Well guess what? It didn't. But it wasn't sufficient to prevent General Abuzaid saying that he had the strategy and the resources to deliver, in 2005, the "decisive year." Or General David Richards to come in 2006 and say he had the strategy and the resources to deliver the "crunch year." Or in 2007, the Norwegian deputy foreign minister, Espen Eide, to say that that would deliver the "decisive year." Or in 2008, Major General Champoux to come in and say he would deliver the "decisive year." Or in 2009, my great friend, General Stanley McChrystal, who said that he was "knee-deep in the decisive year." Or in 2010, the U.K. foreign secretary, David Miliband, who said that at last we would deliver the "decisive year." And you'll be delighted to hear in 2011, today, that Guido Westerwelle, the German foreign minister, assures us that we are in the "decisive year."
Từ năm 2004, các tướng quân đều nói, "Tôi đã nhận (từ người tiền nhiệm) một tình trạng hỗn loạn, nhưng cuối cùng tôi có những nguồn lực cần thiết và chiến thuật đúng đắn, sẽ có kết quả như mong đợi." theo lời tướng Barno vào năm 2004, "năm quyết định". Đoán thử xem nào? Kết quả không như mong đợi. Nhưng như vậy là chưa đủ để ngăn tướng Abuzaid nói rằng ông có chiến thuật và nguồn lực để đem đến kết quả, vào năm 2005, "năm quyết định" Hoặc tướng David Richards khi nhậm chức vào năm 2006, nói rằng ông có chiến thuật và nguồn lực để đem lại "năm vang dội" Hoặc vào năm 2007, thứ trưởng bộ ngoại giao Na Uy, Espen Eide, cho rằng sẽ đem tới "năm quyết định" Hoặc vào năm 2008, Đại tướng Champoux xuất hiện và nói ông sẽ đem tới "năm quyết định" Hoặc vào năm 2009, người bạn tốt của tôi, tướng Stanley McChrystal, nói rằng ông đã "ngập sâu tới đầu gối trong năm quyết định." hoặc vào năm 2010, thư ký ngoại giao Anh, David Miliband, người nói rằng cuối cùng chúng ta sẽ mang tới "năm quyết định." Và các bạn sẽ rất hài lòng khi nghe rằng vào năm 2011, năm nay, Guido Westerwelle, bộ trưởng ngoại giao của Đức, bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta đang có "năm quyết định."
(Applause)
(Vỗ tay)
How do we allow any of this to happen? Well the answer, of course, is, if you spend 125 billion or 130 billion dollars a year in a country, you co-opt almost everybody. Even the aid agencies, who begin to receive an enormous amount of money from the U.S. and the European governments to build schools and clinics, are somewhat disinclined to challenge the idea that Afghanistan is an existential threat to global security. They're worried, in other words, that if anybody believes that it wasn't such a threat -- Oxfam, Save the Children wouldn't get the money to build their hospitals and schools. It's also very difficult to confront a general with medals on his chest. It's very difficult for a politician, because you're afraid that many lives have been lost in vain. You feel deep, deep guilt. You exaggerate your fears, and you're terrified about the humiliation of defeat.
Làm thế nào mà chúng ta cho phép những chuyện này xảy ra? Vâng câu trả lời, tất nhiên, là, nếu bạn chi 125 hoặc 130 tỉ dollar một năm ở một nước, bạn thu phục hầu hết mọi người, kể cả các đại diện cứu trợ -- những người bắt đầu nhận những khoản tiền kếch xù từ các chính phủ Mỹ và Châu Âu để xây trường học và trạm xá -- đã hầu như mất đi xu thế thách thức quan niệm rằng Afghanistan là một mối đe dọa tồn tại đối với an ninh toàn cầu. Họ lo lắng là, theo cách khác, rằng nếu bất cứ ai tin rằng nó không phải là mối đe dọa -- Oxfam, Save the Children -- sẽ không được nhận tiền để xây các bệnh viện và trường học. Nó cũng rất khó cho một tướng với huân chương trên ngực áo. Khó cho một chính trị gia, vì bạn lo rằng nhiều sinh mạng đã mất trong vô vọng. Bạn cảm thấy tội lỗi sâu sắc. Bạn phóng đại các nỗi sợ hãi. Và bạn hoảng loạn về nỗi nhục nhã của việc bị đánh bại.
