On Mondays and Thursdays, I learn how to die. I call them my terminal days. My wife Fernanda doesn't like the term, but a lot of people in my family died of melanoma cancer and my parents and grandparents had it. And I kept thinking, one day I could be sitting in front of a doctor who looks at my exams and says, "Ricardo, things don't look very good. You have six months or a year to live."
Vào mỗi thứ Hai và thứ Năm, tôi học làm thế nào để chết. Tôi gọi đó là những ngày cuối cùng của mình. Vợ tôi - Fernanda, không hề thích cái từ ấy, nhưng nhiều người trong gia đình tôi đã mất vì khối u ác tính, bố mẹ và ông bà tôi cũng vậy. Và tôi đã luôn nghĩ rằng, 1 ngày nào đó tôi có thể ngồi trước một bác sĩ ông ta xem kết quả kiểm tra của tôi và nói rằng, "Ricardo, mọi thứ không khả quan cho lắm. Anh chỉ còn khoảng 6 tháng đến 1 năm để sống."
And you start thinking about what you would do with this time. And you say, "I'm going to spend more time with the kids. I'm going to visit these places, I'm going to go up and down mountains and places and I'm going to do all the things I didn't do when I had the time." But of course, we all know these are very bittersweet memories we're going to have. It's very difficult to do. You spend a good part of the time crying, probably. So I said, I'm going to do something else.
Và bạn bắt đầu nghĩ đến bạn sẽ làm gì với khoảng thời gian đó. Rồi bạn nói, "Tôi sẽ dành nhiều thời gian với các con hơn. Tôi sẽ đi thăm những nơi này, Tôi sẽ đi leo núi và nhiều nơi nữa và tôi sẽ làm tất cả những việc tôi đã không làm khi có thời gian." Nhưng tất nhiên, chúng ta đều biết đó là những kỷ niệm buồn vui lẫn lộn chúng ta sẽ có. Rất khó để thực hiện được. Bạn sẽ dành 1 phần lớn thời gian để khóc cũng nên. Nên tôi đã nói, Tôi sẽ làm một cái gì khác . Mỗi thứ Hai và thứ Năm, tôi sẽ sử dụng các ngày cuối cùng này.
Every Monday and Thursday, I'm going use my terminal days. And I will do, during those days, whatever it is I was going to do if I had received that piece of news. (Laughter)
Và tôi sẽ làm, trong những ngày đó, bất kể việc gì mình định sẽ làm, như thể tôi đã nhận tin xấu đó. (Cười lớn) Khi bạn nghĩ về ..
When you think about -- (Applause) when you think about the opposite of work, we, many times, think it's leisure. And you say, ah, I need some leisure time, and so forth. But the fact is that, leisure is a very busy thing. You go play golf and tennis, and you meet people, and you're going for lunch, and you're late for the movies. It's a very crowded thing that we do. The opposite of work is idleness. But very few of us know what to do with idleness. When you look at the way that we distribute our lives in general, you realize that in the periods in which we have a lot of money, we have very little time. And then when we finally have time, we have neither the money nor the health.
(Vỗ tay) khi bạn nghĩ về mặt đối lập của công việc, chúng ta, rất nhiều lần, nghĩ đó là khi nhàn rỗi. Và bạn nói, ah, tôi cần chút thời gian nhàn rỗi, và v.v. Nhưng sự thật là, nhàn rỗi là một thứ rất bận rộn. Bạn chơi golf và tennis, và gặp gỡ mọi người, bạn đi ăn trưa, và đến trễ buổi chiếu phim. Chúng ta làm rất nhiều thứ. Mặt đối lập của công việc là sự biếng nhác. Nhưng rất ít người trong chúng ta biết phải làm gì với sự lười biếng. Khi bạn nhìn vào cách bạn xây dựng cuộc sống, bạn nhận ra, trong một khoảng thời gian nào đó chúng ta có rất nhiều tiền, và có rất ít thời gian. Và cuối cùng chúng ta cũng có thời gian, nhưng lại không có tiền bạc lẫn sức khỏe.
So we started thinking about that as a company for the last 30 years. This is a complicated company with thousands of employees, hundreds of millions of dollars of business that makes rocket fuel propellent systems, runs 4,000 ATMs in Brazil, does income tax preparation for dozens of thousands. So this is not a simple business.
Chúng tôi đã nghĩ về điều này như là một công ty trong 30 năm. Nó là một công ty phức tạp với hàng ngàn lao động, việc kinh doanh hàng trăm triệu đô để sản xuất ra những hệ thống tên lửa chạy bằng nhiên liệu, điều hành 4000 máy ATM tại Brazil, khai thuế thu nhập lên tới hàng chục ngàn. Nó không phải là một việc kinh doanh đơn giản.
We looked at it and we said, let's devolve to these people, let's give these people a company where we take away all the boarding school aspects of, this is when you arrive, this is how you dress, this is how you go to meetings, this is what you say, this is what you don't say, and let's see what's left. So we started this about 30 years ago, and we started dealing with this very issue. And so we said, look, the retirement, the whole issue of how we distribute our graph of life. Instead of going mountain climbing when you're 82, why don't you do it next week? And we'll do it like this, we'll sell you back your Wednesdays for 10 percent of your salary. So now, if you were going to be a violinist, which you probably weren't, you go and do this on Wednesday.
