A fact came out of MIT, couple of years ago. Ken Hale, who's a linguist, said that of the 6,000 languages spoken on Earth right now, 3,000 aren't spoken by the children. So that in one generation, we're going to halve our cultural diversity. He went on to say that every two weeks, an elder goes to the grave carrying the last spoken word of that culture. So an entire philosophy, a body of knowledge about the natural world that had been empirically gleaned over centuries, goes away. And this happens every two weeks.
Cách đây vài năm MIT đã đưa ra một thực tế. Ken Hale, một nhà ngôn ngữ học, đã nói rằng trong số 6000 ngôn ngữ hiện đang được sử dụng trên Trái Đất, có đến 3000 là không được trẻ em sử dụng. Có nghĩa là qua mỗi thế hệ, chúng ta sẽ bị giảm tính đa dạng văn hoá đi phân nửa. Anh ấy lại tiếp tục nói rằng cứ mỗi hai tuần lại có một người già về chín suối mang theo tiếng nói cuối cùng của nền văn hoá đó. Có nghiã là nguyên một nền triết lý một khối kiến thức lớn về thế giới tự nhiên đã được thu thập qua kinh nghiệm sống hàng thế kỉ, theo đó biến mất. Cứ hai tuần, điều này lại diễn ra một lần.
So for the last 20 years, since my dental experience, I have been traveling the world and coming back with stories about some of these people. What I'd like to do right now is share some of those stories with you. This is Tamdin. She is a 69-year-old nun. She was thrown in prison in Tibet for two years for putting up a little tiny placard protesting the occupation of her country. And when I met her, she had just taken a walk over the Himalayas from Lhasa, the capital of Tibet, into Nepal, across to India -- 30 days -- to meet her leader, the Dalai Lama. The Dalai Lama lives in Dharamsala, India. So I took this picture three days after she arrived, and she had this beat-up pair of tennis shoes on, with her toes sticking out. And she crossed in March, and there's a lot of snow at 18,500 feet in March.
Trong 20 năm qua, từ sau một lần đau răng, tôi đã đi vòng quanh thế giới và trở về với các câu chuyện về một vài người trong số này. Và điều mà lúc này tôi muốn làm là chia sẻ một vài câu chuyện đó với các bạn. Đây là Tamdin, một nữ tu 69 tuổi. Bà đã bị đẩy vào tù ở Tây Tạng trong hai năm vì tội dán một tấm áp phích bé xiú chống lại việc nước mình bị xâm lấn. Khi tôi gặp bà, bà vừa mới hoàn tất một cuộc bộ hành đi qua dãy Himalayas từ Lhasa, thủ phủ của Tây Tạng, để vào đất Nepal, ngang qua Ấn Độ trong 30 ngày để gặp lãnh tụ của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đức Đạt Lai Lạt Ma sống ở Dharamsala, Ấn Độ. Thế là tôi chụp bức ảnh này 3 ngày sau khi bà đến nơi Bà mang đôi giày tennis xơ xác với các ngón chân chìa hết ra ngoài. Bà băng qua núi vào tháng Ba. Và ở độ cao 5640 mét vào tháng Ba, tuyết rất dày.
This is Paldin. Paldin is a 62-year-old monk. And he spent 33 years in prison. His whole monastery was thrown into prison at the time of the uprising, when the Dalai Lama had to leave Tibet. And he was beaten, starved, tortured -- lost all his teeth while in prison. And when I met him, he was a kind gentle old man. And it really impressed me -- I met him two weeks after he got out of prison -- that he went through that experience, and ended up with the demeanor that he had.
Đây là Paldin. Paldin là một thầy tu 62 tuổi. Ông đã ngồi tù mất 33 năm. Và cả tu viện của ông đều bị ném vào tù vào thời có kháng chiến khi Đức Đạt Lai Lạt Ma phải rời Tây Tạng. Và ông bị đánh đập, bỏ đói, tra tấn -- mất hết răng khi ở trong tù. Khi tôi gặp Paldin, ông là một người đàn ông đứng tuổi, tử tế và nhẹ nhàng Và tôi thực sự bị ấn tượng -- lúc tôi gặp ông là chỉ mới 2 tuần sau khi ông ra tù -- mà bất kể tù tội bao năm tháng, ông lại giữ được phong thái như vậy.
