I worked on a film called "Apollo 13," and when I worked on this film, I discovered something about how our brains work, and how our brains work is that, when we're sort of infused with either enthusiasm or awe or fondness or whatever, it changes and alters our perception of things. It changes what we see. It changes what we remember. And as an experiment, because I dauntingly create a task for myself of recreating a Saturn V launch for this particular movie, because I put it out there, I felt a little nervous about it, so I need to do an experiment and bring a group of people like this in a projection room and play this stock footage, and when I played this stock footage, I simply wanted to find out what people remembered, what was memorable about it? What should I actually try to replicate? What should I try to emulate to some degree?
Tôi đã thực hiện một bộ phim có tên Apollo 13" trong quá trình làm phim này, tôi phát hiện ra vài điều về cách mà bộ não của chúng ta hoạt động. Và cách mà bộ não chúng ta hoạt động là, khi chúng ta được truyền sự hăng hái hoặc kinh ngạc, sự yêu thích hoặc bất cứ điều gì, nó làm thay đổi nhận thức của chúng ta về mọi thứ Nó làm thay đổi những gì chúng ta nhìn thấy. Nó làm thay đổi những gì chúng ta ghi nhớ. Và để thử nghiệm, tôi háo hức tự tạo ra một nhiệm vụ cho mình đó là tái tạo một bệ phóng Saturn V cho bộ phim đặc biệt này. Vì tôi tạo ra nó, tôi cảm thấy hơi lo lắng nên tôi cần làm một thử nghiệm là mang một nhóm người đến phòng chiếu và chiếu cảnh này. Khi tôi cho chiếu nó, tôi chỉ muốn khám phá những gì mọi người đã ghi nhớ có điểm gì đáng nhớ về nó? Vậy điều gì tôi thực sự cần phải tái tạo? Tôi nên cố gắng đấu tranh vì điều gì ở một mức độ nào đó?
So this is the footage that I was showing everybody. And what I discovered is, because of the nature of the footage and the fact that we're doing this film, there was an emotion that was built into it and our collective memories of what this launch meant to us and all these various things. When I showed it, and I asked, immediately after the screening was over, what they thought of it, what was your memorable shots, they changed them. They were -- had camera moves on them. They had all kinds of things. Shots were combined, and I was just really curious, I mean, what the hell were you looking at just a few minutes ago and how come, how'd you come up with this sort of description? And what I discovered is, what I should do is not actually replicate what they saw, is replicate what they remembered.
Và đây là những cảnh mà tôi đã chiếu cho tất cả mọi người. Điều mà tôi phát hiện ra là, vì bản chất các cảnh quay và thực tế rằng khi đang thực hiện bộ phim này, ta cảm thấy gắn bó với nó và kỷ niệm tập thể về sự kiện này mang một ý nghĩa đặc biệt với chúng ta như những sự kiện khác. Khi tôi cho công chiếu nó, và hỏi ngay sau khi buổi chiếu kết thúc, họ nghĩ gì về nó, đâu là những cảnh quay ấn tượng, chúng khiến họ thay đổi ra sao. Họ đã được - máy ảnh di chuyển vào chúng. Họ nhớ tất cả sự kiện trãi nghiệm. Cảnh quay hợp nhất với trí nhớ, và tôi thực sự tò mò, tôi nghĩ, chẳng biết họ đã xem cái quái gỉ chỉ một vài phút trước đây và tại sao, làm thế nào họ lại mô tả những gì họ mới xem như vậy? Và tôi phát hiện ra là, những gì tôi cần làm là không phải tái tạo những gì họ đã thấy, mà là sao chép những gì họ nhớ.
So this is our footage of the launch, based on, basically, taking notes, asking people what they thought, and then the combination of all the different shots and all the different things put together created their sort of collective consciousness of what they remembered it looked like, but not what it really looked like. So this is what we created for "Apollo 13."
Vì vậy đây là cảnh khởi động của chúng tôi, dựa trên, về cơ bản, việc ghi chép lại, hỏi mọi người những gì họ nghĩ, và sau đó kết hợp của tất cả các cảnh quay khác nhau và tất cả những điều khác nhau để cùng nhau tạo ra một ý thức tập thể của những gì họ nhớ nó trông giống như, nhưng không phải những gì thực sự đã xãy ra. Vì vậy, đây là những gì chúng tôi tạo ra cho "Apollo 13."