What is the solution to this? Well the solution to this is we need to find a way that people like Michael Semple, or those other people, who are telling the truth, who know the country, who've spent 30 years on the ground -- and most importantly of all, the missing component of this -- Afghans themselves, who understand what is going on. We need to somehow get their message to the policymakers. And this is very difficult to do because of our structures.
Vậy đâu là giải pháp cho vấn đề này? Vâng giải pháp cho vấn đề này là chúng ta cần tìm một con đường để những người như Michael Semple và những người khác, những người đang nói sự thật, những người hiểu rõ đất nước ấy, những người đã dành 30 năm trên mảnh đất ấy -- và hơn hết thảy, thành phần bị bỏ sót -- chính những người Afghan, những người hiểu rõ điều đang xảy ra. Chúng ta cần bằng một cách nào đó đưa thông điệp của họ tới với những người hoạch định chính sách. Và điều này rất khó thực hiện bởi cấu trúc tư pháp của chúng ta.
The first thing we need to change is the structures of our government. Very, very sadly, our foreign services, the United Nations, the military in these countries have very little idea of what's going on. The average British soldier is on a tour of only six months; Italian soldiers, on tours of four months; the American military, on tours of 12 months. Diplomats are locked in embassy compounds. When they go out, they travel in these curious armored vehicles with these somewhat threatening security teams who ready 24 hours in advance who say you can only stay on the ground for an hour.
Điều đầu tiên chúng ta cần thay đổi là cấu trúc của chính phủ của ta. Rất, rất đáng buồn, các ban đối ngoại, Liên Hợp Quốc, quân đội ở những nước đó biết rất ít về điều đang xảy ra. Một lính Anh trung bình chỉ tới diễu qua trong sáu tháng; lính Ý, bốn tháng; quân đội Mỹ, 12 tháng. Các quan hệ ngoại giao chỉ gói gọn trong hệ thống các đại sứ quán. Khi họ ra ngoài, họ du hành trong những chiếc xe bóc sắt bí ẩn với những đội vệ sĩ đôi chút đáng sợ những người sẵn sàng từ 24 giờ trước đó những người nói bạn chỉ có thể đứng trên mặt đất trong 1 giờ đồng hồ
In the British embassy in Afghanistan in 2008, an embassy of 350 people, there were only three people who could speak Dari, the main language of Afghanistan, at a decent level. And there was not a single Pashto speaker. In the Afghan section in London responsible for governing Afghan policy on the ground, I was told last year that there was not a single staff member of the foreign office in that section who had ever served on a posting in Afghanistan. So we need to change that institutional culture. And I could make the same points about the United States and the United Nations.
Trong đại sứ quán Anh ở Afghanistan trong năm 2008, gồm 350 người, chỉ có 3 người có thể nói tiếng Dari, ngôn ngữ chính của Afghanistan, ở trình độ chấp nhận được. Và không có một người nói tiếng Pashto nào. Ở phân khu Afghan ở London chịu trách nhiệm quản lý chính sách về Afghan, tôi được kể vào năm ngoái rằng không có một thành viên nào của văn phòng đối ngoại ở khu vực đó từng phục vụ tại một trạm nào ở Afghanistan. Vì thế chúng ta cần thay đổi văn hóa quan liêu ấy. Và tôi có thể đưa ra quan điểm tương tự về nước Mỹ và Liên Hợp Quốc.
Secondly, we need to aim off of the optimism of the generals. We need to make sure that we're a little bit suspicious, that we understand that optimism is in the DNA of the military, that we don't respond to it with quite as much alacrity. And thirdly, we need to have some humility. We need to begin from the position that our knowledge, our power, our legitimacy is limited. This doesn't mean that intervention around the world is a disaster. It isn't.
Điều thứ hai, chúng ta cần kéo sự lạc quan của các tướng quân xuống. Chúng ta cần bảo đảm là chúng ta hơi hoài nghi một chút, rằng chúng ta tin rằng sự lạc quan có trong DNA của quân đội, rằng chúng ta không đáp trả nó với sự sốt sắng như hiện tại. Và thứ ba, chúng ta cần có sự nhún nhường. Chúng ta cần bắt đầu từ vị trí mà sự hiểu biết và quyền lực và tính pháp lý của chúng ta bị giới hạn. Điều này không có nghĩa là sự can thiệp diễn ra quanh thế giới là một thảm họa. Không hề.
