Let me tell you a story. It goes back 200 million years. It's a story of the neocortex, which means "new rind." So in these early mammals, because only mammals have a neocortex, rodent-like creatures. It was the size of a postage stamp and just as thin, and was a thin covering around their walnut-sized brain, but it was capable of a new type of thinking. Rather than the fixed behaviors that non-mammalian animals have, it could invent new behaviors. So a mouse is escaping a predator, its path is blocked, it'll try to invent a new solution. That may work, it may not, but if it does, it will remember that and have a new behavior, and that can actually spread virally through the rest of the community. Another mouse watching this could say, "Hey, that was pretty clever, going around that rock," and it could adopt a new behavior as well.
Để tôi kể cho quí vị một câu chuyện. xảy ra vào 200 triệu năm trước. Đó là câu chuyện về phần vỏ não. có nghĩa là "vỏ mới" Ở những loài động vật có vú đầu tiên bởi vì chỉ có động vật có vú mới sở hữu phần vỏ não trông giống như loài gặm nhấm, vỏ não chỉ có kích cỡ của 1 con tem và cũng mỏng bằng như vậy, và là một lớp bao bọc mỏng dính quanh bộ não có kích cỡ bằng quả óc chó, nhưng lại có thể suy nghĩ theo một cách mới. Thay vì những hành vi thuộc dạng bản năng mà những loài không thuộc loại động vật có vú có được não còn có thể tạo ra những hành vi mới. Nên khi một con chuột đang chạy trốn kẻ thù, nếu đường đi của nó bị chặn, nó sẽ cố tìm cách đào thoát. Cách này đôi khi thực hiện được, và cũng có thể không, nhưng thực hiện được, con chuột sẽ nhớ điều đó và hình thành một hành vi mới. Hành vi đó thực sự có thể lan truyền rộng rãi trong toàn bộ cộng đồng. Một con chuột khác chứng kiến hành động đó có thể nói, "Này, đi vòng qua hòn đá đó đúng là một việc làm thông minh," và nó cũng có thể học theo hành vi đó.
Non-mammalian animals couldn't do any of those things. They had fixed behaviors. Now they could learn a new behavior but not in the course of one lifetime. In the course of maybe a thousand lifetimes, it could evolve a new fixed behavior. That was perfectly okay 200 million years ago. The environment changed very slowly. It could take 10,000 years for there to be a significant environmental change, and during that period of time it would evolve a new behavior.
Động vật không thuộc loài có vú không thể làm những điều trên. Chúng chỉ có những hành vi nhất định. Chúng có thể học một hành vi mới nhưng không phải trong một vòng đời. Xuyên suốt có lẽ hàng ngàn cuộc đời, nó mới có thể tiến hoá để tạo ra một hành vi theo bản năng mới. Điều đó hoàn toàn ổn vào 200 triệu năm trước. Môi trường lúc đó thay đổi rất chậm. Có thể cần đến 10,000 năm cho một thay đổi lớn trong môi trường, và trong khoảng thời gian đó, chúng có thể tiến hoá thêm một hành vi mới
Now that went along fine, but then something happened. Sixty-five million years ago, there was a sudden, violent change to the environment. We call it the Cretaceous extinction event. That's when the dinosaurs went extinct, that's when 75 percent of the animal and plant species went extinct, and that's when mammals overtook their ecological niche, and to anthropomorphize, biological evolution said, "Hmm, this neocortex is pretty good stuff," and it began to grow it. And mammals got bigger, their brains got bigger at an even faster pace, and the neocortex got bigger even faster than that and developed these distinctive ridges and folds basically to increase its surface area. If you took the human neocortex and stretched it out, it's about the size of a table napkin, and it's still a thin structure. It's about the thickness of a table napkin. But it has so many convolutions and ridges it's now 80 percent of our brain, and that's where we do our thinking, and it's the great sublimator. We still have that old brain that provides our basic drives and motivations, but I may have a drive for conquest, and that'll be sublimated by the neocortex into writing a poem or inventing an app or giving a TED Talk, and it's really the neocortex that's where the action is.