Chúng tôi nhìn vào nó và nói, hãy giao trách nhiệm cho những người này, hãy giao cho họ công ty nhưng loại bỏ các phương diện của trường nội trú như là thời gian đến, cách ăn mặc, họp hành như thế nào, được nói gì, không được nói gì, và xem chúng ta còn lại gì. Chúng tôi bắt đầu việc này cách đây 30 năm, và bắt đầu đối mặt với những vấn đề này. Và chúng ta nói, xem nào, nghỉ hưu là toàn bộ vấn đề của việc phân bố đồ thị cuộc sống. Thay vì đi leo núi khi ở tuổi 82, tại sao bạn không làm vào tuần tới? Và chúng tôi sẽ làm như thế này, chúng tôi sẽ bán lại cho bạn ngày Thứ Tư của bạn với 10% lương tháng của bạn. Bây giờ, nếu bạn là một nghệ sĩ vĩ cầm, thì bạn sẽ không thể làm gì, hãy làm điều đó vào ngày Thứ Tư này.
And what we found -- we thought, these are the older people who are going to be really interested in this program. And the average age of the first people who adhered were 29, of course. And so we started looking, and we said, we have to do things in a different way. So we started saying things like, why do we want to know what time you came to work, what time you left, etc.? Can't we exchange this for a contract for buying something from you, some kind of work? Why are we building these headquarters? Is it not an ego issue that we want to look solid and big and important? But we're dragging you two hours across town because of it?
Và cái chúng tôi tìm ra là -- chúng tôi nghĩ, chỉ có những người già mới cảm thấy thú vị với chương trình này. Và độ tuổi trung bình của những người tuân thủ việc này là 29. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm, để làm việc này theo một cách khác. Bắt đầu với những việc như, tại sao chúng tôi muốn biết giờ đi làm, giờ tan sở của bạn, vv..? Chúng tôi có thể đổi nó lấy một hợp đồng để mua từ bạn thứ gì đó, một loại công việc chẳng hạn? Tại sao chúng tôi xây dựng những trụ sở này? Không phải vì cái tôi cá nhân mà chúng tôi muốn tỏ ta mình vững chắc to lớn và quan trọng? Nhưng chúng tôi có kéo bạn đi 2 giờ khắp thị trấn vì nó?
So we started asking questions one by one. We'd say it like this: One: How do we find people? We'd go out and try and recruit people and we'd say, look, when you come to us, we're not going to have two or three interviews and then you're going to be married to us for life. That's not how we do the rest of our lives. So, come have your interviews. Anyone who's interested in interviewing, you will show up. And then we'll see what happens out of the intuition that rises from that, instead of just filling out the little items of whether you're the right person. And then, come back. Spend an afternoon, spend a whole day, talk to anybody you want. Make sure we are the bride you thought we were and not all the bullshit we put into our own ads. (Laughter)
Chúng tôi đã hỏi từng người một. Chúng tôi nói như thế này: Thứ nhất: Làm sao để chúng tôi tuyển người? Chúng tôi đi ra ngoài và cố gắng tuyển dụng người nào đó chúng tôi nói với bạn rằng, khi bạn đến với chúng tôi sẽ không có 2 hay 3 vòng phỏng vấn và bạn sẽ ở với chúng tôi cả đời này. Đó không phải là cách chúng ta làm với cuộc sống của chúng ta sau này. Vì thế, hãy đến các cuộc phỏng vấn. Những ai có hứng thú với việc phỏng vấn, bạn hãy thể hiện. Và sau đó chúng ta sẽ xem chuyện gì sẽ đến ngoài việc trực giác dần tăng lên, thay vì chỉ điền vào một số mục để xem bạn có phải là người phù hợp không. Sau đó, hãy trở lại. Hãy dành một buổi chiều, hay cả một ngày, nói chuyện với người mà bạn muốn. Hãy chắc chắn rằng chúng ta là những cô dâu như chúng ta muốn chứ không phải những thứ nhảm nhí mà chúng ta viết trên tờ quảng cáo. (Cười lớn) Từ từ, chúng ta sẽ đi đến một quá trình mà chúng ta sẽ nói những thứ như,
Slowly we went to a process where we'd say things like, we don't want anyone to be a leader in the company if they haven't been interviewed and approved by their future subordinates. Every six months, everyone gets evaluated, anonymously, as a leader. And this determines whether they should continue in that leadership position, which is many times situational, as you know. And so if they don't have 70, 80 percent of a grade, they don't stay, which is probably the reason why I haven't been CEO for more than 10 years. And over time, we started asking other questions.
chúng ta không muốn ai lãnh đạo công ty nếu họ chưa qua phỏng vấn và được thừa nhận bởi cấp dưới của họ. Mỗi 6 tháng, mỗi người đều được đánh giá, một cách ẩn danh, như một nhà lãnh đạo. Và điều này sẽ quyết định xem liệu họ có thể tiếp tục ở vị trí lãnh đạo, như bạn biết, sẽ có rất nhiều tình huống xảy ra. Và nếu họ không có 70%, 80% phiếu tín nhiệm, họ sẽ rời khỏi vị trí của mình, đây cũng là lý do tại sao tôi không thể là CEO hơn 10 năm. Qua một thời gian, chúng ta bắt đầu đặt ra những câu hỏi khác. Ví dụ như,
We said things like, why can't people set their own salaries? What do they need to know? There's only three things you need to know: how much people make inside the company, how much people make somewhere else in a similar business and how much we make in general to see whether we can afford it. So let's give people these three pieces of information. So we started having, in the cafeteria, a computer where you could go in and you could ask what someone spent, how much someone makes, what they make in benefits, what the company makes, what the margins are, and so forth. And this is 25 years ago.