Bosnia and Kosovo were signal successes, great successes. Today when you go to Bosnia it is almost impossible to believe that what we saw in the early 1990s happened. It's almost impossible to believe the progress we've made since 1994. Refugee return, which the United Nations High Commission for Refugees thought would be extremely unlikely, has largely happened. A million properties have been returned. Borders between the Bosniak territory and the Bosnian-Serb territory have calmed down. The national army has shrunk. The crime rates in Bosnia today are lower than they are in Sweden.
Bosnia và Kosovo là những thành công ghi dấu, những thành công to lớn. Ngày nay khi bạn tới Bosnia gần như là không thể tin được rằng điều chúng ta thấy vào đầu thập niên 90 đã xảy ra. Gần như không thể tin được những tiến triển chúng ta tạo ra từ năm 1994. Dân tị nạn quay trở lại, điều mà Ủy ban Cao cấp về Tị nạn của Liên hiệp quốc cho rằng không thể xảy ra, đã xảy ra trên diện rộng. Một triệu bất động sản được trao trả. Biên giới giữa lãnh thỗ người Bosnia theo đạo Hồi và lãnh thổ người Bosnia Serbi đã bình ổn. Quy mô quân đội quốc gia đã thu hẹp. Tỉ lệ tội phạm ở Bosnia ngày nay còn thấp hơn ở Thụy Điển.
This has been done by an incredible, principled effort by the international community, and, of course, above all, by Bosnians themselves. But you need to look at context. And this is what we've lost in Afghanistan and Iraq. You need to understand that in those places what really mattered was, firstly, the role of Tudman and Milosevic in coming to the agreement, and then the fact those men went, that the regional situation improved, that the European Union could offer Bosnia something extraordinary: the chance to be part of a new thing, a new club, a chance to join something bigger.
Điều này đã được thực hiện nhờ một cố gắng đến khó tin và đầy nghiêm khắc của cộng đồng quốc tế, và, tất nhiên, trên hết, của chính người Bosnia. Nhưng chúng ta cần nhìn vào hoàn cảnh. Và đây là những gì chúng ta đã mất ở Afghan và Iraq. Bạn cần hiểu rằng ở những nơi đó điều thực sự có giá trị là, đầu tiên, vai trò của Tudman và Milosevic trong việc tiến tới thỏa thuận, và cả sự thực mà những người đó trải qua, là tình hình khu vực đã cải thiện, và Liên minh Châu Âu có thể đưa ra cho Bosnia một đề nghị đặc biệt: cơ hội trở thành một phần của một câu lạc bộ mới, cơ hội để tham gia một thứ lớn hơn.
And finally, we need to understand that in Bosnia and Kosovo, a lot of the secret of what we did, a lot of the secret of our success, was our humility -- was the tentative nature of our engagement. We criticized people a lot in Bosnia for being quite slow to take on war criminals. We criticized them for being quite slow to return refugees. But that slowness, that caution, the fact that President Clinton initially said that American troops would only be deployed for a year, turned out to be a strength, and it helped us to put our priorities right.
Và cuối cùng, chúng ta cần hiểu rằng ở Bosnia và Kosovo, bí mật của điều ta làm được, bí mật của sự thành công, chính là sự nhún nhường của chúng ta -- chính là bản chất ngập ngừng của sự cam kết. Chúng ta chỉ trích rất nhiều người ở Bosnia vì đã chậm chạp thách thức các tội phạm chiến tranh. Chúng ta chỉ trích họ vì đã chậm chạp đưa những người tị nạn trở lại. Nhưng sự chậm chạp đó, sự cẩn trọng đó, sự thực là tổng thống Clinton đã nói từ đầu rằng lính Mỹ sẽ chỉ tiếp viện trong một năm, trở thành một thế mạnh, và nó giúp chúng ta thẳng thắn đặt ra các thứ tự ưu tiên.
One of the saddest things about our involvement in Afghanistan is that we've got our priorities out of sync. We're not matching our resources to our priorities. Because if what we're interested in is terrorism, Pakistan is far more important than Afghanistan. If what we're interested in is regional stability, Egypt is far more important. If what we're worried about is poverty and development, sub-Saharan Africa is far more important. This doesn't mean that Afghanistan doesn't matter, but that it's one of 40 countries in the world with which we need to engage.
