If you are a blind child in India, you will very likely have to contend with at least two big pieces of bad news. The first bad news is that the chances of getting treatment are extremely slim to none, and that's because most of the blindness alleviation programs in the country are focused on adults, and there are very, very few hospitals that are actually equipped to treat children. In fact, if you were to be treated, you might well end up being treated by a person who has no medical credentials as this case from Rajasthan illustrates. This is a three-year-old orphan girl who had cataracts. So, her caretakers took her to the village medicine man, and instead of suggesting to the caretakers that the girl be taken to a hospital, the person decided to burn her abdomen with red-hot iron bars to drive out the demons. The second piece of bad news will be delivered to you by neuroscientists, who will tell you that if you are older than four or five years of age, that even if you have your eye corrected, the chances of your brain learning how to see are very, very slim -- again, slim or none.
Nếu như bạn là một đứa trẻ mù ở Ấn Độ, rất có thể bạn sẽ phải đối mặt với ít nhất là 2 tin xấu. Tin xấu đầu tiên là cơ hội được điều trị của bạn sẽ cực kì mỏng manh hơn cả, và đó là bởi vì hầu hết các chương trình giúp đỡ người mù ở đây đa số dành cho người trưởng thành, và có rất, rất ít bệnh viện được trang bị đầy đủ để chữa trị cho trẻ em. Thực tế, nếu như bạn được điều trị, thì khá chắc chắn rằng bạn sẽ được chữa bởi một người không có giấy phép hành nghề y như trường hợp của Rajasthan vậy. Đây là một cô bé ba tuổi bị mồ côi bị mắc bệnh đục thủy tinh thể. Người nhà đã đưa cô bé đến thầy lang trong làng, và thay vì đề nghị với họ rằng cô bé nên được đưa vào bệnh viện, ông này lại quyết định đốt bụng cô bé với những thanh sắt nóng đỏ rực để trừ tà quỷ ám. Tin xấu thứ hai, được thông báo tới bạn bởi những nhà thần kinh học, họ sẽ bảo rằng nếu bạn lớn hơn bốn hoặc năm tuổi, thì cho dù nếu đôi mắt của bạn có được chữa trị, khả năng não bạn học được cách nhìn là rất, rất nhỏ-- một lần nữa, gần như là không có.
So when I heard these two things, it troubled me deeply, both because of personal reasons and scientific reasons. So let me first start with the personal reason. It'll sound corny, but it's sincere. That's my son, Darius. As a new father, I have a qualitatively different sense of just how delicate babies are, what our obligations are towards them and how much love we can feel towards a child. I would move heaven and earth in order to get treatment for Darius, and for me to be told that there might be other Dariuses who are not getting treatment, that's just viscerally wrong. So that's the personal reason.
Cho nên khi nghe thấy hai điều trên, tôi đã bận lòng rất nhiều, bởi vì những lí do cả cá nhân và khoa học. Cho phép tôi bắt đầu với lí do cá nhân. Nó có vẻ ủy mị, nhưng nó là sự thật. Đó là con trai của tôi, Darius. Đối với một người bố trẻ, tôi có một cảm tính khác đối với sự mỏng manh của bé sơ sinh, trách nhiệm của ta với chúng, và bao nhiêu tình cảm ta có thể dành cho nó. Tôi sẽ đi đến tận cùng thế giới chỉ để cho Darius được điều trị, và việc tôi được bảo rằng rằng có thể có nhiều Darius khác không nhận được sự điều trị, thật đúng là không thể chấp nhận được. Và đó chính là lí do cá nhân của tôi.
Scientific reason is that this notion from neuroscience of critical periods -- that if the brain is older than four or five years of age, it loses its ability to learn -- that doesn't sit well with me, because I don't think that idea has been tested adequately. The birth of the idea is from David Hubel and Torsten Wiesel's work, two researchers who were at Harvard, and they got the Nobel Prize in 1981 for their studies of visual physiology, which are remarkably beautiful studies, but I believe some of their work has been extrapolated into the human domain prematurely. So, they did their work with kittens, with different kinds of deprivation regiments, and those studies, which date back to the '60s, are now being applied to human children.