tại sao chúng ta không thể tự đề ra mức lương của mình? Họ cần biết điều gì? Chỉ có 3 thứ bạn cần phải biết: Đó là, Có bao nhiêu người làm trong công ty, bao nhiêu người làm ở nơi khác trong một ngành nghề tương tự, và chúng ta đã làm những gì để xem chúng ta có đủ khả năng đó hay không. Hãy đưa cho mọi người 3 mẫu thông tin trên. Chúng ta bắt đầu, ở căn-tin với chiếc máy vi tính, bạn có thể đi vào và hỏi mọi người đã chi tiêu cái gì, kiếm ra bao nhiêu, họ làm ra lợi ích gì, công ty làm ra những gì, lợi nhuận là bao nhiêu, vân vân... Và đó là cách đây 25 năm. Vì thông tin này bắt đầu được mọi người biết đến,
As this information started coming to people, we said things like, we don't want to see your expense report, we don't want to know how many holidays you're taking, we don't want to know where you work. We had, at one point, 14 different offices around town, and we'd say, go to the one that's closest to your house, to the customer that you're going to visit today. Don't tell us where you are. And more, even when we had thousands of people, 5,000 people, we had two people in the H.R. department, and thankfully one of them has retired. (Laughter)
chúng tôi đã nói rằng, chúng tôi không muốn xem báo cáo chi tiêu của bạn, cũng không muốn biết bạn đã có bao nhiêu ngày nghỉ, hay bạn làm việc ở đâu. Chúng tôi có, tại 1 thời điểm, 14 văn phòng khác nhau trong thị trấn, bạn hãy đến 1 văn phòng gần nơi bạn ở nhất, gặp khách hàng mà bạn sẽ gặp hôm nay. Đừng nói với chúng tôi bạn ở đâu. Và, ngay cả khi chúng tôi có hàng ngàn người, 5 ngàn người, chúng tôi có 2 nười trong bộ phận nhân sự, và rất cảm ơn 1 trong số họ đã nghỉ hưu. (Cười lớn) Và vì thế, câu hỏi mà chúng ta đang đặt ra là, làm sao để chúng ta chăm sóc mọi người?
And so, the question we were asking was, how can we be taking care of people? People are the only thing we have. We can't have a department that runs after people and looks after people. So as we started finding that this worked, and we'd say, we're looking for -- and this is, I think, the main thing I was looking for in the terminal days and in the company, which is, how do you set up for wisdom? We've come from an age of revolution, industrial revolution, an age of information, an age of knowledge, but we're not any closer to the age of wisdom. How we design, how do we organize, for more wisdom? So for example, many times, what's the smartest or the intelligent decision doesn't jive. So we'd say things like, let's agree that you're going to sell 57 widgets per week. If you sell them by Wednesday, please go to the beach. Don't create a problem for us, for manufacturing, for application, then we have to buy new companies, we have to buy our competitors, we have to do all kinds of things because you sold too many widgets. So go to the beach and start again on Monday. (Laughter) (Applause)
Con người là thứ duy nhất mà chúng ta có. Chúng ta không thể có một bộ phận chạy theo và quản lý con người. Chúng ta lại bắt đầu tìm kiếm một cách làm hiệu quả và nó là, tôi nghĩ, cái chính mà tôi tìm kiếm trong những ngày cuối cùng và trong công ty là làm sao để bạn thiết lập sự khôn ngoan? Chúng ta đến từ thời đại của cải cách, ngành công nghiệp cải cách, thời đại của thông tin, thời đại của sự hiểu biết, nhưng chúng ta chưa từng đến gần với thời đại của sự khôn ngoan. Làm sao chúng ta thiết kế, tổ chức để trở nên khôn ngoan hơn? Ví dụ, đâu là quyết định thông minh và khôn ngoan nhất mà không có sự giả dối? Chúng tôi nói những điều như, chấp nhận rằng bạn sẽ bán được 57 món hàng mỗi tuần. Nếu bạn bán được số đó vào Thứ Tư thì hãy đi ra biển. Đừng tạo ra rắc rối cho chúng tôi, cho sản xuất, ứng dụng, sau đó, chúng ta phải mua những công ty mới, chúng ta phải mua lại đối thủ của mình, chúng ta phải làm đủ thứ việc bởi vì bạn đã bán quá nhiều thứ. Vậy nên, hãy đi biển và bắt đầu lại vào Thứ hai. (Cười lớn) (Vỗ tay) Tiến trình này tìm kiếm sự khôn ngoan.
So the process is looking for wisdom. And in the process, of course, we wanted people to know everything, and we wanted to be truly democratic about the way we ran things. So our board had two seats open with the same voting rights, for the first two people who showed up. (Laughter) And so we had cleaning ladies voting on a board meeting, which had a lot of other very important people in suits and ties. And the fact is that they kept us honest.
Và trong quá trình này, dĩ nhiên, chúng ta muốn mọi người biết mọi thứ, và chúng ta thật sự muốn sự dân chủ về cách vận hành mọi việc. Vì thế trong Hội đồng quản trị (HĐQT) có 2 ghế có quyền biểu quyết tương tự, dành cho 2 người đầu tiên xuất hiện. (Cười lớn) Và vì thế ngay cả cô lao công cũng có phiếu bầu trong cuộc họp HĐQT, nơi có rất nhiều người quan trọng khác trong trang phục vest và cà-vạt. Và sự thật là điều đó giúp chúng ta trở nên thành thật. Trong quá trình này, chúng ta tìm kiếm mọi người
This process, as we started looking at the people who came to us, we'd say, now wait a second, people come to us and they say, where am I supposed to sit? How am I supposed to work? Where am I going to be in 5 years' time? And we looked at that and we said, we have to start much earlier. Where do we start? We said, oh, kindergarten seems like a good place.