So I was in Dharamsala meeting these people, and I'd spent about five weeks there, and I was hearing these similar stories of these refugees that had poured out of Tibet into Dharamsala. And it just so happened, on the fifth week, there was a public teaching by the Dalai Lama. And I was watching this crowd of monks and nuns, many of which I had just interviewed, and heard their stories, and I watched their faces, and they gave us a little FM radio, and we could listen to the translation of his teachings. And what he said was: treat your enemies as if they were precious jewels, because it's your enemies that build your tolerance and patience on the road to your enlightenment. That hit me so hard, telling these people that had been through this experience.
Thế là tôi ở Dharamsala gặp những người như thế. Tôi ở đó khoảng năm tuần và nghe những câu chuyện na ná nhau như thế này về dân tị nạn tháo chạy khỏi Tây Tạng vào đất Dharamsala. Tình cờ là vào tuần thứ năm, có một buổi thuyết giảng công chúng của Đức Đạt Lai Lạt Ma Và tôi đứng ngắm một đám đông toàn sư và nữ tu, nhiều người trong số họ tôi vừa phỏng vấn và nghe chuyện của họ xong. Tôi ngắm nhìn gương mặt họ. Và họ đưa chúng tôi một chiếc đài FM nhỏ để có thể nghe bài dịch những lời thuyết giảng của Đức Lạt Ma. Và điều Người nói đó là: hãy đối xử với kẻ thù như thể họ là những món trang sức quý báu, vì chính kẻ thù là người giúp bạn xây dựng đức khoan dung và lòng kiên nhẫn trên con đường đi đến sự khai sáng. Điều đó làm tôi hết mực ngỡ ngàng đây chính là những người không biết trải qua bao nhiêu cay đắng.
So, two months later, I went into Tibet, and I started interviewing the people there, taking my photographs. That's what I do. I interview and do portraits. And this is a little girl. I took her portrait up on top of the Jokhang Temple. And I'd snuck in -- because it's totally illegal to have a picture of the Dalai Lama in Tibet -- it's the quickest way you can get arrested. So I snuck in a bunch of little wallet-sized pictures of the Dalai Lama, and I would hand them out. And when I gave them to the people, they'd either hold them to their heart, or they'd hold them up to their head and just stay there. And this is -- well, at the time -- I did this 10 years ago -- that was 36 years after the Dalai Lama had left.
Thế là hai tháng sau, tôi tới Tây Tạng và bắt đầu phỏng vấn người ở đây và chụp ảnh họ. Đó là công việc của tôi. Tôi phỏng vấn và chụp chân dung người. Và rồi có một cô bé. Tôi chụp ảnh em ở trên đỉnh Chùa Jokkhang. Tôi chụp lén vì chụp ảnh Đức Lạt Ma ở Tây Tạng là phạm pháp -- đó là cách nhanh nhất để bị bắt. Thế nên tôi chụp lén Đức Lạt Ma ra một mớ các bức ảnh nhỏ cỡ ví tay và phát cho mọi người. Và khi tôi đưa ảnh cho họ, họ hoặc là áp nó vào tim hoặc đặt lên đầu và giữ nó ở đó. Lúc đó, cách đây 10 năm về trước, là 36 năm sau khi Đức Lạt Ma rời khỏi Tây Tạng.
So I was going in, interviewing these people and doing their portraits. This is Jigme and her sister, Sonam. And they live up on the Chang Tang, the Tibetan Plateau, way in the western part of the country. This is at 17,000 feet. And they had just come down from the high pastures, at 18,000 feet. Same thing: gave her a picture, she held it up to her forehead. And I usually hand out Polaroids when I do these, because I'm setting up lights, and checking my lights, and when I showed her her Polaroid, she screamed and ran into her tent.