Một trong những điều đáng buồn nhất về sự can thiệp của chúng ta ở Afghanistan là chúng ta không quản lý được các ưu tiên của mình. Chúng ta không kết nối được nguồn lực với các ưu tiên. Bởi vì nếu điều chúng ta quan tâm là khủng bố, thì Pakistan đáng lo ngại hơn Afghanistan. Nếu chúng ta quan tâm tới bình ổn khu vực, Ai Cập còn quan trọng hơn. Nếu điều chúng ta lo lắng là sự nghèo đói và chậm phát triển, khu vực châu Phi hạ Sahara còn quan trọng hơn. Điều này không có nghĩa là Afghanistan không quan trọng, nhưng đó chỉ là một trong 40 nước trên thế giới mà chúng ta cần liên kết.
So if I can finish with a metaphor for intervention, what we need to think of is something like mountain rescue. Why mountain rescue? Because when people talk about intervention, they imagine that some scientific theory -- the Rand Corporation goes around counting 43 previous insurgencies producing mathematical formula saying you need one trained counter-insurgent for every 20 members of the population. This is the wrong way of looking at it. You need to look at it in the way that you look at mountain rescue.
Vậy nếu tôi có thể kết thúc với một phép ẩn dụ cho sự can thiệp, điều chúng ta cần nghĩ tới là sự giải cứu trên núi. Tại sao lại là giải cứu trên núi? Bởi vì khi người ta nói về can thiệp chính trị, họ tưởng tượng các lý thuyết khoa học -- tập đoàn Rand đi loanh quanh đếm 43 cuộc nổi loạn trước đó chế ra công thức toán học nói rằng bạn cần một người chống nổi loạn được đào tạo bài bản cho mỗi 20 người dân. Đó là cách nghĩ sai lầm. Bạn cần nhìn vào nó như cách bạn nhìn vào một cuộc giải cứu trên núi.
When you're doing mountain rescue, you don't take a doctorate in mountain rescue, you look for somebody who knows the terrain. It's about context. You understand that you can prepare, but the amount of preparation you can do is limited -- you can take some water, you can have a map, you can have a pack. But what really matters is two kinds of problems -- problems that occur on the mountain which you couldn't anticipate, such as, for example, ice on a slope, but which you can get around, and problems which you couldn't anticipate and which you can't get around, like a sudden blizzard or an avalanche or a change in the weather.
Khi bạn đang giải cứu trên núi, bạn không tìm lấy người có bằng tiến sỹ về giải cứu trên núi, bạn tìm ai đó hiểu biết về địa hình. Nó phụ thuộc vào hoàn cảnh. Bạn hiểu rằng bạn có thể chuẩn bị, nhưng sự chuẩn bị của bạn là có giới hạn. Bạn có thể trữ nước, trữ một tấm bản đồ, chuẩn bị một ba lô đồ. Nhưng điều quan trọng là 2 vấn đề -- vấn đề xảy ra ở trên núi mà bạn không thể tính trước được, ví dụ như, băng trên sườn dốc, nhưng thứ đó bạn có thể tránh được, và những vấn đề bạn không thể đoán trước được và cũng không thể đi vòng qua được, như một trận bão tuyết bất ngờ hoặc một trận lở tuyết hoặc thay đổi thời tiết.
And the key to this is a guide who has been on that mountain, in every temperature, at every period -- a guide who, above all, knows when to turn back, who doesn't press on relentlessly when conditions turn against them. What we look for in firemen, in climbers, in policemen, and what we should look for in intervention, is intelligent risk takers -- not people who plunge blind off a cliff, not people who jump into a burning room, but who weigh their risks, weigh their responsibilities. Because the worst thing we have done in Afghanistan is this idea that failure is not an option. It makes failure invisible, inconceivable and inevitable. And if we can resist this crazy slogan, we shall discover -- in Egypt, in Syria, in Libya, and anywhere else we go in the world -- that if we can often do much less than we pretend, we can do much more than we fear.