và chúng ta phải đợi, người nào đó đến và hỏi tôi sẽ phải ngồi ở đâu? Tôi sẽ phải làm việc như thế nào? Tôi sẽ ở đâu trong 5 năm tới? Chúng tôi nhìn họ và nói, chúng ta phải bắt đầu mọi thứ sớm hơn. Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu? À, nhà trẻ có vẻ là một nơi tốt. Vì thế chúng tôi lập một tổ chức, cho đến nay là 11 năm, với 3 trường,
So we set up a foundation, which now has, for 11 years, three schools, where we started asking the same questions, how do you redesign school for wisdom? It is one thing to say, we need to recycle the teachers, we need the directors to do more. But the fact is that what we do with education is entirely obsolete. The teacher's role is entirely obsolete. Going from a math class, to biology, to 14th-century France is very silly. (Applause) So we started thinking, what could it look like? And we put together people, including people who like education, people like Paulo Freire, and two ministers of education in Brazil and we said, if we were to design a school from scratch, what would it look like?
nơi chúng tôi đặt ra những câu hỏi như nhau, làm thế nào để thiết kế lại ngôi trường hợp lý hơn? Có điều là, chúng ta phải sử dụng lại giáo viên, chúng ta cần vị giám đốc làm nhiều hơn. Và sự thật là cái chúng ta đang làm với giáo dục là hoàn toàn lỗi thời. Vai trò của giáo viên là hoàn toàn lỗi thời. Từ lớp toán, cho đến lớp sinh học, cho đến Pháp thế kỷ 14 là rất ngớ ngẩn. (Vỗ tay) Chúng ta bắt đầu suy nghĩ, nó sẽ trông như thế nào? Chúng ta để mọi người lại với nhau, bao gồm cả những người thích giáo dục, những người thích Paulo Freire, và 2 bộ trưởng giáo dục của Brasil và chúng tôi nói với họ, nếu chúng tôi thiết kế một ngôi trường lại từ đầu, nó sẽ trông như thế nào? Và chúng tôi đã thiết kế ngôi trường này, nó gọi là Lumiar,
And so we created this school, which is called Lumiar, and Lumiar, one of them is a public school, and Lumiar says the following: Let's divide this role of the teacher into two. One guy, we'll call a tutor. A tutor, in the old sense of the Greek "paideia": Look after the kid. What's happening at home, what's their moment in life, etc.. But please don't teach, because the little you know compared to Google, we don't want to know. Keep that to yourself. (Laughter) Now, we'll bring in people who have two things: passion and expertise, and it could be their profession or not. And we use the senior citizens, who are 25 percent of the population with wisdom that nobody wants anymore. So we bring them to school and we say, teach these kids whatever you really believe in. So we have violinists teaching math. We have all kinds of things where we say, don't worry about the course material anymore. We have approximately 10 great threads that go from 2 to 17. Things like, how do we measure ourselves as humans? So there's a place for math and physics and all that there. How do we express ourselves? So there's a place for music and literature, etc., but also for grammar.
và Lumiar, một trong số chúng là trường công lập, Và Lumiar nói rằng: Hãy chia vai trò của giáo viên làm 2 phần: Một người, chúng ta gọi là gia sư. Một gia sư, theo nghĩa cũ trong tiếng Hy Lạp "paideia" là chăn sóc những đứa trẻ. Những gì xảy ra ở nhà, những khoảnh khắc trong cuộc sống của họ, vv.. Nhưng xin đừng dạy chúng, bởi vì những thứ ít ỏi bạn biết so với Google, chúng tôi không muốn biết. Hãy giữ điều đó cho bản thân bạn. (Cười lớn) Và bây giờ, chúng ta cần những người có 2 thứ: đam mê và chuyên môn, và nó có thể là nghề nghiệp của họ hoặc không. Chúng ta dùng những công dân cao niên, những người chiếm 25% dân số với sự khôn ngoan nhưng không ai muốn cả. Chúng tôi đưa họ đến trường và nói rằng, hãy dạy những đứa trẻ này bất cứ điều gì mà bạn tin tưởng. Vì thế, chúng tôi có những nghệ sĩ vĩ cầm dạy toán. Chúng tôi có đủ mọi thứ, nơi chúng tôi gọi là đừng lo lắng gì về tài liệu cho khóa học nữa. Chúng tôi có gần 10 chủ đề lớn từ 2 đến 17 tuổi. Những thứ như, làm sao để đo lường chúng ta là con người? Đó là nơi của toán học và vật lý và tất cả mọi thứ. Làm sao để chúng ta thể hiện chính mình? Đó là nơi của âm nhạc và văn học, vv.. cũng như ngữ pháp. Và có những thứ mà mọi người quên mất,
And then we have things that everyone has forgotten, which are probably the most important things in life. The very important things in life, we know nothing about. We know nothing about love, we know nothing about death, we know nothing about why we're here. So we need a thread in school that talks about everything we don't know. So that's a big part of what we do. (Applause) So over the years, we started going into other things. We'd say, why do we have to scold the kids and say, sit down and come here and do that, and so forth. We said, let's get the kids to do something we call a circle, which meets once a week. And we'd say, you put the rules together and then you decide what you want to do with it. So can you all hit yourself on the head? Sure, for a week, try. They came up with the very same rules that we had, except they're theirs. And then, they have the power, which means, they can and do suspend and expel kids so that we're not playing school, they really decide.