Điều đó có vẻ ổn, nhưng rồi một việc chấn động xảy ra 65 triệu năm trước, có một sự thay đổi đột ngột và dữ dội trong môi trường. Chúng ta gọi đó là tuyệt chủng Cretaceous [Kỷ Phấn trắng]. Đó là khi loài khủng long bị tuyệt chủng, khi 75% các loài động vật và thực vật bị tuyệt chủng, và là khi loài động vật có vú chiếm vị trí sinh thái của các loài khác, và, nói một cách nhân hoá, sự tiến hoá sinh vật giải thích "Hmm, cái vỏ não này khá là tốt," và nó bắt đầu phát triển vỏ não. Khi động vật có vú trở nên to hơn, não của chúng to lên còn nhanh hơn, và phần vỏ não to lên còn nhanh hơn nữa, và nó phát triển những khe rãnh và nếp gấp chủ yếu để tăng diện tích bề mặt. Nếu bạn lấy phần vỏ não của con người và trải nó phẳng ra, nó to bằng một cái khăn ăn, và vẫn rất mỏng. Nó chỉ dày bằng một cái khăn ăn. Nhưng nó có quá nhiều nếp gấp và khe rãnh đến nỗi hiện giờ nó chiếm khoảng 80% bộ não của chúng ta, và đó là nơi chúng ta thực hiện việc suy nghĩ, và đó là một cái máy nâng cấp vĩ đại. Chúng ta vẫn còn bộ não cũ cung cấp cho ta các động cơ và động lực cơ bản Tôi có thể có động cơ chinh phục cái gì đó, và phần vỏ não sẽ nâng cấp nó thành việc viết một bài thơ hay phát minh ra một ứng dụng, hay thuyết trình ở TED, và phần vỏ não thực sự là nơi hành động bắt đầu.
Fifty years ago, I wrote a paper describing how I thought the brain worked, and I described it as a series of modules. Each module could do things with a pattern. It could learn a pattern. It could remember a pattern. It could implement a pattern. And these modules were organized in hierarchies, and we created that hierarchy with our own thinking. And there was actually very little to go on 50 years ago. It led me to meet President Johnson. I've been thinking about this for 50 years, and a year and a half ago I came out with the book "How To Create A Mind," which has the same thesis, but now there's a plethora of evidence. The amount of data we're getting about the brain from neuroscience is doubling every year. Spatial resolution of brainscanning of all types is doubling every year. We can now see inside a living brain and see individual interneural connections connecting in real time, firing in real time. We can see your brain create your thoughts. We can see your thoughts create your brain, which is really key to how it works.
50 năm trước, tôi viết một bài báo miêu tả cách thức, theo tôi nghĩ, làm bộ não hoạt động, và tôi miêu tả nó như một chuỗi các mảnh ghép. Mỗi mảnh có thế làm việc theo một mô hình nào đó. Nó có thể học và ghi nhớ một mô hình mới. Nó có thể cải thiện một mô hình. Và những mảnh ghép này được sắp xếp theo thứ bậc, và chúng ta tạo ra thứ bậc đó với chính việc suy nghĩ của mình. Và thực sự chưa có gì xảy ra 50 năm về trước. Việc đó đã cho tôi cơ hội gặp Tổng thống Johnson. Tôi đã suy nghĩ về việc này trong 50 năm, và 1 năm rưỡi trước đây tôi cho ra đời quyển sách, "Làm sao để tạo nên trí tuệ" cùng chung một chủ đề, nhưng bây giờ thì có hằng hà sa số chứng cứ. Khối lượng thông tin chúng ta đạt được về bộ não từ ngành khoa học thần kinh tăng lên 2 lần hằng năm. Độ phân giải không gian của đủ loại chụp hình não tăng gấp đôi hằng năm. Bây giờ chúng ta có thể nhìn vào bên trong một bộ não sống và nhìn thấy từng liên kết riêng lẻ giữa nơron với nơron kết nối trong thời gian thực, phóng điện trong thời gian thực. Chúng ta có thể nhìn bộ não tạo ra ý nghĩ. Chúng ta có thể nhìn thấy các ý nghĩ tạo ra bộ não, chìa khoá mở ra việc nó hoạt động như thế nào.