Lí do khoa học chính là cái khái niệm từ ngành khoa học thần kinh về những giai đoạn quan trọng đó là nếu bộ não già hơn bốn hoặc năm tuổi, nó mất đi khả năng học hành -- điều đó không thuyết phục tôi mấy, bởi vì tôi không nghĩ rằng ý tưởng đó đã được chứng thực đầy đủ. Sự ra đời của ý tưởng đó dựa trên nghiên cứu của David Hubel và Torsten Wiesei, hai nhà nghiên cứu đến từ Harvard, và đã đoạt giải Nobel vào năm 1981 cho nghiên cứu của họ về sinh lí học trực quan, những khám phá rất đỗi thú vị, nhưng tôi tin một số nghiên cứu của họ đã được áp dụng vào cơ thể con người quá sớm. Họ đã thí nghiệm với mèo, với nhiều nhóm cơ địa khác nhau, và những kết quả đó, được tìm ra từ những năm 60, lại đang được áp dụng cho trẻ nhỏ.
So I felt that I needed to do two things. One: provide care to children who are currently being deprived of treatment. That's the humanitarian mission. And the scientific mission would be to test the limits of visual plasticity. And these two missions, as you can tell, thread together perfectly. One adds to the other; in fact, one would be impossible without the other. So, to implement these twin missions, a few years ago, I launched Project Prakash. Prakash, as many of you know, is the Sanskrit word for light, and the idea is that in bringing light into the lives of children, we also have a chance of shedding light on some of the deepest mysteries of neuroscience. And the logo -- even though it looks extremely Irish, it's actually derived from the Indian symbol of Diya, an earthen lamp. The Prakash, the overall effort has three components: outreach, to identify children in need of care; medical treatment; and in subsequent study. And I want to show you a short video clip that illustrates the first two components of this work.
Nên tôi thấy mình cần làm hai việc. Thứ nhất: cung cấp điều trị cho những đứa trẻ hiện nay đang bị tước quyền được chữa bệnh. Đó là một nhiệm vụ nhân đạo. Và nhiệm vụ khoa học sẽ là kiểm tra các giới hạn của độ nhạy thị giác. Và hai nhiệm vụ đó, bạn có thể thấy đấy, lồng ghép vào nhau. Bên này bổ sung cho bên kia; Thực tế, mất một thì không thể có hai được. Vậy, để thực hiện nhiệm vụ song sinh này, vài năm về trước, tôi đã tiến hành dự án Prakash. Prakash, như các bạn đều biết, đó là tiếng Sanskrit đồng nghĩa với ánh sáng, và ý nghĩ của cái tên này là bằng việc mang ánh sáng đến với cuộc sống của trẻ em, chúng ta cũng có một cơ hội làm sáng tỏ một số bí ẩn sâu xa nhất của khoa học thần kinh. Và biểu tượng - mặc dù trông cực Ai-len, nhưng nó lại được dựa trên biểu tượng Ấn Độ về Diya, một cây đèn đất. Dự án Prakash, tiêu chí toàn diện gồm ba mảng: tiếp cận cộng đồng, để xác định trẻ em có nhu cầu được chăm sóc, biện pháp chữa trị; và cho nghiên cứu về sau. Và tôi muốn cho bạn xem một đoạn phim ngắn để làm rõ hai mảng đầu tiên của dự án này
This is an outreach station conducted at a school for the blind.
Đây là một trạm tiếp nhận tổ chức tại một trường học cho người mù.
(Text: Most of the children are profoundly and permanently blind ...)
(Phụ đề: Hầu hết các trẻ em đều bị mù vĩnh viễn ...)