Và chìa khóa cho điều này là một hướng dẫn viên người đã ở trên ngọn núi đó, trong mọi điều kiện nhiệt độ, ở mọi thời điểm -- một hướng dẫn viên mà, trên hết, hiểu khi nào phải quay lại, người không cố sống cố chết dấn bước khi điều kiện không thuận lợi. Điều chúng ta tìm kiếm ở lính cứu hỏa, người leo núi, và cảnh sát, và điều chúng ta cần tìm ở cuộc can thiệp, là những người đón nhận mạo hiểm khôn khéo -- không phải những kẻ nhắm mắt lao xuống vực, không phải những kẻ lao vào căn phòng đang cháy, mà là những người biết cân nhắc lợi hại, cân nhắc trách nhiệm. Bởi điều tồi tệ nhất chúng ta làm ở Afghanistan là cho rằng thất bại không phải là một sự lựa chọn. Điều này khiến thất bại trở nên không thể thấy được, không thể tưởng tượng được và không thể tránh được. Và nếu chúng ta có thể cản lại câu khẩu hiệu điên khùng này, chúng ta sẽ khám phá ra -- ở Ai Cập, ở Syria, ở Libya, và bất kể nơi nào chúng ta tới trên thế giới -- rằng nếu chúng ta thường làm được ít hơn là chúng ta ra vẻ là làm được, chúng ta có thể làm được nhiều điều hơn chúng ta sợ.
Thank you very much.
Cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you. Thank you very much. Thank you. Thank you very much. Thank you. Thank you. Thank you.
Cảm ơn. Cảm ơn rất nhiều. Cảm ơn. Cảm ơn rất nhiều. Cảm ơn. Cảm ơn rất nhiều. Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you. Thank you. Thank you. Thank you.
Cảm ơn. Cảm ơn. Cảm ơn. Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Bruno Giussani: Rory, you mentioned Libya at the end. Just briefly, what's your take on the current events there and the intervention?
Bruno Giussani: Rory, anh có nhắc tới Libya ở cuối câu chuyện. Ngắn gọn thôi, anh nghĩ gì về những sự kiện mới xảy ra ở đó và sự can thiệp?
Rory Stewart: Okay, I think Libya poses the classic problem. The problem in Libya is that we are always pushing for the black or white. We imagine there are only two choices: either full engagement and troop deployment or total isolation. And we are always being tempted up to our neck. We put our toes in and we go up to our neck. What we should have done in Libya is we should have stuck to the U.N. resolution. We should have limited ourselves very, very strictly to the protection of the civilian population in Benghazi. We could have done that. We set up a no-fly zone within 48 hours because Gaddafi had no planes within 48 hours. Instead of which, we've allowed ourselves to be tempted towards regime change. In doing so, we've destroyed our credibility with the Security Council, which means it's very difficult to get a resolution on Syria, and we're setting ourselves up again for failure. Once more, humility, limits, honesty, realistic expectations and we could have achieved something to be proud of.
Rory Stewart: Được thôi, tôi nghĩ Libya đặt ra vấn đề kinh điển. Vấn đề ở Libya là chúng ta luôn thúc ép cho trắng đen rõ ràng. Chúng ta tưởng tượng là chỉ có 2 lựa chọn: hoặc là cam kết trọn vẹn và cử viện binh hoặc biệt lập hoàn toàn. Chúng ta luôn bị cám dỗ để dấn sâu vào. Chúng ta nhúng chân vào và bị ngập tới tận cổ. Điều chúng ta lẽ ra nên làm ở Libya là chúng ta đã nên bám vào giải pháp của LHQ. Chúng ta nên kiềm chế bản thân một cách nghiêm ngặt tới sự bảo vệ của dân số ở Benghazi. Chúng ta lẽ ra có thể làm được điều đó. Chúng ta lập nên một vùng cấm bay trong vòng 48 tiếng bởi vì Gaddafi không có chiếc máy bay nào trong vòng 48 tiếng. Thay vào đó, chúng ta cho phép chúng ta bị cám dỗ bởi sự thay đổi chế độ cai trị. Bằng cách đó chúng ta phá hoại sự tin cậy của mình với hội đồng bảo an, có nghĩa là rất khó để có một giải pháp về Syria, và chúng ta đang tiến gần tới thất bại. Một lần nữa, sự nhún nhuờng, sự kiềm chế, sự chân thành, những mong đợi phù hợp với thực tế và chúng ta có thể đạt được những điều đáng tự hào.
BG: Rory, thank you very much.
BG: Rory, cảm ơn anh rất nhiều.
RS: Thank you. (BG: Thank you.)
RS: Cảm ơn. (BG: Cảm ơn.)