I'm going to talk about post-conflict recovery and how we might do post-conflict recovery better. The record on post-conflict recovery is not very impressive. 40 percent of all post-conflict situations, historically, have reverted back to conflict within a decade. In fact, they've accounted for half of all civil wars. Why has the record been so poor? Well, the conventional approach to post-conflict situations has rested on, on kind of, three principles.
Tôi sẽ nói về vấn đề phục hồi đất nước sau chiến tranh và làm thế nào để chúng ta phục hồi đất nước tốt hơn. Ghi nhận về phục hồi sau chiến tranh không mấy ấn tượng. 40 phần trăm của tất cả trường hợp sau chiến tranh, về mặt lịch sử, quay trở lại với chiến tranh chỉ trong một thập kỉ. Thực ra, tình trạng này chiếm trên một nửa của các cuộc nội chiến. Tại sao số liệu lại tệ đến như vậy? Theo lối tiếp cận thông thường đối với tình trạng sau chiến tranh dựa trên, đại khái là, ba nguyên tắc.
The first principle is: it's the politics that matters. So, the first thing that is prioritized is politics. Try and build a political settlement first. And then the second step is to say, "The situation is admittedly dangerous, but only for a short time." So get peacekeepers there, but get them home as soon as possible. So, short-term peacekeepers. And thirdly, what is the exit strategy for the peacekeepers? It's an election. That will produce a legitimate and accountable government.
Nguyên tắc thứ nhất: chính trị là trọng yếu. Vậy nên cái được đặt lên hàng đầu đó là chính trị. Cố gắng xây dựng một nền chính trị ổn định trước tiên. Rồi sau đó mới nói đến bước hai, "Tình thế này phải thừa nhận là nguy cấp, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi." Vậy giữ lại lực lượng bảo vệ hòa bình, nhưng cho họ trở về nhà sớm nhất có thể. Vậy là, người gìn dữ hòa bình trong thời gian ngắn. Và điều thứ ba, chiến lực rút quân của lực lượng bảo vệ hòa bình là gì? Đó là bầu cử. Việc đó sẽ tạo ra một chính phủ hợp pháp và chịu trách nhiệm.
So that's the conventional approach. I think that approach denies reality. We see that there is no quick fix. There's certainly no quick security fix. I've tried to look at the risks of reversion to conflict, during our post-conflict decade. And the risks stay high throughout the decade. And they stay high regardless of the political innovations. Does an election produce an accountable and legitimate government? What an election produces is a winner and a loser. And the loser is unreconciled. The reality is that we need to reverse the sequence. It's not the politics first; it's actually the politics last. The politics become easier as the decade progresses if you're building on a foundation of security and economic development -- the rebuilding of prosperity.
Đó là lối tiếp cận thông thường. Tôi nghĩ rằng hướng giải quyết này không thực với thực tế. Ta thấy không có cách sửa nhanh chóng. Chắc chắn không có việc phục hồi an ninh nhanh chóng. Tôi đã cố nhìn vào mối nguy quay lại cảnh chiến tranh, sau một thập kỷ hậu chiến. Và những nguy cơ vẫn cao trong suốt thập kỉ. Và chúng vẫn là cao dù có những sáng kiến chính trị. Một cuộc bầu cử có tạo ra một chính phủ hợp pháp và chịu trách nhiệm? Thứ mà cuộc bầu cử tạo ra đó là một người thắng và một người thua. Và người thua thì không cam chịu. Thực tế là chúng ta cần đảo ngược thứ tự trên. Không phải là chính trị đi đầu; mà thực sự là chính trị đi cuối. Vấn đề chính trị sẽ trở nên dễ dàng hơn sau một thập kỉ trôi qua nếu bạn xây dựng trên một nền tảng của an ninh và phát triển kinh tế sự tái xây dựng sự thịnh vượng.