Thế là Tôi lân la phỏng vấn người ở đây và chụp ảnh họ Đây là Jigme và chị gái Sonam. Cả hai sống trên Chang Tang, vùng Cao nguyên Tây Tạng ở xa về phía tây của đất nước. Độ cao là 5180 mét. Và cả hai vừa mới đi từ đồng cỏ ở độ cao 5486 mét xuống. Lại y như vậy: tôi đưa cho cô bé bức ảnh, em giơ bức ảnh lên giữ trên trán. Thường những lúc như thế, tôi hay đưa ảnh Polaroids vì còn phải sắp xếp ánh sáng, và kiểm tra đèn đóm. Khi tôi đưa cho em một bức Polaroid, em hét lên và chạy biến vào lều.
This is Tenzin Gyatso; he was found to be the Buddha of Compassion at the age of two, out in a peasant's house, way out in the middle of nowhere. At the age of four, he was installed as the 14th Dalai Lama. As a teenager, he faced the invasion of his country, and had to deal with it -- he was the leader of the country. Eight years later, when they discovered there was a plot to kill him, they dressed him up like a beggar and snuck him out of the country on horseback, and took the same trip that Tamdin did. And he's never been back to his country since. And if you think about this man, 46 years later, still sticking to this non-violent response to a severe political and human rights issue. And the young people, young Tibetans, are starting to say, listen, this doesn't work. You know, violence as a political tool is all the rage right now. And he still is holding this line. So this is our icon to non-violence in our world -- one of our living icons.
Đây là Tenzin Gyatso, lúc 2 tuổi, cậu được phát hiện là hiện thân của Đức Bồ Tát trong gia đình một nhà nông ở một chốn khỉ ho cò gáy. Năm lên 4 tuổi, cậu được phong là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Thời niên thiếu, cậu chứng kiến đất nước bị xâm lăng và phải đối mặt với nó trong vai trò là người lãnh đạo đất nước. Tám năm sau, khi người ta phát hiện ra có một âm mưu ám sát cậu, họ hoá trang cậu thành một người hành khất, và lén đưa cậu ra khỏi nước trên lưng một con ngựa theo đúng lộ trình mà Tamdin đã thực hiện. Cậu ở lại đó - và từ đó, chẳng bao giờ đặt chân lại vào đất nước mình. Và nếu bạn nghĩ đến người đàn ông này 46 năm sau vẫn giữ nguyên cách ứng phó ôn hoà đối với vấn đề nhân quyền và chính trị nghiêm trọng này. Những người trẻ những người Tây Tạng trẻ, đang bắt đầu nói với nhau: cái này vô tác dụng Bạn biết đấy, bạo lực hiện nay là một công cụ chính trị thịnh hành. Vậy mà ông vẫn giữ vững thế đứng của mình. Đây chính là biểu tượng cho phi-bạo-lực trong thế giới của chúng ta -- một trong những biểu tượng sống mà ta có.
This is another leader of his people. This is Moi. This is in the Ecuadorian Amazon. And Moi is 35 years old. And this area of the Ecuadorian Amazon -- oil was discovered in 1972. And in this period of time -- since that time -- as much oil, or twice as much oil as was spilled in the Exxon Valdez accident, was spilled in this little area of the Amazon, and the tribes in this area have constantly had to move. And Moi belongs to the Huaorani tribe, and they're known as very fierce, they're known as "auca." And they've managed to keep out the seismologists and the oil workers with spears and blowguns. And we spent -- I was with a team -- two weeks with these guys out in the jungle watching them hunt. This was on a monkey hunt, hunting with curare-tipped darts. And the knowledge that these people have about the natural environment is incredible. They could hear things, smell things, see things I couldn't see. And I couldn't even see the monkeys that they were getting with these darts.