là những thứ mà có thể là quan trọng nhất trong cuộc sống. Những thứ quan trọng nhất, nhưng chúng ta không biết gì về chúng. Chúng ta không biết gì về tình yêu, Chúng ta không biết gì về cái chết, Chúng ta không biết gì về lý do chúng ta ở đây. Vì thế, chúng ta cần một chủ đề trong trường để nói về những thứ mà chúng ta không biết. Đó chính là một phần lớn trong những thứ chúng ta làm. (Vỗ tay) Trải qua nhiều năm, chúng ta bắt đầu đi sâu và những thứ khác. Tại sao chúng ta phải la rầy những đứa trẻ bảo chúng ngồi xuống, đến đây và làm điều đó, và vân vân... Hãy để những đứa trẻ làm những việc như chúng ta gọi là một vòng tròn, và sẽ lặp lại 1 lần 1 tuần. Hãy đặt ra những luật lệ và quyết định xem bạn sẽ làm gì với chúng. Và bạn có thể làm mọi thứ đúng theo ý mình? Chắc chắn, trong 1 tuần, hãy thử xem. Họ đã đưa ra những quy tắc rất giống chúng ta, ngoại trừ, họ là họ. Và sau đó, họ có quyền lực có nghĩa là, họ có thể đình chỉ và đuổi học những đứa trẻ, không phải là trò chơi, họ thật sự quyết định được. Và sau đó, trong cùng 1 tính chất
And then, in this same vein, we keep a digital mosaic, because this is not constructivist or Montessori or something. It's something where we keep the Brazilian curriculum with 600 tiles of a mosaic, which we want to expose these kids to by the time they're 17. And follow this all the time and we know how they're doing and we say, you're not interested in this now, let's wait a year. And the kids are in groups that don't have an age category, so the six-year-old kid who is ready for that with an 11-year-old, that eliminates all of the gangs and the groups and this stuff that we have in the schools, in general. And they have a zero to 100 percent grading, which they do themselves with an app every couple of hours. Until we know they're 37 percent of the way we'd like them to be on this issue, so that we can send them out in the world with them knowing enough about it. And so the courses are World Cup Soccer, or building a bicycle. And people will sign up for a 45-day course on building a bicycle. Now, try to build a bicycle without knowing that pi is 3.1416. You can't. And try, any one of you, using 3.1416 for something. You don't know anymore. So this is lost and that's what we try to do there, which is looking for wisdom in that school.
chúng tôi giữ 1 bức tranh kỹ thuật số, bởi vì đây không phải là một sự kiến tạo hay phương pháp Montessori hay thứ gì đó. Nó là thứ gì đó, nơi mà chúng ta giữ chương trình đào tạo của brazil với hơn 600 tựa đề kỹ thuật số, mà chúng tôi muốn cho những đứa trẻ này biết khi chúng 17 tuổi. Theo dõi điều này mọi lúc và chúng tôi biết họ đang làm gì có thể nói rằng, nếu bạn không thấy hứng thú với nó lúc này, thì hãy chờ 1 năm. Và những đứa trẻ ở trong 1 nhóm mà không cùng độ tuổi, những đứa trẻ 16 tuổi đã sẵn sàng cho điều đó với những trẻ 11 tuổi, điều đó làm loại bỏ tất cả các băng nhóm và các nhóm khác và đó là những thứ chúng ta có ở trường học, nhìn chung là thế. Họ có những phân loại từ 0% đến 100%, nhờ những ứng dụng trong mỗi 2 giờ. Cho đến khi chúng ta biết chúng đã đáp ứng được 37% yêu cầu, và chúng đủ khả năng để có thể tồn tại. Các khóa học như World cup bóng đá, hay làm một chiếc xe đạp. Mọi người sẽ đăng kí khóa học 45 ngày để làm ra một chiếc xe đạp. Thử xem, làm sao để làm ra 1 chiếc xe đạp khi không biết số pi là 3.1416 Không thể làm được. Hay, ai đó trong các bạn sử dụng 3.1416 cho thứ gì đó. Bạn không biết thêm bất cứ gì nữa. Đây chính là sự thiếu sót và cũng là thứ chúng ta cố gắng để làm, để tìm ra sự khôn ngoan trong trường học. Và nó đem chúng ta quay về với biểu đồ này, và điều này phân bố trong cuộc sống của chúng ta.
And that brings us back to this graph and this distribution of our life. I accumulated a lot of money when I think about it. When you think and you say, now is the time to give back -- well, if you're giving back, you took too much. (Laughter) (Applause) I keep thinking of Warren Buffet waking up one day and finding out he has 30 billion dollars more than he thought he had. And he looks and he says, what am I going to do with this? And he says, I'll give it to someone who really needs this. I'll give it to Bill Gates. (Laughter) And my guy, who's my financial advisor in New York, he says, look, you're a silly guy because you would have 4.1 times more money today if you had made money with money instead of sharing as you go. But I like sharing as you go better. (Applause)
Tôi đã tích lũy được rất nhiều tiền khi tôi nghĩ về nó. Khi bạn suy nghĩ và nói rằng, bây giờ là lúc để trả lại, à, nếu bạn đang trả lại, thì bạn đã lấy quá nhiều thứ. (Cười lớn) (Vỗ tay) Tôi nghĩ về Warren Buffet tỉnh dậy vào 1 ngày nào đó và phát hiện ra ông ta có 30 tỉ đô, nhiều hơn những gì ông ta nghĩ. Ông ta nhìn nó và nói, tôi sẽ làm gì với nó đây? Và ông ta nói, tôi sẽ đưa số tiền này cho một người nào đó thật sự cần nó. Tôi sẽ đưa nó cho Bill Gates. (Cưới lớn) Các bạn của tôi, những người là tư vấn tài chính của tôi ở New York, anh ta nói, nhìn xem, cậu là một người vớ vẩn bởi vì cậu có thể có số tiền nhiều hơn 4.1 lần so với hôm nay nếu cậu kiếm ra tiền từ tiền thay vì cứ cho bớt đi như vậy. Nhưng tôi thích việc cậu cho bớt đi hơn. (Vỗ tay) Tôi dạy chương trình MGA ở MIT trong 1 khoảng thời gian
I taught MBAs at MIT for a time and I ended up, one day, at the Mount Auburn Cemetery. It is a beautiful cemetery in Cambridge. And I was walking around. It was my birthday and I was thinking. And the first time around, I saw these tombstones and these wonderful people who'd done great things and I thought, what do I want to be remembered for? And I did another stroll around, and the second time, another question came to me, which did me better, which was, why do I want to be remembered at all? (Laughter) And that, I think, took me different places. When I was 50, my wife Fernanda and I sat for a whole afternoon, we had a big pit with fire, and I threw everything I had ever done into that fire. This is a book in 38 languages, hundreds and hundreds of articles and DVDs, everything there was. And that did two things. One, it freed our five kids from following in our steps, our shadow -- They don't know what I do. (Laughter) Which is good. And I'm not going to take them somewhere and say, one day all of this will be yours. (Laughter) The five kids know nothing, which is good.