(Launch noises)
( tiếng khởi động )
So literally what you're seeing now is the confluence of a bunch of different people, a bunch of different memories, including my own, of taking a little bit of liberty with the subject matter. I basically shot everything with short lenses, which means that you're very close to the action, but framed it very similarly to the long lens shots which gives you a sense of distance, so I was basically was setting up something that would remind you of something you haven't really quite seen before. (Music) And then I'm going to show you exactly what it is that you were reacting to when you were reacting to it.
Vậy những gì bạn thực sự đang thấy bây giờ là sự tổng hợp từ những người khác nhau, những kỉ niệm khác nhau, bao gồm cả của riêng tôi, lấy một chút tự do phóng tác với chủ đề. Về cơ bản tôi đã quay tất cả với ống kính ngắn, có nghĩa là quay rất gần với các hành động, nhưng với khung hình tương tự như quay bằng ống kính dài, nó đem lại cảm giác mọi thứ gần hơn, do đó, về cơ bản tôi đã thiết lập một thứ sẽ gợi nhắc lại cho bạn về một thứ gì đó bạn thực sự chưa từng nhìn thấy. (Âm nhạc) Và sau đó tôi sẽ cho bạn thấy chính xác những gì bạn phản ứng khi bạn đã phản ứng với nó.
(Music)
(Âm nhạc)
Tom Hanks: Hello, Houston, this is Odyssey. It's good to see you again. (Cheers) (Music)
Tom Hanks: Xin chào, Houston, đây là Odyssey. Rất vui khi được gặp quý vị một lần nữa. (Reo hò) (Âm nhạc)
Rob Legato: I pretend they're clapping for me.
Rob Legato: tôi sẽ giả vờ rằng họ dành những tràng pháo tay đó cho tôi
(Laughter)
(Tiếng cười)
So now I'm in a parking lot. Basically it's a tin can, and I'm basically recreating the launch with fire extinguishers, fire, I have wax that I threw in front of the lens to look like ice, and so basically if you believed any of the stuff that I just showed you, what you were reacting to, what you're emoting to, is something that's a total falsehood, and I found that really kind of fascinating.
Bây giờ tôi đang ở một bãi đậu xe. Thật ra nó chỉ là một cái lon làm bằng thiếc và tôi tái tạo lại cách thức phóng tàu với bình chữa cháy, lửa, tôi có sáp mà tôi đã ném ở phía trước của các ống kính để trông giống như đá đông lạnh, và như vậy nếu bạn tin bất kỳ những thứ mà tôi vừa cho bạn xem, những gì bạn đã phản ứng với, những cảm giác bạn có là hoàn toàn giả tạo, và tôi thấy điều này cực kỳ hấp dẫn.
And in this particular case, this is the climax of the movie, and, you know, the weight of achieving it was simply take a model, throw it out of a helicopter, and shoot it. And that's simply what I did. That's me shooting, and I'm a fairly mediocre operator, so I got that nice sense of verisimilitude, of a kind of, you know, following the rocket all the way down, and giving that little sort of edge, I was desperately trying to keep it in frame. So then I come up to the next thing. We had a NASA consultant who was actually an astronaut, who was actually on some of the missions, of Apollo 15, and he was there to basically double check my science. And, I guess somebody thought they needed to do that.
Và trong trường hợp cụ thể này, đây là đỉnh cao của cuốn phim, và, bạn biết, để làm được điều này đơn giản là có một mô hình, ném nó ra khỏi máy bay trực thăng, và quay phim lại Và đó là những gì tôi đã làm. Đó là tôi đang quay phim, và tôi là một người quay phim khá tầm thường, Vì vậy, tôi có cảm giác rất thật về thứ, kiểu như, bạn biết đấy, nhào theo phi thuyền xuống tận dưới. và với một chút lợi thế , tôi đã cố gắng hết sức để quay được nó. Sau đó tôi nghĩ đến điều tiếp theo. Chúng tôi có một nhà tư vấn làm việc ở NASA là một phi hành gia thật sự, ông đã từng làm việc trên một số phi thuyền, như Apollo 15, và ông đến để kiểm tra công việc của toi. Và, tôi đoán ai đó nghĩ rằng họ cần thiết để làm điều đó.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I don't know why, but they thought they did.
Tôi không biết tại sao, nhưng họ nghĩ rằng họ phải làm vậy.
So we were, he's a hero, he's an astronaut, and we're all sort of excited, and, you know, I gave myself the liberty of saying, you know, some of the shots I did didn't really suck that bad. And so maybe, you know, we were feeling kind of a little good about it, so I brought him in here, and he needed to really check and see what we were doing, and basically give us our A plus report card, and so I showed him some shots we were working on, and waiting for the reaction that you hope for, which is what I got. (Music) (Launch noises) So I showed him these two shots, and then he basically told me what he thought.