Pawan Sinha: So, because this is a school for the blind, many children have permanent conditions. That's a case of microphthalmos, which is malformed eyes, and that's a permanent condition; it cannot be treated. That's an extreme of micropthalmos called enophthalmos. But, every so often, we come across children who show some residual vision, and that is a very good sign that the condition might actually be treatable. So, after that screening, we bring the children to the hospital. That's the hospital we're working with in Delhi, the Schroff Charity Eye Hospital. It has a very well-equipped pediatric ophthalmic center, which was made possible in part by a gift from the Ronald McDonald charity. So, eating burgers actually helps.
Bởi vì đây là trường học cho người mù, nhiều trẻ em đều có những khuyết tật vĩnh viễn. Đó là một dạng thoái hóa võng mạc, gây biến dạng mắt, và đó là một khuyết tật vĩnh viễn; vnó không thể chữa được. Đây là dạng nặng hơn của thoái hóa võng mạc gọi là lõm mắt. Đôi khi, chúng tôi bắt gặp vài đứa trẻ còn mập mờ thị giác, và đó là một dấu hiệu rất tốt cho thấy vẫn còn hi vọng chữa trị. Sau khi xem xét, những đứa trẻ được mang tới bệnh viện. Đây là một bệnh viện chúng tôi hợp tác ở Delhi, Bệnh viện Mắt từ thiện Schroff. Ở đó có một trung tâm chuyên trị các bệnh về mắt cho trẻ em, đa phần là nhờ sự hảo tâm từ hội từ thiện Ronald McDonald. Thế nên, ăn hamburger cũng có ích đấy chứ.
(Text: Such examinations allow us to improve eye-health in many children, and ... ... help us find children who can participate in Project Prakash.)
(Phụ đề: Những bài kiểm tra giúp chúng tôi cải thiện sức khỏe mắt ở trẻ nhỏ, và tìm ra những bé cần hỗ trợ từ dự án Prakash.)
PS: So, as I zoom in to the eyes of this child, you will see the cause of his blindness. The whites that you see in the middle of his pupils are congenital cataracts, so opacities of the lens. In our eyes, the lens is clear, but in this child, the lens has become opaque, and therefore he can't see the world. So, the child is given treatment. You'll see shots of the eye. Here's the eye with the opaque lens, the opaque lens extracted and an acrylic lens inserted. And here's the same child three weeks post-operation, with the right eye open.
Khi tôi phóng to phim chụp mắt của bé bạn sẽ thấy được nguồn gốc căn bệnh của bé. Phần màu trắng bạn thấy chính giữa con ngươi ấy là đục thủy tinh thể, điểm mờ của đồng tử. Đối với ta, thủy tinh thể trong và rõ ràng, nhưng của bé này, nó lại bị mờ đi, thế nên bé không thể thấy đuờng. Và nó đã được chữa trị. Đây là một vài tấm phim chụp mắt Đây là cặp mắt đục thủy tinh thể, và thủy tinh thể bị cắt bỏ đi rồi được thay bởi một cặp thủy tinh thế bằng acrylic mới. Cũng là đứa trẻ đó ba tuần sau khi mổ với con mắt phải mới tinh.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you.
Xin cám ơn.
So, even from that little clip, you can begin to get the sense that recovery is possible, and we have now provided treatment to over 200 children, and the story repeats itself. After treatment, the child gains significant functionality. In fact, the story holds true even if you have a person who got sight after several years of deprivation. We did a paper a few years ago about this woman that you see on the right, SRD, and she got her sight late in life, and her vision is remarkable at this age. I should add a tragic postscript to this -- she died two years ago in a bus accident. So, hers is just a truly inspiring story -- unknown, but inspiring story. So when we started finding these results, as you might imagine, it created quite a bit of stir in the scientific and the popular press. Here's an article in Nature that profiled this work, and another one in Time. So, we were fairly convinced -- we are convinced -- that recovery is feasible, despite extended visual deprivation.