So let me describe briefly how it works. I've actually counted these modules. We have about 300 million of them, and we create them in these hierarchies. I'll give you a simple example. I've got a bunch of modules that can recognize the crossbar to a capital A, and that's all they care about. A beautiful song can play, a pretty girl could walk by, they don't care, but they see a crossbar to a capital A, they get very excited and they say "crossbar," and they put out a high probability on their output axon. That goes to the next level, and these layers are organized in conceptual levels. Each is more abstract than the next one, so the next one might say "capital A." That goes up to a higher level that might say "Apple." Information flows down also. If the apple recognizer has seen A-P-P-L, it'll think to itself, "Hmm, I think an E is probably likely," and it'll send a signal down to all the E recognizers saying, "Be on the lookout for an E, I think one might be coming." The E recognizers will lower their threshold and they see some sloppy thing, could be an E. Ordinarily you wouldn't think so, but we're expecting an E, it's good enough, and yeah, I've seen an E, and then apple says, "Yeah, I've seen an Apple."
Để tôi miêu tả ngắn gọn cách làm việc của nó. Tôi đã tận tay đếm những mảnh ghép này. Chúng ta có chừng 300 triệu mảnh, và chúng ta tạo ra chúng theo các thứ bậc này. Tôi sẽ cho bạn một ví dụ đơn giản. Tôi có một số mảnh ghép có thể nhận ra dấu gạch ngang của một chữ A in hoa, và đó là tất cả những gì chúng nó quan tâm. Một bài hát hay có thể vang lên, một cô gái đẹp có thể đi ngang qua, chúng không quan tâm, nhưng nếu chúng thấy dấu gạch ngang của chữ A , chúng trở nên rất phấn khích và chúng nói, "dấu gạch ngang!", và chúng đưa ra một luồng điện trên sợi thần kinh đầu ra. Luồng điện đó đi tới thứ bậc tiếp theo, và những lớp này được sắp xếp thành những cấp bậc dựa trên mức độ khái niệm. Mỗi cấp sẽ trừu tượng hơn cấp tiếp theo, nên cấp tiếp theo sẽ nói, "chữ A in hoa." Nó đi tiếp tới một cấp cao hơn nói, "quả táo [Apple]." Thông tin cũng có thể chảy xuống. Nếu bộ phận nhận biết quả táo [apple] đã thấy A-P-P-L, nó sẽ tự nghĩ rằng, "Hmm, ta nghĩ là chữ E sẽ thích hợp," và nó sẽ gửi tín hiệu xuống cho tất cả những bộ phận nhận biết chữ E, nói rằng, "Chú ý tới chữ E đó, ta nghĩ rằng một chữ E đang tới." Những mảnh nhận biết chữ E sẽ hạ thấp giới hạn phản ứng, và chúng thấy thứ cẩu thả gì đó, có thể là chữ E. Bình thường thì bạn sẽ không nghĩ vậy, nhưng chúng ta đang đợi một chữ E, thế là tốt rồi, và yeah, tôi đã thấy chữ E, và sau đó bộ phận quả táo nói, "yeah, tôi đã thấy quả táo [Apple]."
Go up another five levels, and you're now at a pretty high level of this hierarchy, and stretch down into the different senses, and you may have a module that sees a certain fabric, hears a certain voice quality, smells a certain perfume, and will say, "My wife has entered the room."
Lên thêm 5 bậc nữa, và giờ bạn đang ở một bậc khá cao của cái thứ bậc này, và trải xuống các giác quan khác nhau, và bạn có thể có một mảnh ghép nhìn thấy một chất liệu nhất định, nghe một tiếng động nhất định, ngửi một mùi nhất định, và sẽ nói, "Vợ tôi vừa vào phòng."
Go up another 10 levels, and now you're at a very high level. You're probably in the frontal cortex, and you'll have modules that say, "That was ironic. That's funny. She's pretty."
Lên thêm 10 bậc nữa, và giờ bạn đã ở một bậc rất cao. Có lẽ bạn đang ở vỏ não trước, và bạn sẽ có những mảnh ghép nói, "Thật mỉa mai. Thật buồn cười. Cô ta thật đẹp."