Vì vậy, chúng tôi nghĩ, ông là một anh hùng, ông là phi hành gia, và chúng tôi rất vui mừng, và, tôi đã tự cho phép bản thân mình thoải mái nói về một số cảnh quay tôi đã làm không đến nỗi tệ lắm. Và vì vậy có lẽ, chúng tôi có cảm giác tốt, vì vậy tôi đã mời ông ấy đến đây, để kiểm tra và xem những gì chúng tôi đã làm, và sẽ cho chúng tôi điềm A cộng trên bản báo cáo. Vì vậy tôi trình bày cho ông một số phim chúng tôi đang quay, và chờ đợi cho phản ứng mà bạn hy vọng tôi đáng được nhận (Âm nhạc) (Tiếng khởi động) Vì vậy, tôi cho ông ấy xem hai cảnh quay này, và sau đó ông nói với tôi những gì ông nghĩ.
("That's wrong") (Laughter)
("Sai rồi") (Tiếng cười)
Okay. (Laughter) It's what you dream about.
Được rồi. (Tiếng cười) Đó chính là những gì bạn mơ ước.
(Laughter)
(Tiếng cười)
So what I got from him is, he turned to me and said, "You would never, ever design a rocket like that. You would never have a rocket go up while the gantry arms are going out. Can you imagine the tragedy that could possibly happen with that? You would never, ever design a rocket like that." And he was looking at me. It's like, Yeah, I don't know if you noticed, but I'm the guy out in the parking lot recreating one of America's finest moments with fire extinguishers.
Vì vậy, những gì tôi nhận từ ông là, ông quay sang tôi và nói, "Bạn không, không bao giờ, thiết kế tên lửa như thế, bạn sẽ không bao giờ cho tên lửa đi lên trong khi cánh bay đưa ra ngoài. Bạn có thể tưởng tượng điều gì có thể có thể xảy ra không? Bạn không bao giờ, bao giờ thiết kế tên lửa như thế." Và ông đã nhìn tôi. Tôi nghĩ, Vâng, tôi không biết nếu bạn để ý, tôi là người ra ở bãi đậu xe tái tạo những khoảnh khắc tuyệt nhất ở Mỹ với bình chữa cháy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And I'm not going to argue with you. You're an astronaut, a hero, and I'm from New Jersey, so --
Và tôi sẽ không tranh luận với ông. Ông là một du hành vũ trụ, một anh hùng, và tôi là từ New Jersey, vậy thì --
(Laughter)
(Tiếng cười)
I'm just going to show you some footage. I'm just going to show you some footage, and tell me what you think. And then I did kind of get the reaction I was hoping for.
Tôi sẽ chỉ cho ông xem một số cảnh quay. Tôi sẽ cho ông xem một số cảnh quay, hãy cho tôi biết ông nghĩ như thế nào. Và sau đó tôi đã nhận được phản ứng mà tôi hy vọng.
So I showed him this, and this is actual footage that he was on. This is Apollo 15. This was his mission. So I showed him this, and the reaction I got was interesting.
Vì vậy tôi cho ông ấy xem cái này, và đây là đoạn phim thực sự có ông ấy trong đó. Đây là Apollo 15. Đây là hành trình của ông. Vì vậy, tôi cho ông xem, và phản ứng tôi nhận được khá thú vị.
("That's wrong too.") (Laughter)
("Lại sai nữa rồi") (Tiếng cười)
So, and what happened was, I mean, what I sort of intuned in that is that he remembered it differently. He remembered that was a perfectly safe sort of gantry system, perfectly safe rocket launch, because he's sitting in a rocket that has, like, a hundred thousand pounds of thrust, built by the lowest bidder. He was hoping it was going to work out okay.
Vì vậy, chuyện xảy ra là, ý tôi là, tôi nhận thấy rằng ông nhớ cuộc hành trình mình một cách khác. Ông nhớ hệ thống khởi động hoàn toàn an toàn Hệ thống, khởi động của tên lửa hoàn toàn an toàn, vì ông ngồi trong một chiếc tên lửa với một trăm nghìn cân lực đẩy, được xây dựng bởi người trả giá thấp nhất. Ông ấy đã hy vọng sự việc sẽ xảy ra như ý.