Còn đây là một người lãnh đạo dân tộc khác. Đây là Moi. Đây là vùng Amazon thuộc nước Ecuado. Moi 35 tuổi. Và khu vực này thuộc rừng Amazon của Ecuado -- năm 1972, người ta phát hiện ra dầu. Trong thời điểm này - kể từ đó - lượng dầu tràn trong khu vực bé xíu này của Amazon bằng hoặc gấp đôi lượng dầu tràn trong vụ tai nạn Exxon Valdez. Các bộ tộc trong khu vực này, do đó, phải di chuyển lập tức. Và Moi thuộc bộ tộc Huaorani. Bộ tộc này nổi tiếng rất hung dữ - người ta gọi là "auca". Họ dùng giáo và ống thổi tên để ngăn các nhà địa chấn và công nhân khai thác dầu. Tôi - chúng tôi tôi đi cùng một đội đã ở trong rừng sâu với họ trong 2 tuần xem họ săn bắn. Ảnh này chụp trong một cuộc săn khỉ, săn bằng phi tiêu tẩm độc ở mũi. Và sự hiểu biết của những con người này về môi trường thiên nhiên thật đáng kinh ngạc. Họ có thể nghe, ngửi, và nhìn thấy những thứ tôi không thể thấy. Tôi thậm chí không thấy những con khỉ mà họ đang phóng phi tiêu để bắt.
This is Yadira, and Yadira is five years old. She's in a tribe that's neighboring the Huaorani. And her tribe has had to move three times in the last 10 years because of the oil spills. And we never hear about that. And the latest infraction against these people is, as part of Plan Colombia, we're spraying Paraquat or Round Up, whatever it is -- we're defoliating thousands of acres of the Ecuadorian Amazon in our war on drugs. And these people are the people who take the brunt of it.
Đây là Yadira. Yadira mới chỉ 5 tuổi. Cô bé thuộc một bộ tộc sống gần người Huaorani. Bộ tộc của em phải di chuyển ba lần trong 10 năm vừa rồi vì dầu tràn. Chúng ta chẳng bao giờ nghe đến chuyện đó. Và vụ xâm hại gần đây nhất mà những con người này phải chịu đó là một phần của Kế hoạch Colombia. Chúng ta đang phun Paraquat hay Round Up hay gì đó -- ta đang hủy hoại hàng ngàn héc ta cây cối ở vùng Amazon thuộc nước Ecuado cho cuộc tranh giành dược phẩm. Và chính những người này là người phải đỡ lấy gánh nặng của nó.
This is Mengatoue. He's the shaman of the Huaorani, and he said to us, you know, I'm an older man now; I'm getting tired, you know; I'm tired of spearing these oil workers. I wish they would just go away. And I was -- I usually travel alone when I do my work, but I did this -- I hosted a program for Discovery, and when I went down with the team, I was quite concerned about going in with a whole bunch of people, especially into the Huaorani, deep into the Huaorani tribe. And as it turned out, these guys really taught me a thing or two about blending in with the locals. (Laughter)
Đây là Mengatoue. pháp sư của bộ tộc Huaorani. Ông nói với chúng tôi. Các anh biết đấy, tôi giờ đã già, tôi bắt đầu thấy mệt, tôi mệt mỏi vì phải phóng lao vào những người công nhân khai thác dầu. Tôi chỉ ước họ hãy đi đi. Và thường thì tôi đi một mình khi làm việc. Nhưng trong chuyến đó, tôi dẫn một chương trình cho Discovery, khi đi tới đó cùng đội, tôi có hơi lo ngại về việc phải đi vào với một đám người, đặc biệt là khi thâm nhập sâu vào bộ tộc Huaorani. Và hoá ra những người này đã dạy tôi vài điều về cách hoà nhập cùng người bản xứ. (Cười)
One of the things I did just before 9/11 -- August of 2001 -- I took my son, Dax, who was 16 at the time, and I took him to Pakistan. Because at first I wanted -- you know, I've taken him on a couple of trips, but I wanted him to see people that live on a dollar a day or less. I wanted him to get an experience in the Islamic world and I also wanted him to -- I was going there to work with a group, do a story on a group called the Kalash, that are a group of animists, 3,000 animists, that live -- very small area -- surrounded by Islam -- there's 3,000 of these Kalash left; they're incredible people. So it was a great experience for him. He stayed up all night with them, drumming and dancing. And he brought a soccer ball, and we had soccer every night in this little village.