Why does the politics get easier? And why is it so difficult initially? Because after years of stagnation and decline, the mentality of politics is that it's a zero-sum game. If the reality is stagnation, I can only go up if you go down. And that doesn't produce a productive politics. And so the mentality has to shift from zero-sum to positive-sum before you can get a productive politics. You can only get positive, that mental shift, if the reality is that prosperity is being built. And in order to build prosperity, we need security in place. So that is what you get when you face reality. But the objective of facing reality is to change reality.
Tại sao vấn đề chính trị lại trở nên dễ dàng hơn? Và tại sao nó khởi đầu khó như vậy? Bới vì sau nhiều năm đình trệ và suy sụp, tinh thần chính trị là một trò chơi tổng bằng không. Nếu thực tế đang đình trệ, tôi chỉ có thể đi lên nếu bạn đi xuống. Và điều đó không tạo ra một nền chính trị năng suất. Vậy nên tinh thần phải chuyển từ tổng bằng không cho đến tổng dương trước khi bạn có thể có một nền chính trị năng suất. Bạn chỉ có thể có một số dương, bước dịch chuyển tinh thần đó, nếu thực tại là sự thịnh vượng đang được xây dựng. Và để xây dựng sự thịnh vượng, ta cần có an ninh. Vậy đó là những gì bạn có khi đối mặt với thực tại. Nhưng mục đích của đối mặt thực tại là để thay đổi thực tại.
And so now let me suggest two complimentary approaches to changing the reality of the situations. The first is to recognize the interdependence of three key actors, who are different actors, and at the moment are uncoordinated. The first actor is the Security Council. The Security Council typically has the responsibility for providing the peacekeepers who build the security. And that needs to be recognized, first of all, that peacekeeping works. It is a cost-effective approach. It does increase security. But it needs to be done long-term. It needs to be a decade-long approach, rather than just a couple of years. That's one actor, the Security Council.
Vậy hãy để tôi đề xuất hai lối tiếp cận hỗ trợ lẫn nhau để thay đổi những thực trạng. Thứ nhất là để công nhận sự phụ thuộc lẫn nhau của ba diễn viên then chốt, những người diễn viên khác nhau và tại thời điểm này vẫn chưa phối hợp. Diễn viên thứ nhất là Hội đồng An ninh. Hội đồng an ninh điển hình có trách nhiệm cung cấp lực lượng bảo vệ hòa bình những người xây dựng nền an ninh. Và việc đó cần được công nhận, trước hết, rằng gìn giữ hòa bình có hiệu quả. Đó là một hướng tiếp cận mang tính chất kinh tế. Nó đảm bảo an ninh. Nhưng cần phải thực hiện trong dài hạn. Nó cần phải tiến hành trong cả thập kỉ, hơn là chỉ một vài năm. Đó là diễn viên thứ nhất, Hội đồng An ninh.
The second actor, different cast of guys, is the donors. The donors provide post-conflict aid. Typically in the past, the donors have been interested in the first couple of years, and then they got bored. They moved on to some other situation. Post-conflict economic recovery is a slow process. There are no quick processes in economics except decline. You can do that quite fast. (Laughter) So the donors have to stick with this situation for at least a decade.
Diễn viên thứ hai, một nhóm những người khác, đó là nhà tài trợ. Những người tài trợ cung cấp viện trợ cho thời kì hậu chiến tranh. Điển hình trong quá khứ, những người tài trợ thường hứng thú trong những năm đầu tiên, sau đó họ chán nản. Họ di chuyển tới những thị trường khác. Phục hồi kinh tế sau chiến tranh là một quá trình chậm chạp. Chẳng có quá trình biến chuyển kinh tế nhanh chóng nào ngoại trừ sụp đổ. Bạn có thể làm điều đó khá nhanh. (Tiếng cười) Vậy người tài trợ cần gắn bó với tình trạng này trong vòng ít nhất một thập kỉ.
And then the third key actor is the post-conflict government. And there are two key things it's got to do. One is it's got to do economic reform, not fuss about the political constitution. It's got to reform economic policy. Why? Because during conflict economic policy typically deteriorates. Governments snatch short-term opportunities and, by the end of the conflict, the chickens have come home to roost.