Thậm chí với một đoạn phim ngắn, bạn dần thấy được là mọi sự điều trị là có thể, và chúng tôi đã thành công trong việc chữa trị cho hơn 200 trẻ em, và sẽ còn làm hơn nữa. Sau khi chữa trị, em bé ấy bắt đầu đi vào hoạt động bình thường. Thực chất, câu chuyện vẫn đúng nếu một người có thị giác lại sau vài năm bị mù. Chúng tôi đã có một bài nghiên cứu về người phụ nữ ở hình bên phải, SRD, cô có thị giác trễ hơn mọi người, và thị lực của cô lại rất tốt so với độ tuổi này. Nhưng tôi đành phải nói tin không hay trong chuyện này -- cô đã mất hai năm về trước trong một tai nạn xe buýt. Nên, câu chuyện của cô thật đáng cảm động -- dù không ai biết, nhưng đầy cảm hứng. Khi chúng tôi bắt đầu tìm ra các kết quả này, nó đã tạo nên khá nhiều náo động trong giới khoa học lẫn báo chí. Đây là một bài viết trong tờ Nature ghi chép lại nghiên cứu này, và một bài nữa trên tờ Time. Vậy nên, chúng tôi đã và đang chắc chắn rằng việc chữa trị là khả thi, cho dù có bị mù lâu năm.
The next obvious question to ask: What is the process of recovery? So, the way we study that is, let's say we find a child who has light sensitivity. The child is provided treatment, and I want to stress that the treatment is completely unconditional; there is no quid pro quo. We treat many more children then we actually work with. Every child who needs treatment is treated. After treatment, about every week, we run the child on a battery of simple visual tests in order to see how their visual skills are coming on line. And we try to do this for as long as possible. This arc of development gives us unprecedented and extremely valuable information about how the scaffolding of vision gets set up. What might be the causal connections between the early developing skills and the later developing ones?
Câu hỏi tiếp theo đương nhiên là: Quá trình của việc phục hồi là gì? Cách mà chúng tôi nghiên cứu đó là, Khi chúng tôi tìm thấy bé bị nhạy cảm với ánh sáng. Nó được chữa trị, và tôi muốn nói rằng việc điều trị là hoàn toàn vô điều kiện; không hề có bất cứ trao đổi gì. Chúng tôi chữa nhiều bé hơn là làm việc với chúng. Bất cứ bé nào cần là sẽ được điều trị. Sau khi điều trị, cứ mỗi tuần, chúng tôi cho chúng kiểm tra thị lực đơn giản để xem liệu kĩ năng thị giác của chúng có dần hình thành chưa. Chúng tôi mong được kéo dài dự án này lâu nhất có thể. Vòng cung phát triển của dự án đã cho chúng tôi những thông tin bất ngờ và đầy quý báu về việc nền tảng của thị giác hình thành ra sao. Quan hệ nhân quả những kĩ năng được phát triển sớm và dần về sau là gì?
And we've used this general approach to study many different visual proficiencies, but I want to highlight one particular one, and that is image parsing into objects. So, any image of the kind that you see on the left, be it a real image or a synthetic image, it's made up of little regions that you see in the middle column, regions of different colors, different luminances. The brain has this complex task of putting together, integrating, subsets of these regions into something that's more meaningful, into what we would consider to be objects, as you see on the right. And nobody knows how this integration happens, and that's the question we asked with Project Prakash.
Và chúng tôi đã áp dụng cách thức này để nghiên cứu nhiều loại khiếm thị khác nhau, nhưng tôi muốn nhấn mạnh một khiếm khuyết này, và đó là hình ảnh bị phân tích ra thành từng mảng đồ vật. Bất cứ hình ảnh nào bạn thấy phía bên trái, dù cho là ảnh thật hay ảnh tổng hợp, nó cấu tạo từ những vùng nhỏ li ti mà bạn thấy ở cột chính giữa, những vùng màu khác nhau, có độ sáng khác nhau. Não bộ có một công việc phức tạp đó là nối ghép, tích hợp lại với nhau những bộ nhỏ của những vùng này thành một thứ có ý nghĩa hơn, một thứ mà ta có thể nhận biết là đồ vật, như bạn thấy bên phải. Không ai biết sự tích hợp này diễn ra như thế nào, và đó là câu hỏi mà dự án Prakash muốn tìm ra câu trả lời.