(Laughter) (Applause)
(Tiếng cười) (Vỗ tay)
So he twisted his memory around.
Do đó, ông bẻ cong ký ức của ông.
Now, Ron Howard ran into Buzz Aldrin, who was not on the movie, so he had no idea that we were faking any of this footage, and he just responded as he would respond, and I'll run this.
Đây, Ron Howard khi gặp Buzz Aldrin, ông đã không có mặt trong phim, vì vậy ông đã không biết rằng chúng tôi đã làm giả cảnh này, và ông trả lời như cách ông ấy nên trả lời và tôi sẽ cho mở cái này.
Ron Howard: Buzz Aldrin came up to me and said, "Hey, that launch footage, I saw some shots I'd never seen before. Did you guys, what vault did you find that stuff in?" And I said, "Well, no vault, Buzz, we generated all that from scratch."
Ron Howard: Buzz Aldrin gặp tôi và nói, "Này, cảnh khởi động đó, tôi thấy một số cảnh quay tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Mấy cậu đã tìm thấy ở trong cái kho nào vậy?" Và tôi nói, "À, không có kho nào cả, Buzz, chúng tôi tạo ra tất cả những gì từ đầu."
And he said, "Huh, that's pretty good. Can we use it?"
Và ông nói, " Tốt đấy. Chúng tôi có thể dùng nó không?"
(Explosion) ("Sure") (Laughter)
(Tiếng nổ) ("Chắc chắn") (Tiếng cười)
RL: I think he's a great American.
RL: tôi nghĩ rằng ông là một người Mỹ tuyệt vời.
(Laughter)
(Tiếng cười)
So, "Titanic" was, if you don't know the story, doesn't end well.
Vì vậy, "Titanic", nếu bạn không biết câu chuyện, không có một kết thúc tốt đẹp.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Jim Cameron actually photographed the real Titanic. So he basically set up, or basically shattered the suspension of disbelief, because what he photographed was the real thing, a Mir sub going down, or actually two Mir subs going down to the real wreck, and he created this very haunting footage. It's really beautiful, and it conjures up all these various different emotions, but he couldn't photograph everything, and to tell the story, I had to fill in the gaps, which is now rather daunting, because now I have to recreate back to back what really happened and I had, I'm the only one who could really blow it at that point.
Jim Cameron thực sự chụp ảnh con tàu Titanic thật. Vì vậy, ông thiết lập, hoặc nói đơn giản là đập vỡ dẹp bỏ sự hoài nghi, bởi vì những gì ông chụp là thật, một tầu ngầm đi xuống, hoặc thực sự hai tàu ngầm đi xuống đến xác tàu đắm, và ông tạo ra cảnh quay rất ám ảnh này. Nó rất đẹp, và nó gợi lên tất cả những cảm xúc khác nhau, nhưng ông không thể chụp tất cả mọi thứ, và để kể câu chuyện, tôi đã phải điền vào những khoảng trống, lúc này mới thật sự khó khăn, bởi vì bây giờ tôi phải tái tạo liên tiếp những gì thực sự xảy ra và tôi đã, tôi là người duy nhất có thể làm được điều đó.
So this is the footage he photographed, and it was pretty moving and pretty awe-inspiring. So I'm going to just let it run, so you kind of absorb this sort of thing, and I'll describe my sort of reactions when I was looking at it for the very first time. I got the feeling that my brain wanted to basically see it come back to life. I automatically wanted to see this ship, this magnificent ship, basically in all its glory, and conversely, I wanted to see it not in all its glory, basically go back to what it looks like.
Vậy là những cảnh quay ông chụp, và nó khá cảm động và đầy cảm hứng. Vì vậy tôi sẽ chiếu cho các bạn xem đế hiểu được điều này, và tôi sẽ mô tả các phản ứng của tôi khi tôi đã xem nó cho lần đầu tiên. Tôi có cảm giác rằng bộ não của tôi muốn nhìn thấy nó sống lại. Tôi muốn nhìn thấy chiếc tàu này, con tàu tráng lệ này, trong tất cả vinh quang của nó, và ngược lại, tôi muốn nhìn thấy nó không sự vinh quang đó, và cơ bản trở lại những gì ta thấy đó.
So I conjured up an effect that I'm later going to show you what I tried to do, which is kind of the heart of the movie, for me, and so that's why I wanted to do the movie, that's why I wanted to create the sort of things I created.