You might think that those are more sophisticated, but actually what's more complicated is the hierarchy beneath them. There was a 16-year-old girl, she had brain surgery, and she was conscious because the surgeons wanted to talk to her. You can do that because there's no pain receptors in the brain. And whenever they stimulated particular, very small points on her neocortex, shown here in red, she would laugh. So at first they thought they were triggering some kind of laugh reflex, but no, they quickly realized they had found the points in her neocortex that detect humor, and she just found everything hilarious whenever they stimulated these points. "You guys are so funny just standing around," was the typical comment, and they weren't funny, not while doing surgery.
Bạn có thể nghĩ rằng những điều đó phức tạp hơn, nhưng thật ra điều phức tạp hơn là thứ bậc bên dưới chúng. Có một cô bé 16 tuổi, trải qua một cuộc phẫu thuật não, và cô ấy vẫn tỉnh táo bởi vì các bác sĩ phẫu thuật muốn nói chuyện với cô ấy. Bạn có thể làm vậy bởi vì không có những nơi tiếp nhận đau đớn trong bộ não. Và bất cứ khi nào họ kích thích những điểm nhất định, nhỏ xíu trên phần vỏ não của cô ấy, thể hiện trên đây bằng màu đỏ, cô ấy sẽ cười. Nên ban đầu họ nghĩ rằng họ đang kích thích một loại phản xạ cười nào đó, nhưng không, họ nhanh chóng nhận ra họ đã tìm ra các điểm trên vỏ não nhận diện sự vui tính của cô ấy, và cô ấy thấy tất cả mọi thứ đều buồn cười mỗi khi họ kích thích những điểm này. "Các ông thật buồn cười cứ đứng quanh đây," là nhận xét tiêu biểu, và họ không gây cười trong khi làm phẫu thuật.
So how are we doing today? Well, computers are actually beginning to master human language with techniques that are similar to the neocortex. I actually described the algorithm, which is similar to something called a hierarchical hidden Markov model, something I've worked on since the '90s. "Jeopardy" is a very broad natural language game, and Watson got a higher score than the best two players combined. It got this query correct: "A long, tiresome speech delivered by a frothy pie topping," and it quickly responded, "What is a meringue harangue?" And Jennings and the other guy didn't get that. It's a pretty sophisticated example of computers actually understanding human language, and it actually got its knowledge by reading Wikipedia and several other encyclopedias.
Thế bây giờ chúng ta ra sao? Máy tính đã bắt đầu học được ngôn ngữ của con người với những thủ thuật tương tự với phần vỏ não. Tôi thực ra mô tả thuật toán, cũng tương tự như mô hình ẩn thứ bậc Markov mà tôi làm việc với nó kể từ năm 1990 "Jeopardy" là 1 trò chơi ngôn ngữ tự nhiên rất rộng và Watson đạt điểm cao hơn cả 2 người chơi giỏi nhất cộng lại. Đã sửa câu nói này "Bài diễn văn dài, nhàm chán này đọc một cách hời hợt," đã được trả lời nhanh chóng "What is a meringue harangue?" Jennings và những người khác không hiểu điều đó Nó là một ví dụ khá phức tạp của máy tính có thực sự hiểu ngôn ngữ của con người và nó thực sự hiểu bằng cách đọc Wkipedia và vài từ điển bách khoa khác
Five to 10 years from now, search engines will actually be based on not just looking for combinations of words and links but actually understanding, reading for understanding the billions of pages on the web and in books. So you'll be walking along, and Google will pop up and say, "You know, Mary, you expressed concern to me a month ago that your glutathione supplement wasn't getting past the blood-brain barrier. Well, new research just came out 13 seconds ago that shows a whole new approach to that and a new way to take glutathione. Let me summarize it for you."