Một trong những điều tôi làm ngay trước vụ 11/9 vaò tháng Tám năm 2001 tôi dẫn con trai mình là Dax lúc đó nó 16 tuổi tôi dẫn cháu tới Pakistan. Bởi vì, thoạt tiên, bạn biết đấy, tôi đã dẫn cháu đi cùng một số chuyến tôi muốn cháu thấy những người phải sống với một đô mỗi ngày hoặc ít hơn. Tôi muốn cháu trải nghiệm thế giới đạo Hồi. Và tôi muốn nó nhìn thấy nhiều thứ. Tôi chuẩn bị tới đó để làm việc cùng một nhóm người để ghi lại câu chuyện về một nhóm người có tên là Kalash. Đó là một nhóm người theo thuyết duy linh - khoảng 3000 người sống ở một vùng rất nhỏ xung quanh là người đạo Hồi. Chỉ còn lại 3000 người Kalash. Những con người tuyệt vời. Và đó là một trải nghiệm rất tốt cho con tôi. Cháu thức cả đêm cùng họ, đánh trống và khiêu vũ. Cháu còn mang theo một quả bóng và mỗi đêm, ở ngôi làng nhỏ này, chúng tôi chơi bóng.
And then we went up and met their shaman. By the way, Mengatoue was the shaman of his tribe as well. And this is John Doolikahn, who's the shaman of the Kalash. And he's up in the mountains, right on the border with Afghanistan. In fact, on that other side is the area, Tora Bora, the area where Osama bin Laden's supposed to be. This is the tribal area. And we watched and stayed with John Doolikahn. And the shaman -- I did a whole series on shamanism, which is an interesting phenomenon. But around the world, they go into trance in different ways, and in Pakistan, the way they do it is they burn juniper leaves and they sacrifice an animal, pour the blood of the animal on the leaves and then inhale the smoke. And they're all praying to the mountain gods as they go into trance.
Rồi chúng tôi lên núi gặp pháp sư của họ. Nhân tiện, Mengatoue cũng là pháp sư ở bộ tộc anh ấy. Còn đây là John Doolikahn, pháp sư của người Kalash. Ông sống trên núi ngay sát biên giới với Afghanistan. Thật ra, ở phiá bên kia là vùng Tora Bora vùng mà người ta cho là Osama bin Laden đang ở. Đây là khu thổ dân. Chúng tôi theo dõi và ở với John Doolikahn. Và vị pháp sư - tôi đã thực hiện một loạt ảnh về saman giáo, là một hiện tượng thú vị. Nhưng ở khắp thế giới các pháp sư có cách lên đồng khác nhau. Ở Pakistan thì họ đốt là cây bách xù rồi hiến tết một con thú, rưới máu nó lên lá cây rồi hít khói vào. Tất cả họ hướng tới các vị thần núi để cầu nguyện trong lúc lên đồng.
You know, getting kids used to different realities, I think, is so important. What Dan Dennett said the other day -- having a curriculum where they study different religions, just to make a mental flexibility, give them a mental flexibility in different belief systems -- I think this is so necessary in our world today as you see these clash of beliefs taking place. And all the security issues they cause us. So, one thing we did five years ago: we started a program that links kids in indigenous communities with kids in the United States. So we first hooked up a spot in the Navajo Nation with a classroom in Seattle. We now have 15 sites. We have one in Kathmandu, Nepal; Dharamsala, India; Takaungu, Kenya -- Takaungu is one-third Christian, one-third Muslim and one-third animist, the community is -- Ollantaytambo, Peru, and Arctic Village, Alaska.