So, here's what happens very soon after the onset of sight. Here's a person who had gained sight just a couple of weeks ago, and you see Ethan Myers, a graduate student from MIT, running the experiment with him. His visual-motor coordination is quite poor, but you get a general sense of what are the regions that he's trying to trace out. If you show him real world images, if you show others like him real world images, they are unable to recognize most of the objects because the world to them is over-fragmented; it's made up of a collage, a patchwork, of regions of different colors and luminances. And that's what's indicated in the green outlines. When you ask them, "Even if you can't name the objects, just point to where the objects are," these are the regions that they point to. So the world is this complex patchwork of regions. Even the shadow on the ball becomes its own object. Interestingly enough, you give them a few months, and this is what happens.
Và đây là những biến chuyển xảy ra rất nhanh sau khi bạn thấy một vật. Đây là một người vừa có được thị giác vài tuần trước đây, và đây là Ethan Myers, một sinh viên thạc sĩ từ MIT, đang làm thí nghiệm với người tham gia. Bộ phối hợp vận động thị giác của anh ta khá yếu, nhưng bạn sẽ đại khái nhận ra anh ta đang cố gắng truy ra những vùng ảnh nào. Nếu bạn cho anh ấy xem hình ảnh thật ngoài đời, nếu bạn cũng cho những người khác bị giống vậy xem, họ sẽ không thể nhận ra đa số các vật thể bởi vì thế giới trong mắt họ bị đứt rời; nó được đấu chắp với nhau, từ những vùng màu và độ sáng khác nhau. Và đó là điều được chỉ ra ở đường vạch màu xanh. Khi bạn hỏi họ, "Thậm chí nếu bạn không thế kể tên đồ vật, hãy chỉ ra vị trí của chúng," đây là những vùng họ đã chỉ vào. Nên, thế giới là một hỗn tạp những mảnh ghép chắp vá như thế. Thậm chí cái bóng trên một quả banh trở thành một vật thể riêng. Thú vị hơn cả, bạn cho họ thêm vài tháng, và đây là điều xảy ra. [Đây là một cái]
Doctor: How many are these?
[Đây là một cái khác nữa]
Patient: These are two things.
Bác sĩ: Có bao nhiêu vật này đây?
Doctor: What are their shapes?
Bệnh nhân: Có hai vật.
Patient: Their shapes ... This one is a circle, and this is a square.
BS: Hình dạng chúng trông như thế nào? BN: Hình dạng à ... Đây chính là một vòng tròn, và đây
PS: A very dramatic transformation has come about. And the question is: What underlies this transformation? It's a profound question, and what's even more amazing is how simple the answer is. The answer lies in motion and that's what I want to show you in the next clip.
là một hình vuông. Đó, một sự thay đổi tích cực đã xảy ra. Nhưng câu hỏi là: Điều gì đã gây nên sự thay đổi đó? Câu hỏi này bao quát nhiều phạm trù, và thậm chí choáng ngợp hơn khi bạn thấy câu trả lời đơn giản như thế nào. Câu trả lời nằm ở sự chuyển động và đó chính là điều tôi muốn cho bạn xem trong đoạn phim sau.
Doctor: What shape do you see here?
BS: Bạn thấy hình dạng gì rồi?
Patient: I can't make it out.
BN: Tôi không thể xác định được.
Doctor: Now?
BS: Còn bây giờ?
Patient: Triangle.
BN: Tam giác.