và cuối cùng, vào 1 ngày, ở nghĩa trang Núi Auburn. Đó là 1 nghĩa trang tuyệt đẹp ở Cambrigde. Tôi đang đi dạo xung quanh. Hôm đó là sinh nhật tôi và tôi đang suy nghĩ. Ở vòng thứ nhất, tôi đã nhìn thấy những tấm bia mộ và những người tuyệt vời đã làm những điều rất tuyệt vời và tôi nghĩ, tôi muốn làm gì để được nhớ đến? Và tôi đi thêm một vòng nữa, ở lần thứ 2, một câu hỏi khác đến với tôi, điều gì làm tôi trở nên tốt hơn, nó là gì, tại sao tôi lại muốn được nhớ đến như vậy? (Cười lớn) Và điều đó, tôi nghĩ, đã đưa tôi đến những nơi khác. Khi tôi 50, vợ tôi Fernanda và tôi ngồi cùng nhau vào một buổi trưa, chúng tôi đã nhóm 1 đống lửa lớn, và tôi ném tất cả mọi thứ tôi đã làm vào đống lứa đó. Là cuốn sách với 38 thứ tiếng, và hàng trăm hàng ngàn những bài báo và DVD, mọi thứ. Và điều đó đã làm được 2 việc. Thứ nhất, nó giải phóng 5 đứa con của chúng tôi đi theo bước cha mẹ, đi theo cái bóng của chúng tôi -- Chúng không biết tôi đã làm gì. (Cười lớn) Đó là điều tốt. Và tôi sẽ không dẫn chúng đến nơi nào đó và nói với chúng, một ngày nào đó tất cả những thứ này sẽ là của con. (Cười lớn) 5 đứa trẻ không biết gì hết, đó là điều tốt. Và điều thứ 2 là,
And the second thing is, I freed myself from this anchor of past achievement or whatever. I'm free to start something new every time and to decide things from scratch in part of those terminal days. And some people would say, oh, so now you have this time, these terminal days, and so you go out and do everything. No, we've been to the beaches, so we've been to Samoa and Maldives and Mozambique, so that's done. I've climbed mountains in the Himalayas. I've gone down 60 meters to see hammerhead sharks. I've spent 59 days on the back of a camel from Chad to Timbuktu. I've gone to the magnetic North Pole on a dog sled. So, we've been busy. It's what I'd like to call my empty bucket list. (Laughter)
Tôi giải phóng bản thân mình khỏi cái neo của những thành tích trong quá khứ hay bất cứ thứ gì. Tôi tự do để bắt đầu thứ gì đó mới mẻ và quyết định mọi thứ lại từ đầu trong một phần của những ngày cuối này. Một vài người sẽ nói, ồ, thế là bây giờ anh có khoảng thời gian này, những ngày cuối cùng, anh đi ra ngoài và làm mọi thứ. Không, chúng tôi đã đi đến bãi biển, chúng tôi đã đến Samoa và Maldives, và Mozambique, chỉ như vậy. Tôi đã leo lên những ngọn núi ở dãy Himalayas. Tôi đã lặn sâu 60 mét để xem loài cá mập đầu búa. Tôi đã trải qua 59 ngày trên lưng một con lạc đà để đi từ Chad đến Timbuktu. Tôi đã đến Cực Bắc từ bằng một chiếc xe trượt tuyết chó. Vì thế, chúng tôi rất bận. Nó là thứ mà tôi thích gọi là danh sách những điều tôi phải làm trước khi chết. (Cười lớn) Và với lý do này, tôi nhìn lại những ngày này và nghĩ,
And with this rationale, I look at these days and I think, I'm not retired. I don't feel retired at all. And so I'm writing a new book. We started three new companies in the last two years. I'm now working on getting this school system for free out into the world, and I've found, very interestingly enough, that nobody wants it for free. And so I've been trying for 10 years to get the public system to take over this school rationale, much as the public schools we have, which has instead of 43 out of 100, as their rating, as their grades, has 91 out of 100. But for free, nobody wants it. So maybe we'll start charging for it and then it will go somewhere. But getting this out is one of the things we want to do.