Vì vậy tôi tạo nên một hiệu ứng mà tôi sẽ cho các bạn thấy sau nầy những gì tôi cố gắng để làm, mà cũng là trung tâm của bộ phim, đối với tôi, và vì thế đó là lý do tại sao tôi muốn làm phim, đó là lý do tại sao tôi muốn tạo ra những điều tôi tạo ra.
And I'll show you, you know, another thing that I found interesting is what we really were emoting to when you take a look at it. So here's the behind the scenes, a couple of little shots here. So, when you saw my footage, you were seeing this: basically, a bunch of guys flipping a ship upside down, and the little Mir subs are actually about the size of small footballs, and shot in smoke. Jim went three miles went down, and I went about three miles away from the studio and photographed this in a garage.
Và tôi sẽ cho bạn xem, một điều mà tôi thấy khá thú vị về những phàn ứng cảm xúc của chúng ta khi xem nó. Vì vậy, đây là đằng sau hậu trường, một số ít cảnh quay ở đây. Vì vậy, khi bạn xem cảnh quay của tôi, bạn nhìn thấy điều này: về cơ bản, là một nhóm đàn ông lật tàu lộn ngược, và tàu ngầm là thực sự khoảng kích thước của những quả bóng đá nhỏ và quay trong điều kiện khói mù mịt. Jim đã đi ba dặm xuống, và tôi đã đi khoảng ba dặm từ phòng thu và chụp ảnh này trong một nhà để xe.
And so, but what you're emoting to, or what you're looking at, had the same feeling, the same haunting quality, that Jim's footage had, so I found it so fascinating that our brains sort of, once you believe something's real, you transfer everything that you feel about it, this quality you have, and it's totally artificial. It's totally make-believe, yet it's not to you, and I found that that was a very interesting thing to explore and use, and it caused me to create the next effect that I'll show you, which is this sort of magic transition, and all I was really attempting to do is basically have the audience cue the effect, so it became a seamless experience for them, that I wasn't showing you my sort of interpretation, I was showing you what you wanted to see. And the very next shot, right after this -- So you can see what I was doing.
Và vậy, những cảm giác bạn thấy, hoặc những gì bạn đang xem, có cảm giác giống nhau, cùng khả năng gây ám ảnh, của cảnh quay của Jim, vì vậy tôi thấy rất thú vị về bộ não của chúng ta,, một khi bạn tin rằng một cái gì đó là có thật, bạn chuyển tất cả mọi thứ mà bạn cảm thấy về nó, cảm giác bạn có được là hoàn toàn giả tạo. Đó là tưởng tượng, nhưng là thật đối với bạn, và tôi thấy rằng đó là một điều rất thú vị để khám phá và sử dụng nó, và nó khiến tôi tạo ra hiệu ứng tiếp theo mà tôi sẽ cho bạn xem, đó như là quá trình chuyển đổi ma thuật, và tất cả tôi đã cố gắng để làm là cho khán giả làm theo hiệu ứng do đó, trở thành một trải nghiệm liền mạch cho họ. Tôi đã không cho bạn xem phần phiên dịch, Tôi cho bạn những gì bạn muốn xem. Và cảnh quay hôm sau, ngay sau đó-- Bạn có thể thấy những gì tôi đã làm.
So basically, if there's two subs in the same shot, I shot it, because where's the camera coming from? And when Jim shot it, it was only one sub, because he was photographing from the other, and I don't remember if I did this or Jim did this. I'll give it to Jim, because he could use the pat on the back.
Về cơ bản, nếu có hai tàu ngầm trong cùng một cảnh, Tôi đã quay nó, vì cái máy quay đó đến từ đâu? Và khi Jim quay nó, chỉ có một tàu ngầm, bởi vì ông chụp ảnh từ phía khác, và tôi không nhớ nếu tôi đã quay cảnh này hoặc Jim đã làm điều này. Tôi sẽ đưa nó cho Jim, bởi vì anh ta cần được khen ngợi
(Laughter)
(Tiếng cười)
Okay. So now the Titanic transition. So this is what I was referring to where I wanted to basically magically transplant from one state of the Titanic to the other. So I'll just play the shot once. (Music)
Nào. Bây giờ nói về sự chuyển đổi của tàuTitanic. Đây là những gì tôi đã đề cập đến mà tôi muốn lắp ghép một cách kì diệu từ tình trạng của Titanic chuyển đổi qua tình trạng khác. Vì vậy tôi sẽ cho bạn xem cảnh quay một lần. (Âm nhạc)
(Music)
(Âm nhạc)
And what I was hoping for is that it just melts in front of you.