Tôi nghĩ, cho trẻ em làm quen với nhiều hiện thực khác nhau là một điều quan trọng. Như Dan Dannett đã nói buổi hôm kia -- rằng một chương trình học cho phép các em học nhiều tôn giáo khác nhau -- sẽ tạo ra cách suy nghĩ linh động -- cho trẻ em trí óc linh hoạt để hiểu nhiều hệ tín ngưỡng khác nhau. Tôi nghĩ điều đó rất cần thiết cho thế giới hiện nay khi chúng ta chứng kiến nhiều mâu thuẫn tín ngưỡng đang xảy ra Và những hậu quả an ninh mà chúng để lại cho con người. Năm năm trước chúng tôi đã làm điều này: chúng tôi khởi xướng một chương trình kết nối trẻ em ở các cộng đồng bộ tộc thiểu số với trẻ em ở Mỹ. Đầu tiên, chúng tôi bắt liên hệ cho một vùng ở Navajo Nation với một lớp học ở Seatle. Hiện nay, chúng tôi đã có 15 trụ sở. Một ở Kathmandu, Nepal; ở Dharamsala, Ấn Độ; ở Takaungu, Kenya -- Takaungu có một phần ba là người Cơ Đốc, một phần ba Hồi Giáo và một phần ba theo thuyết duy linh. Ngoài ra, còn có trụ sở ở Ollantaytambo, Peru và Làng Arctic, Alaska.
This is Daniel; he's one of our students in Arctic Village, Alaska. He lives in this log cabin -- no running water, no heat other than -- no windows and high-speed Internet connection. And this is -- I see this rolling out all over -- this is our site in Ollantaytambo, Peru, four years ago, where they first saw their first computers; now they have computers in their classrooms. And the way we've done this -- we teach digital storytelling to these kids. And we have them tell stories about issues in their community in their community that they care about. And this is in Peru, where the kids told the story about a river that they cleaned up. And the way we do it is, we do it in workshops, and we bring people who want to learn digital workflow and storytelling, and have them work with the kids. And just this last year we've taken a group of teenagers in, and this has worked the best. So our dream is to bring teenagers together, so they'll have a community service experience as well as a cross-cultural experience, as they teach kids in these areas and help them build their communication infrastructure.
Đây là Daniel, một trong những học sinh của chúng tôi tại Làng Arctic, Alaska. Em sống trong một lều gỗ nhỏ không có nước, không có lò sưởi -- không có cửa sổ nhưng có Internet tốc độ cao. Đây là -- cái này đang lan ra khắp chốn -- đây là trụ sở của chúng tôi ở Ollantaytambo, Peru, cách đây bốn năm khi bọn trẻ lần đầu tiên thấy những chiếc máy tính đầu tiên của chúng. Giờ thì các em đã có máy vi tính trong lớp học. Và cách chúng tôi làm là chúng tôi dạy bọn trẻ kể chuyện bằng kỹ thuật số. Chúng tôi khích lệ các em kể về những vấn đề trong cộng đồng của mình những vấn đề mà các em quan tâm. Tấm này chụp ở Peru, khi các em kể về một dòng sông mà các em đã dọn sạch. Chúng tôi làm những điều này trong các buổi hội thảo, chúng tôi mang đến những người muốn học cách thức và quy trình kể chuyện bằng kỹ thuật số, và để họ làm việc với bọn trẻ. Chỉ trong năm ngoái, chúng tôi đã thu nhận một nhóm trẻ vị thành niên và đạt được kết quả tốt nhất. Và mơ ước của chúng tôi là mang các em vị thành niên lại với nhau để các em có thể trải nghiệm việc phục vụ cộng đồng và trải nghiệm nền văn hoá của nhau, trong khi dạy cho các trẻ em khác và giúp họ xây dựng nền tảng cộng đồng ở các vùng này.