Doctor: How many things are these? Now, how many things are these?
BS: Có bao nhiêu vật đây? Thử lại nào.
Patient: Two.
BN: Hai.
Doctor: What are these things?
BS: Đây là những vật gì?
Patient: A square and a circle.
BN: Hình vuông và hình tròn.
PS: And we see this pattern over and over again. The one thing the visual system needs in order to begin parsing the world is dynamic information. So the inference we are deriving from this, and several such experiments, is that dynamic information processing, or motion processing, serves as the bedrock for building the rest of the complexity of visual processing; it leads to visual integration and eventually to recognition.
Và chúng ta thấy điều này lặp đi lặp lại nhiều lần. Điều duy nhất hệ thống nhãn quan cần để bắt đầu tích hợp hình ảnh bên ngoài đó là những thông tin sống động. Thế nên điều ta rút ra được từ thí nghiệm, qua nhiều cuộc thí nghiệm tương tự, là quá trình xử lý thông tin năng động, hay quá trình xử lý chuyển động, có vai trò như nền tảng cho việc xây dựng nên hệ thống xử lý nhãn quan phức tạp; nó dẫn tới quá trình tích hợp thị giác, và cuối cùng là quá trình nhận biết hình ảnh.
This simple idea has far reaching implications. And let me just quickly mention two, one, drawing from the domain of engineering, and one from the clinic. So, from the perspective of engineering, we can ask: Goven that we know that motion is so important for the human visual system, can we use this as a recipe for constructing machine-based vision systems that can learn on their own, that don't need to be programmed by a human programmer? And that's what we're trying to do.
Ý tưởng tuy đơn giản nhưng lại có nhiều ứng dụng vượt trội. Và hãy để tôi nói sơ hai điều trong đó, một, nhìn từ khía cạnh kĩ thuật, và một nhìn từ khía cạnh y khoa. Dưới góc nhìn kĩ thuật, ta có thể hỏi: Nếu ta biết được rằng sự chuyển động quan trọng cho hệ trực quan của người, ta có thể dùng nó như một công thức để chế tạo nên những hệ trực quan điều khiển bằng máy móc có thể tự rút kinh nghiệm mà không cần được lập trình sẵn bởi một kỹ sư? Và đó là những gì chúng tôi đang cố gắng chinh phục.
I'm at MIT, at MIT you need to apply whatever basic knowledge you gain. So we are creating Dylan, which is a computational system with an ambitious goal of taking in visual inputs of the same kind that a human child would receive, and autonomously discovering: What are the objects in this visual input? So, don't worry about the internals of Dylan. Here, I'm just going to talk about how we test Dylan. The way we test Dylan is by giving it inputs, as I said, of the same kind that a baby, or a child in Project Prakash would get. But for a long time we couldn't quite figure out: Wow can we get these kinds of video inputs? So, I thought, could we have Darius serve as our babycam carrier, and that way get the inputs that we feed into Dylan? So that's what we did. (Laughter) I had to have long conversations with my wife. (Laughter) In fact, Pam, if you're watching this, please forgive me.
Tôi từ MIT, và ở MIT bạn phải áp dụng bất cứ kiến thức cơ bản nào bạn học được. Chúng tôi đang chế tạo Dylan, một hệ thống máy tính với một mục tiêu đầy tham vọng là lấy những hình ảnh "đầu vào" cùng loại như những hình ảnh mà một đứa trẻ nhìn thấy, và tự động giải mã: Những đồ vật trong loạt hình ảnh này là gì? Bạn đừng chú tâm quá vào kết cấu của Dylan. Tôi chỉ đang muốn nói về cách chúng tôi kiểm tra hiệu quả của Dylan. Chúng tôi kiểm tra bằng cách tích hợp vào nó những hình ảnh "đầu vào", cùng những hình ảnh mà đứa trẻ trong dự án Prakash sẽ được thấy. Trong một thời gian dài, chúng tôi đã không thể tìm ra: Liệu chúng tôi có thể kiếm được những đoạn băng "đầu vào" không? Tôi nghĩ, liệu chúng tôi có thể cho Darius đeo một chiếc máy quay phim nhỏ, và nhờ vậy chúng ta sẽ có được những đoạn băng "đầu vào" cho Dylan? Và chúng tôi đã làm như vậy. (Cười) Tôi đã có một buổi nói chuyện dài với vợ. (Cười) Thực tế, Pam, nếu như em đang theo dõi hãy tha lỗi cho anh.