Và tiếp theo là diễn viên thứ ba đó là chính phủ sau chiến tranh. Có hai thứ then chốt nó cần phải làm. Thứ nhất là cải cách kinh tế, không phải rối lên về thể chế chính trị. Cần phải cải cách chính sách kinh tế. Tại sao? Bởi trong chiến tranh chính sách kinh tế thường suy thoái. Chính phủ thường nắm lấy những cớ hội ngắn hạn và khi chiến tranh kết thúc, thì ác giả ác báo.
So this legacy of conflict is really bad economic policy. So there is a reform agenda, and there is an inclusion agenda. The inclusion agenda doesn't come from elections. Elections produce a loser, who is then excluded. So the inclusion agenda means genuinely bringing people inside the tent. So those three actors. And they are interdependent over a long term. If the Security Council doesn't commit to security over the course of a decade, you don't get the reassurance which produces private investment. If you don't get the policy reform and the aid, you don't get the economic recovery, which is the true exit strategy for the peacekeepers. So we should recognize that interdependence, by formal, mutual commitments. The United Nations actually has a language for these mutual commitments, the recognition of mutual commitments; it's called the language of compact. And so we need a post-conflict compact. The United Nations even has an agency which could broker these compacts; it's called the Peace Building Commission.
Những di sản từ chiến tranh thực sự là những chính sách kinh tế tồi. Vậy cần có một chương trình nghị sự cải cách, một chương trình nghị sự toàn thể Chương trình nghị toàn thể không đến từ bầu cử. Bầu cử tạo ra những người thua cuộc, những người bị loại trừ. Vậy một chương trình nghị sự toàn thể có nghĩa phải thực sự mang tất cả mọi người vào cuộc. Vậy ba diễn viên trên. Họ phụ thuộc lẫn nhau trong một giai đoạn dài. Nếu Ủy ban an ninh không đảm bảo an ninh trong tiến trình mười năm, bạn sẽ không có sự bảo đảm thứ tạo ra đầu tư tư nhân. Nếu bạn không có chính sách cải cách và viện trợ, bạn sẽ không có phục hồi kinh tế, thứ mà chính là chiến lược rút quân cho người gìn dữ hòa bình. Vậy nên chúng ta cần công nhận sự tương thuộc này, bởi bản chất, qua lại lẫn nhau. Liên hợp quốc thực sự có một ngôn ngữ cho những qua lại lẫn nhau này, sự công nhận tính ảnh hưởng lẫn nhau; nó gọi là ngôn ngữ của thỏa thuận. Vậy chúng ta cần thỏa thuận sau chiến tranh. Liên hợp quốc thậm chí còn có cả một văn phòng cho những thỏa thuận này; nó gọi là Ủy ban xây dựng hòa bình.
It would be ideal to have a standard set of norms where, when we got to a post-conflict situation, there was an expectation of these mutual commitments from the three parties. So that's idea one: recognize interdependence. And now let me turn to the second approach, which is complimentary. And that is to focus on a few critical objectives. Typical post-conflict situation is a zoo of different actors with different priorities. And indeed, unfortunately, if you navigate by needs you get a very unfocused agenda, because in these situations, needs are everywhere, but the capacity to implement change is very limited. So we have to be disciplined and focus on things that are critical.
Lý tưởng nhất là tạo ra một tập hợp những tiêu chuẩn cơ bản ở đâu, khi nào chúng ta có tình trạng sau chiến tranh, ở đó cần những mối liên kết qua lại này từ ba nhóm trên. Đây là ý tưởng thứ nhất: Thừa nhận sự tương thuộc. Cong bây giờ, tôi xin chuyển sang lối tiếp cận thứ hai, cũng đáng hoan nghênh. Đó là tập trung vào một ít đối tượng cấp thiết. Các tình trạng hậu chiến cũng giống như một vườn thú của nhiều loài với những ưu tiên khác nhau. Và quả thực, không may thay, nếu bạn lái theo những nhu cầu bạn sẽ có một chương trình nghị sự không tập trung, bởi trong những tình trạng như vậy, nhu cầu ở mọi nơi, nhưng khả năng để thi hành thay đổi là rất hạn chế. Vậy nên chúng ta cần phải có kỷ luật và tập trung vào những thứ cấp thiết.