Và tôi hy vọng là nó chỉ tan chảy ở trước mặt bạn.
Gloria Stuart: That was the last time Titanic ever saw daylight.
Gloria Stuart: Đó là lần cuối cùng Titanic nhìn thấy ánh sáng ban ngày.
RL: So, what I did is basically I had another screening room experience where I was basically tracking where I was looking, or where we were looking, and of course you're looking at the two people on the bow of the ship, and then at some point, I'm changing the periphery of the shot, I'm changing, it's becoming the rusted wreck, and then I would run it every day, and then I would find exactly the moment that I stopped looking at them and start noticing the rest of it, and the moment my eye shifted, we just marked it to the frame. The moment my eye shifted, I immediately started to change them, so now somehow you missed where it started and where it stopped. And so I'll just show it one more time. (Music) And it's literally done by using what our brains naturally do for us, which is, as soon as you shift your attention, something changes, and then I left the little scarf going, because it really wanted to be a ghostly shot, really wanted to feel like they were still on the wreck, essentially. That's where they were buried forever.
RL: Vì vậy, tôi đã có thêm trải nghiệm ở phòng chiếu phim nơi tôi theo dõi nơi tôi đã tìm kiếm, hoặc nơi mà chúng tôi đã tìm kiếm, và tất nhiên bạn đang nhìn thấy hai người trên mũi của con tàu, và vì một số lí do Tôi thay đổi ngoại vi của cảnh, Tôi đổi nó, nó trở thành xác tàu đắm rỉ sét, và sau đó tôi cho phim chiếu mỗi ngày, và tôi đã tìm thấy chính xác thời điểm mà tôi không còn thấy họ và bắt đầu nhận thấy phần còn lại của nó, và khoảnh khắc mắt của tôi di chuyển, chúng tôi đánh dấu nó vào khung hình Thời điểm mà mắt của tôi di chuyển, tôi ngay lập tức bắt đầu thay đổi chúng, vì vậy bây giờ bạn không nhìn thấy một cảnh bắt đầu và nó kết thúc ở đâu Và vì vậy tôi sẽ cho xem một lần nữa. (Âm nhạc) Và nghĩa là điều đó được thực hiện bằng cách sử dụng những gì não của chúng ta hoạt động, đó là, ngay sau khi bạn thay đổi sự chú ý, có điề gì đó sẽ thay đổi, và sau đó tôi để chiếc khăn choàng bay đi, bởi vì tôi thực sự muốn có một cảnh quay ma mị , thực sự muốn cảm thấy như họ đã vẫn còn trên xác tàu đắm, yếu tố cần thiết. Đó là nơi họ đã được chôn cất mãi mãi.
Or something like that. I just made that up.
Hoặc một cái gì đó như thế. Tôi mới bịa ra.
(Laughter)
(Tiếng cười)
It was, incidentally, the last time I ever saw daylight. It was a long film to work on. (Laughter)
Đó là, một cách ngẫu nhiên, lần cuối cùng tôi nhìn thấy ánh sáng ban ngày. Nó là một bộ phim dài. (Tiếng cười)
Now, "Hugo" was another interesting movie, because the movie itself is about film illusions. It's about how our brain is tricked into seeing a persistence of vision that creates a motion picture, and one of the things I had to do is, we — Sasha Baron Cohen is a very clever, very smart guy, comedian, wanted to basically do an homage to the kind of the Buster Keaton sort of slapstick things, and he wanted his leg brace to get caught on a moving train. Very dangerous, very impossible to do, and particularly on our stage, because there literally is no way to actually move this train, because it fits so snugly into our set.
Bây giờ, "Hugo" cũng là một bộ phim thú vị khác, bởi vì cuốn phim nói về ảo tưởng cùa phim. Nói về cách bộ não của chúng ta lừa ta để ta nhìn thấy một tầm nhìn cố định trong khi hình ảnh chuyển động, và một trong những điều tôi phải làm là, chúng tôi- Sasha Baron Cohen là một người rất nhanh trí, rất thông minh, diễn viên hài, muốn đơn giản tỏ sự kính phục với các loại phim của Buster Keaton loại phim hài, và ông muốn chân của mình bị kẹt trong chuyến tàu di chuyển. Rất nguy hiểm, rất khó làm, và đặc biệt là trên sân khấu của chúng tôi, bởi vì không có cách nào để thực sự di chuyển xe lửa này, bởi vì nó gần khít với màn cảnh sân khấu của chúng tôi.