Tôi không nghỉ hưu. Tôi không thấy tôi đang nghỉ hưu tí nào cả. Và ví thế, tôi đang viết một cuốn sách mới. Chúng tôi đã thành lập 3 công ty mới trong 2 năm qua. Tôi đang làm việc để biến hệ thống trường học miễn phí này mở rộng trên thế giới, và tôi thấy rằng, khá thú vị, rằng không một ai muốn 1 trường học miễn phí. Tôi đã cố gắng trong 10 năm để một hệ thống công cộng tiếp nhận ngôi trường này một cách hợp lý, như những trường công mà chúng ta có, để thay vì là 43/100 trường như tỷ lệ của họ thì chúng ta có 91/100 trường. Nhưng vì là miễn phí, nên không ai muốn cả. Vì thế, có lẽ chúng tôi sẽ bắt đầu thu phí và số tiền này sẽ có thể dùng vào đâu đó. Nhưng để trường này được công nhận là một trong những điều mà chúng tôi muốn. Tôi nghĩ, điều này để lại cho chúng tôi một tin nhắn cho tất cả các bạn,
And I think what this leaves us as a message for all of you, I think is a little bit like this: We've all learned how to go on Sunday night to email and work from home. But very few of us have learned how to go to the movies on Monday afternoon. And if we're looking for wisdom, we need to learn to do that as well. And so, what we've done all of these years is very simple, is use the little tool, which is ask three whys in a row. Because the first why you always have a good answer for. The second why, it starts getting difficult. By the third why, you don't really know why you're doing what you're doing. What I want to leave you with is the seed and the thought that maybe if you do this, you will come to the question, what for? What am I doing this for? And hopefully, as a result of that, and over time, I hope that with this, and that's what I'm wishing you, you'll have a much wiser future. Thank you very much. (Applause)
nó sẽ gần giống như: Chúng ta đều học được cách để về nhà vào tối Chủ nhật để gửi email và làm việc. Nhưng rất ít người trong chúng ta học được cách để đi xem phim và trưa Thứ hai. Và nếu chúng ta đang tìm kiếm sự khôn ngoan, chúng ta phải học để làm được điều đó nữa. Những thứ chúng ta đã làm trong những năm này rất đơn giản, sử dụng 1 công cụ nhỏ, đó là hỏi 3 câu hỏi tại sao trong 1 hàng. Bởi vì câu hỏi tại sao đầu tiên, bạn sẽ luôn luôn có 1 câu trả lời tốt. Câu hỏi tại sao thứ 2, sẽ hơi khó. Nhưng đến câu thứ 3, bạn sẽ không biết bạn đang làm cái gì. Điều mà tôi muốn để lại cho các bạn là những hạt giống và suy nghĩ rằng nếu các bạn làm điều này, bạn se đi đến câu hỏi, để làm gì? Tôi làm điều này để làm gì? Và hy vọng rằng, kết quả của nó, theo thời gian, tôi hy vọng, và mong ước điều đó cho bạn, bạn sẽ có một tương lai khôn ngoan hơn. Cảm ơn rất nhiều. (Vỗ tay) Chris Anderson: Ricardo, Anh quả là điên rồ.
Chris Anderson: So Ricardo, you're kind of crazy. (Laughter) To many people, this seems crazy. And yet so deeply wise, also. The pieces I'm trying to put together are this: Your ideas are so radical. How, in business, for example, these ideas have been out for a while, probably the percentage of businesses that have taken some of them is still quite low. Are there any times you've seen some big company take on one of your ideas and you've gone, "Yes!"?
(Cười lớn) Với nhiều người, nó quả thật điên rồ. Nhưng cũng rất sâu sắc khôn ngoan. Những mảnh ghép tôi muốn để chung với nhau là: Ý tưởng của bạn phải thật căn bản. Như thế nào, trong doanh nghiệp, ví dụ, những ý tưởng này sẽ bị loại sớm, vì phần trăm các doanh nghiệp chọn nó là khá thấp. Có khi nào bạn thấy một công ty lớn sử dụng ý tưởng của bạn khi bạn đã nghỉ việc, Có không? Ricardo Semler: Nó đã xảy ra. Cách đây 2 tuần,
Ricardo Semler: It happens. It happened about two weeks ago with Richard Branson, with his people saying, oh, I don't want to control your holidays anymore, or Netflix does a little bit of this and that, but I don't think it's very important. I'd like to see it happen maybe a little bit in a bit of a missionary zeal, but that's a very personal one. But the fact is that it takes a leap of faith about losing control. And almost nobody who is in control is ready to take leaps of faith. It will have to come from kids and other people who are starting companies in a different way.
với Richard Branson, nhân viên của anh ta nói, oh, tôi không muốn kiểm soát những kỳ nghỉ lễ của anh nữa, hay Netflix làm một ít cái này và cái kia, Nhưng tôi không nghĩ nó quan trọng. Tôi muốn thấy nó xảy ra, có thể là 1 ít trong 1 ít của 1 nhà truyền giáo nhiệt huyết, nhưng điều này mang tính rất cá nhân. Nhưng sự thật, đó là một bước nhảy vọt của đức tin về việc mất kiểm soát. Hầu như không có ai có kiểm soát mà sẵn sàng để tiếp nhận một bước nhảy vọt củ đức tin. Nó phải đến từ lúc còn nhỏ và những người khởi nghiệp bằng một cách khác. CA: Vậy đó là vấn đề mấu chốt?
CA: So that's the key thing? From your point of view the evidence is there, in the business point of view this works, but people just don't have the courage to -- (Whoosh)
Từ quan điểm của anh bằng chứng là ở đó, ở góc cạnh của doanh nghiêp thì nó đúng, nhưng mọi người không có động lực để làm (Whoosh) RS: Họ còn còn có sự khích lệ nào.