And I want to suggest that in the typical post-conflict situation three things are critical. One is jobs. One is improvements in basic services -- especially health, which is a disaster during conflict. So jobs, health, and clean government. Those are the three critical priorities. So I'm going to talk a little about each of them.
Và tôi muốn đề xuất rằng các tình trạng hậu chiến điển hình đều có ba thứ cấp bách. Một thứ là việc làm. Một thứ là cải thiện trong những dịch vụ cơ bản - đặc biệt là sức khỏe, là một thảm họa trong chiến tranh Vậy nên việc làm, sức khỏe và chính phủ trong sạch. Đó là ba yếu tố cấp bách cần ưu tiên. Tôi sẽ nói kỹ về từng thứ một.
Jobs. What is a distinctive approach to generating jobs in post-conflict situations? And why are jobs so important? Jobs for whom? Especially jobs for young men. In post-conflict situations, the reason that they so often revert to conflict, is not because elderly women get upset. It's because young men get upset. And why are they upset? Because they have nothing to do. And so we need a process of generating jobs, for ordinary young men, fast. Now, that is difficult. Governments in post-conflict situation often respond by puffing up the civil service. That is not a good idea. It's not sustainable. In fact, you're building a long-term liability by inflating civil service. But getting the private sector to expand is also difficult, because any activity which is open to international trade is basically going to be uncompetitive in a post-conflict situation. These are not environments where you can build export manufacturing.
Việc làm. Đâu là lối tiếp cận đặc biệt để tạo ra việc làm trong thời kỳ hậu chiến? Và tại sao việc làm lại quan trọng? Việc làm cho ai? Việc làm đặc biệt cần thiết cho thanh niên. Trong thời kỳ hậu chiến, lý do mà chúng thường quay lại với xung đột, không phải vì những bà già thấy khó chịu. Mà bởi vì những thanh niên khó chịu. Tại sao họ khó chịu? Bởi họ không có gì để làm. Vậy chúng ta cần một tiến trình tạo công ăn việc làm, cho những thanh niên bình dân, thật nhanh. Hiện tại, điều đó rất khó. Chính phủ trong thời kỳ hậu chiến thường đáp ứng bằng cách quá chú trọng quản lý dân sự. Đó không phải là một ý tưởng tốt. Nó không có khả năng chống chịu. Thực tế, bạn đang xây dựng một khoản nợ dài hạn bằng cách lạm phát quản lý dân sự. Nhưng mở rộng kinh tế tư nhân cũng khó bởi bất cứ hoạt động nào mở cửa tới thương mại quốc tế về cơ bản sẽ đi tới không đủ khả năng cạnh tranh trong thời kỳ hậu chiến. Đây không phải môi trường nơi bạn có thể xây dựng nền sản xuất xuất khẩu.
There's one sector which isn't exposed to international trade, and which can generate a lot of jobs, and which is, in any case, a sensible sector to expand, post-conflict, and that is the construction sector. The construction sector has a vital role, obviously, in reconstruction. But typically that sector has withered away during conflict. During conflict people are doing destruction. There isn't any construction going on. And so the sector shrivels away. And then when you try and expand it, because it's shriveled away, you encounter a lot of bottlenecks. Basically, prices soar and crooked politicians then milk the rents from the sector, but it doesn't generate any jobs. And so the policy priority is to break the bottlenecks in expanding the construction sector.