So let me show you the scene, and then I basically used the trick that was identified by Sergei Eisenstein, which is, if you have a camera that's moving with a moving object, what is not moving appears to be moving, and what is moving appears to be stopped, so what you're actually seeing now is the train is not moving at all, and what is actually moving is the floor.
Vậy để tôi cho bạn xem bối cảnh đó, và sau đó tôi đơn giản là sử dụng cách lừa đảo được xem là đặc tính của Sergei Eisenstein, đó là, nếu bạn có một máy ảnh di chuyển với một vật chuyển động những gì không di chuyển dường như là đang di chuyển, và những gì di chuyển dường như bị dừng lại, Vì vậy, những gì bạn thực sự đang nhìn thấy bây giờ là con tàu không di chuyển, và những gì thực sự di chuyển là sàn nhà.
So this is the shot. That's a little video of what you're looking at there, which is our little test, so that's actually what you're seeing, and I thought it was sort of an interesting thing, because it was, part of the homage of the movie itself is coming up with this sort of genius trick which I can't take credit for. I'd love to but I can't, because it was invented like in 1910 or something like that, is I told Marty, and it's kind of one of those mind things that it's really hard to really get until you actually see it work, and I said, you know, what I was going to do, and he said, "So, let me see if I can get this straight. The thing with the wheels? That doesn't move."
Vì vậy, đây là cảnh quay. Đó là một thước phim quay lại những gì bạn đang xem lúc đó, là thử nghiệm nhỏ của chúng tôi. Vì vậy, đó là thực sự những gì bạn đang nhìn thấy, và tôi nghĩ rằng nó là một điều khá thú vị, bởi vì một phần của sự khâm phục của bộ phim là nghĩ ra một cú lừa ngoạn mục mà tôi không thể dành danh dự cho mình. Tôi rất muốn nhưng không thể, bởi vì nó được phát minh từ năm 1910 hoặc gần như thế, như tôi nói với Marty, và đó là một trong những điều tâm trí thực sự khó hiểu cho đến khi bạn thực sự nhìn thấy cách nó làm việc, và tôi nói rằng, tôi sẽ phải làm gì, và ông nói, "Nào, hãy để tôi xem liệu tôi có thể hiểu được điều này. Các bánh xe ấy? Mà không di chuyển."
(Laughter) (Applause)
(Tiếng cười) (Vỗ tay)
"And the thing without the wheels, that moves."
"Và những đồ vật không có bánh xe, lại di chuyển."
Precisely. (Laughter)
Chính xác. (Tiếng cười)
Brings me to the next, and final --
Dẫn tôi đến câu chuyện tiếp theo và cuối cùng --
Marty's not going to see this, is he? (Laughter) This isn't viewed outside of -- (Laughter)
Marty sẽ không thấy điều này, phải không ạ? (Tiếng cười) Không được chiếu những thứ này ra bên ngoài đâu --(tiếng cười)
The next illustration is something that, there's like all one shot theory. It's a very elegant way of telling a story, especially if you're following somebody on a journey, and that journey basically tells something about their personality in a very concise way, and what we wanted to do based on the shot in "Goodfellas," which is one of the great shots ever, a Martin Scorsese film, of basically following Henry Hill through what it feels like to be a gangster walk going through the Copacabana and being treated in a special way. He was the master of his universe, and we wanted Hugo to feel the same way, so we created this shot.
Minh họa tiếp theo là một thứ giống như lý thuyết quay tất cả trong một lần Đó là một cách rất thanh lịch để kể câu chuyện, nhất là nếu bạn đang theo dõi ai đó trong một cuộc hành trình, và rằng cuộc hành trình về cơ bản nói về nhân cách của họ trong một cách rất rõ ràng và những gì chúng tôi muốn làm dựa trên một cảnh trong phim "Goodfellas," đó là một trong những cảnh tuyệt vời nhất, một bộ phim của Martin Scorsese, nói đơn giản là dựa trên Henry Hill, để cho ta cảm thấy như thế nào một trùm xã hội đen đi qua Copacabana và được đối xử một cách đặc biệt. Ông là vua của thế giới của ông, và chúng tôi muốn Hugo cũng cảm thấy như vậy, vì vậy chúng tôi tạo ra cảnh này.