So, we modified the optics of the camera in order to mimic the baby's visual acuity. As some of you might know, babyies are born pretty much legally blind. Their acuity -- our acuity is 20/20; babies' acuity is like 20/800, so they are looking at the world in a very, very blurry fashion. Here's what a baby-cam video looks like.
Chúng tôi đã chỉnh sửa tròng kính của máy ảnh, để cho nó thu hình gần giống với thị lực của em bé. Và có vài bạn biết rằng, em bé sinh ra thì hầu như không thấy gì. Thị lực của ta là 20/20; còn của em bé thì chỉ khoảng 20/800; nên chúng nhìn thế giới bên ngoài rất mờ ảo. Nó trông giống như đoạn phim sau đây.
(Laughter) (Applause)
(Cười) (Vỗ Tay)
Thankfully, there isn't any audio to go with this. What's amazing is that working with such highly degraded input, the baby, very quickly, is able to discover meaning in such input. But then two or three days afterward, babies begin to pay attention to their mother's or their father's face. How does that happen? We want Dylan to be able to do that, and using this mantra of motion, Dylan actually can do that. So, given that kind of video input, with just about six or seven minutes worth of video, Dylan can begin to extract patterns that include faces. So, it's an important demonstration of the power of motion.
May mắn thay, đoạn phim này không có tệp âm thanh nào. Điều tuyệt vời là khi tiếp nhận những "đầu vào" sơ khai như vậy, em bé thì lại nhanh chóng khám phá được ý nghĩa của những hình ảnh đó. Nhưng hai hay ba ngày sau thì, em bé sẽ bắt đầu chú ý tới gương mặt của ba mẹ chúng. Quá trình đó xảy ra như thế nào? Chúng tôi muốn Dylan làm được như thế, và sử dụng chính lý thuyết này, Dylan thực sự đã làm được. Thế nên, nếu cho cùng loại "đầu vào", với một đoạn phim dài khoảng 6-7 phút, Dylan sẽ phân tích được những đường nét của những gương mặt. Nó là một minh chứng quan trọng cho sức mạnh của chuyển động;
The clinical implication, it comes from the domain of autism. Visual integration has been associated with autism by several researchers. When we saw that, we asked: Could the impairment in visual integration be the manifestation of something underneath, of dynamic information processing deficiencies in autism? Because, if that hypothesis were to be true, it would have massive repercussions in our understanding of what's causing the many different aspects of the autism phenotype.
Ứng dụng khoa học thuộc về mảng căn bệnh tự kỉ. Sự tích hợp trực quan được liên kết với tự kỉ bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau. Khi chúng tôi phát hiện, đã tự hỏi: Liệu sự khiếm khuyết của tích hợp trực quan là biểu hiện cho vấn đề gì đó nghiêm trọng hơn, cho một quá trình giải mã thông tin bị lỗi trong tự kỉ? Bởi vì nếu giả thuyết đó đúng, thì nó sẽ thay đổi hoàn toàn hiểu biết của chúng ta về những khía cạnh khác nhau gây nên bệnh tự kỉ.