RS: They don't even have the incentive. You're running a company with a 90-day mandate. It's a quarterly report. If you're not good in 90 days, you're out. So you say, "Here's a great program that, in less than one generation --" And the guy says, "Get out of here." So this is the problem. (Laughter)
Bạn đang điều hành 1 công ty với một nhiệm vụ trong 90 ngày. Đó là bản báo cáo hàng quý. Nếu bạn làm không tốt trong 90 ngày, bạn bị sa thải. Bạn nói: "Đây là một chương trình tuyệt vời, mà chỉ ít hơn một thế hệ --" Và họ nói, "Cút ra khỏi đây." Và đây là vấn đề. (Cười lớn) CA: Anh đã cố gắng làm những gì với nền giáo dục mà dường như với tôi là vô cùng sâu sắc.
CA: What you're trying to do in education seems to me incredibly profound. Everyone is bothered about their country's education system. No one thinks that we've caught up yet to a world where there's Google and all these technological options. So you've got actual evidence now that the kids so far going through your system, there's a dramatic increase in performance. How do we help you move these ideas forward?
Mọi người đều bận tâm về hệ thống giáo dục của đất nước mình. Không một ai nghĩ rằng chúng ta chưa bắt kịp với thế giới nơi mà có Google và tất cả các lựa chọn công nghệ. Bạn có các bằng chứng cuối cùng rằng bọn trẻ sẽ trải qua hệ thống này và chúng sẽ phát triển đáng kể trong các hoạt động. Làm thế nào để chúng tôi giúp bạn phát triển những ý tưởng này? RS: Tôi nghĩ đó là vấn đề của những ý tưởng khi thời gian đến.
RS: I think it's that problem of ideas whose time has come. And I've never been very evangelical about these things. We put it out there. Suddenly, you find people -- there's a group in Japan, which scares me very much, which is called the Semlerists, and they have 120 companies. They've invited me. I've always been scared to go. And there is a group in Holland that has 600 small, Dutch companies. It's something that will flourish on its own. Part of it will be wrong, and it doesn't matter. This will find its own place. And I'm afraid of the other one, which says, this is so good you've got to do this. Let's set up a system and put lots of money into it and then people will do it no matter what.
Và tôi không bao giờ quá vui mừng về những điều này. Chúng tôi cứ để chúng đó. Đột nhiên, bạn tìm thấy vài người -- đó là 1 nhóm người Nhật, họ làm tôi rất sợ, họ được gọi là Semlerists, họ có đến 120 công ty. Họ mời tôi. Và tôi luôn luôn có cảm giác sợ hãi khi đi với họ. Và có 1 nhóm người Hà Lan, có khoảng 600 công ty nhỏ. Đó là một thứ gì đó mà tự nó sẽ phát triển mạnh mẽ. Một phần của nó sẽ sai, nhưng cũng không thành vấn đề. Nó sẽ tìm được vị trí của mình. Và tôi sợ rằng, với những thứ khác, những thứ mà có thể hiểu rằng rất tốt, và bạn nên thực hiện nó. Hãy thiết lập một hệ thống và ném vào đó thật nhiều tiền và mọi người sẽ vận hành nó, không vấn đề gì. CA: Vì vậy, anh đã hỏi những câu hỏi bất thường trong suốt cuộc đời mình.
CA: So you have asked extraordinary questions your whole life. It seems to me that's the fuel that's driven a lot of this. Do you have any other questions for us, for TED, for this group here?
Dường như với tôi, năng lượng được dốc toàn lực vào việc này. Anh có câu hỏi nào cho chúng tôi, cho TED, cho mọi người ở đây không? RS: Tôi luôn luôn có đủ các loại câu hỏi
RS: I always come back to variations of the question that my son asked me when he was three. We were sitting in a jacuzzi, and he said, "Dad, why do we exist?" There is no other question. Nobody has any other question. We have variations of this one question, from three onwards. So when you spend time in a company, in a bureaucracy, in an organization and you're saying, boy -- how many people do you know who on their death beds said, boy, I wish I had spent more time at the office? So there's a whole thing of having the courage now -- not in a week, not in two months, not when you find out you have something -- to say, no, what am I doing this for? Stop everything. Let me do something else. And it will be okay, it will be much better than what you're doing, if you're stuck in a process.
mà con trai tôi đã hỏi tôi khi nó 3 tuổi. Chúng tôi ngồi trong bể sục, và nó hỏi, "Bố, tại sao chúng ta lại tồn tại?" Không có câu hỏi nào khác. Không ai có câu hỏi nào khác phải không. Chúng ta có rất nhiều biến thể của câu hỏi này từ lúc 3 tuổi trở lên. Vì thế, khi bạn ở công ty, ở một bộ máy quan liêu, ở trong 1 tổ chức và bạn nói, cậu bé -- có bao nhiêu người cậu biết mà khi đang nằm trên giường bệnh chờ chết nói rằng, tôi ước rằng tôi đã dành nhiều thời gian ở văn phòng làm việc hơn? Toàn bộ vấn đề ở đây là có sự khích lệ -- không chỉ 1 tuần, hay 2 tháng không phải khi bạn biết rằng bạn có gì đó -- không, phải là tôi đang làm vì điều gì? Hãy dừng mọi thứ. HAãy làm thứ gì khác. Và điều đó sẽ tốt thôi, nó sẽ tốt hơn việc mà bạn đang làm, nếu bạn bị mắc kẹt trong 1 tiến trình. CA: Và điều này làm tôi trở nên sâu sắc và là cách khá đẹp để kết thúc
CA: So that strikes me as a profound and quite beautiful way to end this penultimate day of TED. Ricardo Semler, thank you so much. RS: Thank you so much.
ngày áp chót này của TED. Ricardo Semler, cảm ơn anh. RS: Cảm ơn tất cả mọi người. (Vỗ tay)
(Applause)
(Vỗ tay)