(Music) That's Hugo. (Music) And we felt that if we could basically move the camera with him, we would feel what it feels like to be this boy who is basically the master of his universe, and his universe is, you know, behind the scenes in the bowels of this particular train station that only he can actually navigate through and do it this way, and we had to make it feel that this is his normal, everyday sort of life, so the idea of doing it as one shot was very important, and of course, in shooting in 3D, which is basically it's a huge camera that's hanging off of a giant stick, so to recreate a steadycam shot was the task, and make it feel kind of like what the reaction you got when you saw the "Goodfellas" shot.
(Âm nhạc) Đó là Hugo. (Âm nhạc) Và chúng tôi thấy rằng nếu chúng tôi có thể di chuyển máy ảnh với ông ta, chúng ta sẽ cảm thấy như là một cậu bé là vua của vũ trụ mình, và vũ trụ của cậu là, đằng sau hậu trường trong lòng ga xe lửa nầy rằng chỉ có cậu ta mới thực sự có thể thông qua và làm theo cách này, và chúng tôi đã phải làm cho cảm thấy rằng đây là cuộc sống thông thường hàng ngày của cậu bé, do đó, ý tưởng của việc quay phim trong một lần quay là rất quan trọng, và tất nhiên, khi quay phim 3D, dúng một máy quay lớn treo trên một thanh khổng lồ, để thực hiện nhiệm vụ là làm cho giống như quay bắng máy đứng một chổ, và làm cho các bạn cảm thấy giống như bạn đã phản ứng khi bạn xem phim "Goodfellas".
So what you're now going to see is how we actually did it. It's actually five separate sets shot at five different times with two different boys. The one on the left is where the shot ends, and the shot on the right is where it takes over, and now we switch boys, so it went from Asa Butterfield, who's the star of the show, to his stand-in. (Music) I wouldn't say his stunt double. There's a crazy rig that we built for this. (Music) And so this is, and now this is set number three we're into, and then we're going to go into, basically the very last moment of the shot is actually the steadycam shot. Everything else was shot on cranes and various things like that, and it literally was done over five different sets, two different boys, different times, and it all had to feel like it was all one shot, and what was sort of great for me was it was probably the best-reviewed shot I've ever worked on, and, you know, I was kind of proud of it when I was done, which is, you should never really be proud of stuff, I guess.
Vì vậy, những gì bạn đang xem bây giờ là cách chúng tôi thực sự đã làm. Đó thực sự năm cảnh riêng biệt quay trong thời điểm khác nhau với hai cậu bé khác nhau. Cậu bên trái là nơi cảnh kết thúc, và bên phải là nơi cảnh quay tiếp tục, và bây giờ chúng tôi thay đổi hai cậu bé, Asa Butterfield, là ngôi sao trong phim, cho đển người đóng thế của anh ấy . (Âm nhạc) Tôi không nói rằng có 2 diễn viên đóng thể. Đó chỉ là cách chúng tôi thực hiện cho cảnh quay này (Âm nhạc) Và bây giờ là cảnh số ba chúng tôi đang vào, và sau đó chúng ta sẽ đi vào, những khoảnh khắc cuối cùng của cảnh quay là thực sự quay bằng máy tại chỗ. Mọi cảnh khác đã được quay bởi máy gắn vào cần cẩu và những điều như thế, và nó thực sự đã được thực hiện trong năm cách sắp xếp khác nhau, hai cậu bé khác nhau, thời điểm khác nhau, và tất cả phải cảm thấy như nó đã được quay có một lần, và điều tuyệt vời đối với tôi là nó có thể là cảnh được đánh giá cao nhất trong trong những cảnh tôi đã làm. và, bạn biết đấy, tôi khá rất tự hào về nó khi tôi hoàn thành, bạn không bao giờ thực sự nên tự hào về công việc mình làm, tôi đoán vậy.
So I was kind of proud of it, and I went to a friend of mine, and said, "You know, this is, you know, kind of the best-reviewed shot I've ever worked on. What do you think was the reason?"
Vì vậy tôi khá tự hào về nó. Tôi đã đến gặp một người bạn và nói: " Bạn biết không , đây là những cảnh quay tuyệt vời nhất mà tôi từng thực hiện. Theo bạn, nguyên nhân là gì? "
And he said, "Because no one knows you had anything to do with it."
Anh ta nói, "Bởi vì không ai biết rằng bạn góp phần trong việc tạo ra những cảnh quay ấy."
(Laughter)
(Tiếng cười)
So, all I can say is, thank you, and that's my presentation for you. (Applause)
Vậy, tôi chỉ muốn nói, Cảm ơn. và đó là phần trình bày của tôi hôm nay. (Vỗ tay)
(Applause)
(Vỗ tay)