What you're going to see are video clips of two children -- one neurotypical, one with autism, playing Pong. So, while the child is playing Pong, we are tracking where they're looking. In red are the eye movement traces. This is the neurotypical child, and what you see is that the child is able to make cues of the dynamic information to predict where the ball is going to go. Even before the ball gets to a place, the child is already looking there. Contrast this with a child with autism playing the same game. Instead of anticipating, the child always follows where the ball has been. The efficiency of the use of dynamic information seems to be significantly compromised in autism. So we are pursuing this line of work and hopefully we'll have more results to report soon.
Điều bạn sắp thấy là vài đoạn phim về hai đứa trẻ, một đứa có thần kinh bình thường, và một đứa bị tự kỉ, chơi bóng bàn. Khi bọn trẻ đang chơi, chúng tôi đã ghi lại thứ mà chúng nhìn. Màu đỏ là dấu vết chuyển động của mắt. Đây là đứa trẻ bình thường, và bạn thấy là nó có thể tìm ra được gợi ý từ những thông tin sống động để phán đoán nơi trái bóng sẽ tới. Ngay cả trước khi trái banh bay đến, đứa trẻ đã nhìn ở hướng đó rồi. Đối lập lại chính là đứa trẻ tự kỉ cùng chơi chung. Thay vì phán đoán trước, nó chỉ theo dấu nơi trái banh rơi trúng. Cái hiệu quả của việc sử dụng luồn thông tin sống động đã bị giảm đi đáng kể trong căn bệnh này. Chúng tôi theo sát dòng thí nghiệm này và hi vọng rằng sẽ tìm ra được nhiều kết quả báo cáo hơn.
Looking ahead, if you think of this disk as representing all of the children we've treated so far, this is the magnitude of the problem. The red dots are the children we have not treated. So, there are many, many more children who need to be treated, and in order to expand the scope of the project, we are planning on launching The Prakash Center for Children, which will have a dedicated pediatric hospital, a school for the children we are treating and also a cutting-edge research facility. The Prakash Center will integrate health care, education and research in a way that truly creates the whole to be greater than the sum of the parts.
Nhìn về tương lai, nếu bạn nghĩ chiếc đĩa này đại diện cho tất cả trẻ em mà chúng tôi đã chữa cho đến nay, thì đây chính là độ rộng của vấn đề. Những chấm đỏ là những em chúng tôi chưa chữa được. Và có rất nhiều trẻ em cần được chữa trị, và để tăng quy mô của dự án, chúng tôi đã lên kế hoạch để ra mắt Trung tâm Prakash cho trẻ em, nơi sẽ có một bệnh viên nhi chuyên dụng, một trường học cho những trẻ em đang điều trị và cả một cơ sở nghiên cứu tiên tiến. Trung tâm Prakash sẽ tích hợp chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nghiên cứu theo cách có thể tạo nên kết quả tổng quát tốt hơn là tổng kết quả của từng mảng riêng lẻ.
So, to summarize: Prakash, in its five years of existence, it's had an impact in multiple areas, ranging from basic neuroscience plasticity and learning in the brain, to clinically relevant hypotheses like in autism, the development of autonomous machine vision systems, education of the undergraduate and graduate students, and most importantly in the alleviation of childhood blindness. And for my students and I, it's been just a phenomenal experience because we have gotten to do interesting research, while at the same time helping the many children that we have worked with.
Tóm lại: Prakash, trong năm năm hoạt động, đã có tác động trong nhiều lĩnh vực, từ thần kinh học cơ bản, sự tiếp thu kiến thức và đa dạng của não bộ, cho đến những giả thuyết xác đáng như là bệnh tự kỷ, sự phát triển của hệ thống trực quan độc lập, giáo dục cho toàn thể sinh viên đại học và cao học, và quan trọng nhất là xóa giảm nạn mù lòa ở trẻ em. Và đối với tôi và học sinh của tôi, nó là một trải nghiệm kỳ diệu bởi vì chúng tôi được thực hiện một nghiên cứu thú vị, cùng lúc đó lại giúp đỡ được rất nhiều đứa trẻ.
Thank you very much.
Xin cảm ơn các bạn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)