This is teaching Photoshop in the Tibetan children's village in Dharamsala. We have the website, where the kids all get their homepage. This is all their movies. We've got about 60 movies that these kids have made, and they're quite incredible. The one I want to show you -- after we get them to make the movies, we have a night where we show the movies to the community. And this is in Takaungu -- we've got a generator and a digital projector, and we're projecting it up against a barn, and showing one of the movies that they made. And if you get a chance, you can go to our website, and you'll see the incredible work these kids do.
Đây là cảnh dạy Photoshop trong một làng ở Dharamsala của trẻ em Tây Tạng. Chúng tôi có trang web, nơi tất cả các em đều có trang chủ. Đây là phim của các em. Có khoảng 60 bộ phim mà các em này đã làm. Và chúng khá xuất sắc đấy. Tôi muốn cho các bạn thấy điều này -- sau khi yêu cầu các em làm phim, chúng tôi tổ chức một đêm chiếu phim cho cộng đồng. Đây là ở Takaungu -- chúng tôi có một máy phát và một máy chiếu kỹ thuật số. Chúng tôi chiếu phim lên một kho thóc, và chiếu một trong những bộ phim của các em. Nếu có cơ hội, bạn có thể lên trang web của chúng tôi và sẽ thấy những tác phẩm xuất sắc của các em nhỏ này.
The other thing: I wanted to give indigenous people a voice. That was one of the big motivating factors. But the other motivating factor is the insular nature of our country. National Geographic just did a Roper Study of 18 to 26 year olds in our country and in nine other industrialized countries. It was a two million dollar study. United States came in second to last in geographic knowledge. 70 percent of the kids couldn't find Afghanistan or Iraq on a map; 60 percent couldn't find India; 30 percent couldn't find the Pacific Ocean. And this is a study that was just done a couple of years ago.
Một điều nữa là: tôi muốn mang lại tiếng nói cho những dân tộc thiểu số. Đó là một trong những động lực lớn. Nhưng một động lực khác, đó chính là bản chất hạn hẹp, thiển cận của đất nước chúng ta. National Geographic vừa làm Cuộc nghiên cứu Roper về các đối tượng từ 18 đến 26 tuổi ở đất nước chúng ta và ở chín nước công nghiệp khác. Cuộc nghiên cứu đó tốn đến hai tỉ đô. Và nước Mỹ xếp hạng gần chót về kiến thức địa lý. 70 phần trăm thanh niên không thể chỉ ra vị trí của Afghanistan hay Irap trên bản đồ. 60 phần trăm không tìm thấy Ấn Độ. 30 phần trăm không tìm thấy Thái Bình Dương. Và đây là một cuộc khảo sát được tiến hành cách đây chỉ vài năm.
So what I'd like to show you now, in the couple of minutes I have left, is a film that a student made in Guatemala. We just had a workshop in Guatemala. A week before we got to the workshop, a massive landslide, caused by Hurricane Stan, last October, came in and buried 600 people alive in their village. And this kid lived in the village -- he wasn't there at the time -- and this is the little movie he put together about that. And he hadn't seen a computer before we did this movie. We taught him Photoshop and -- yeah, we can play it.
Đến đây, với một vài phút còn lại, tôi muốn cho các bạn xem một đoạn phim một học sinh đã làm ở Guatemala. Chúng tôi vừa có một hội thảo tại Guatemala. Một tuần trước khi chúng tôi đến buổi hội thảo, một vụ lở đất lớn do Bão Stan gây ra vào tháng Mười năm ngoái đã chôn sống 600 người trong làng. Và em bé này sống trong ngôi làng đó -- lúc chuyện xảy ra, em không có mặt ở đó -- và đây là bộ phim ngắn em đã gom góp được về biến cố này. Trước khi làm bộ phim này, em chưa được thấy chiếc máy tính nào. Chúng tôi đã dạy Photoshop cho cậu bé và -- Ừ, bật lên được rồi.
This is an old Mayan funeral chant that he got from his grandfather.
Đây là một đoạn tụng đám ma cổ của người Maya mà cậu bé có được từ ông ngoại.
Thank you very much. (Applause)
Cảm ơn các bạn rất nhiều. (Vỗ tay)