5 tới 10 năm nữa bộ máy tìm kiếm sẽ thực sự được dựa trên không chỉ là tìm kiếm sự tổ hợp của các từ mà thực sự là hiểu rõ về ngôn ngữ đọc để hiểu hàng tỉ trang sách trên mạng và trong các quyển sách Và khi bạn đang đi, Google sẽ hiện ra và nói, "Bạn biết không?, Mary, bạn biểu thị sự lo lắng với tôi vào tháng trước, rằng lượng glutathione bổ sung không vượt qua được "hàng rào máu não" Uh, nghiên cứu mới vừa mới được công bố 13s trước đã cung cấp một giải pháp mới cách mới để bổ sung lượng glutathione Để tôi tóm tắt điều đó cho bạn
Twenty years from now, we'll have nanobots, because another exponential trend is the shrinking of technology. They'll go into our brain through the capillaries and basically connect our neocortex to a synthetic neocortex in the cloud providing an extension of our neocortex. Now today, I mean, you have a computer in your phone, but if you need 10,000 computers for a few seconds to do a complex search, you can access that for a second or two in the cloud. In the 2030s, if you need some extra neocortex, you'll be able to connect to that in the cloud directly from your brain. So I'm walking along and I say, "Oh, there's Chris Anderson. He's coming my way. I'd better think of something clever to say. I've got three seconds. My 300 million modules in my neocortex isn't going to cut it. I need a billion more." I'll be able to access that in the cloud. And our thinking, then, will be a hybrid of biological and non-biological thinking, but the non-biological portion is subject to my law of accelerating returns. It will grow exponentially. And remember what happens the last time we expanded our neocortex? That was two million years ago when we became humanoids and developed these large foreheads. Other primates have a slanted brow. They don't have the frontal cortex. But the frontal cortex is not really qualitatively different. It's a quantitative expansion of neocortex, but that additional quantity of thinking was the enabling factor for us to take a qualitative leap and invent language and art and science and technology and TED conferences. No other species has done that.
20 mươi năm sau, chúng ta sẽ có "nanobots" Bởi vì 1 xu hướng theo cấp mũ khác công nghệ có thể thu nhỏ các robot Robots có thể đi vào não chúng ta qua các mạch máu và kết nối với vỏ não của chúng ta với một vỏ não "trên mây" khác và mở rộng khả năng của chúng Theo tôi, bây giờ bên trong điện thoại của bạn là 1 máy tính nhưng nếu bạn cần 10,000 cái máy tính cho vài giây để thực hiện một truy vấn phức tạp bạn có thể làm điều đó trong vài giây với hệ thống đám mây Vào năm 2030s, bạn sẽ cần thêm vài bộ não khác bạn có thể kết nối qua hệ thống đám mây trực tiếp từ bộ não của bạn Và khi tôi đang đi bộ và nói, "Ồ đó là Chris Anderson Anh ấy đang tiến thẳng đến tôi Tôi nên nói điều gì đây? Tôi có 3 giây 300 triệu phần trong vỏ não tôi chưa tìm ra được giải pháp Tôi cần nhiều hơn thế" Tôi có thể truy cập qua hệ thống đám mây Và suy nghĩ của chúng ta khi đó, là sự kết hợp giữa tư duy và máy móc phần máy móc là chủ đề cho "quy luật gia tốc lợi nhuận" của tôi Nó sẽ phát triển theo cấp số nhân Và hãy nhớ rằng khi mà lần cuối cùng chúng ta mở rộng vỏ não của mình? Đó là 2 triệu năm trước Khi mà chúng ta trở thành "con người" Và phát triển của "trán" Động vật linh trưởng khác có một đôi lông mày xếch. Chúng không có "vỏ não trán" Nhưng phần vỏ não trán không thực sự là sự khác biệt về chất Đó là sự gia tăng về số lượng của vỏ não Nhưng lượng tư duy bổ sung đó đã giúp chúng ta có một bước nhảy về chất và đó là hội họa, khoa học và công nghệ và hội nghi TED. Chưa có loài nào khác làm được điều đó
And so, over the next few decades, we're going to do it again. We're going to again expand our neocortex, only this time we won't be limited by a fixed architecture of enclosure. It'll be expanded without limit. That additional quantity will again be the enabling factor for another qualitative leap in culture and technology.
Và do đó, vài thập kỉ tới chúng ta sẽ thực hiện lại điều đó Một lần nữa mở rộng vỏ não của mình Chỉ lần này chúng ta sẽ không bị giới hạn bởi một kiến trúc cố định Chúng ta sẽ mở rộng không giới hạn Chúng ta sẽ tăng "lượng" một lần nữa Thúc đẩy sự nhảy vọt về "chất" về văn hóa và công nghệ
Thank you very much.
Cám ơn rất nhiều
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)