Có một ngành kinh tế không bị đặt vào thương mại quốc tế và nó có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm, một ngành, trong mọi lúc, một ngành nhạy cảm để mở rộng, thời hậu chiến, đó là ngành xây dựng. Ngành xây dựng có một vai trò sống còn, rõ ràng, trong sự tái kiến thiết. Thông thường ngành này bị sa sút trong chiến tranh. Suốt cuộc xung đột người ta tàn phá. Không có công việc xây dựng nào tiếp diễn. Vậy nên lĩnh vực này bị mai một. Và rồi khi bạn cố mở rộng nó, bởi nó đã bị mai một, bạn gặp phải rất nhiều trở ngại. Giá cả leo thang những nhà chính trị tham nhũng bòn rút từ ngành nhưng nó không tạo ra thêm công ăn việc làm nào. Vậy nên chính sách ưu tiên đó là phá vỡ những trở ngại trong mở rộng lĩnh vực xây dựng.
What might the bottlenecks be? Just think what you have to do successfully to build a structure, using a lot of labor. First you need access to land. Often the legal system is broken down so you can't even get access to land. Secondly you need skills, the mundane skills of the construction sector. In post-conflict situations we don't just need Doctors Without Borders, we need Bricklayers Without Borders, to rebuild the skill set. We need firms. The firms have gone away. So we need to encourage the growth of local firms. If we do that, we not only get the jobs, we get the improvements in public infrastructure, the restoration of public infrastructure.
Những trở ngại có thể là gì? Chỉ cần nghĩ bạn phải làm những gì thành công để xây dựng một công trình, sử dụng nhiều lao động. Đầu tiên bạn cần có mặt bằng. Thường thường hệ thống pháp lý bị đổ vỡ đến mức bạn thậm chí không thể có mặt bằng. Sau đó bạn cần những kỹ năng, những kỹ năng cơ bản của ngành xây dựng. Trong giai đoạn hậu chiến chúng ta không chỉ cần những Bác sĩ Tình nguyện Không biên giới, chúng ta cần những Thợ xây Tình nguyện Không biên giới, để xây dựng lại hệ thống những kỹ năng. Chúng ta cần những công ty. Những công ty xây dựng đã đổ vỡ. Chúng ta cần khuyến khích phát triển công ty nội địa. Nếu chúng ta làm vậy, chúng ta không chỉ tạo công việc mà chúng ta còn có được những cải thiện trong cơ sở hạ tầng công cộng, sự tái lập cơ sở hạ tầng công cộng.
Let me turn from jobs to the second objective, which is improving basic social services. And to date, there has been a sort of a schizophrenia in the donor community, as to how to build basic services in post-conflict sectors. On the one hand it pays lip service to the idea of rebuild an effective state in the image of Scandinavia in the 1950s. Lets develop line ministries of this, that, and the other, that deliver these services. And it's schizophrenic because in their hearts donors know that's not a realistic agenda, and so what they also do is the total bypass: just fund NGOs.
Tôi xin chuyển từ công ăn việc làm sang đối đượng thứ hai, cải thiện dịch vụ xã hội cơ sở. Và theo thời gian, đã có một kiểu tâm thần phân liệt trong cộng đồng các nhà tài trợ, cũng như làm sao để xây dựng những dịch vụ cơ bản trong các ngành giai đoạn hậu chiến. Một mặt họ hứa hão về việc tái kiến thiết một tình trạng hiệu quả như chuyện của bán đảo Scandinavia năm 1950. Hãy phát triển các Bộ này, Bội kia và cái khác nữa, để phân phát những dịch vụ này. Nó là tâm thần phân liệt bởi vì trong tâm họ các nhà tài trợ biết rằng đó không phải là một phương pháp thực tiễn và những gì họ còn làm đó là đi đường tránh: cứ gây quỹ phi chính phủ đi.
Neither of those approaches is sensible. And so what I'd suggest is what I call Independent Service Authorities. It's to split the functions of a monopoly line ministry up into three. The planning function and policy function stays with the ministry; the delivery of services on the ground, you should use whatever works -- churches, NGOs, local communities, whatever works. And in between, there should be a public agency, the Independent Service Authority, which channels public money, and especially donor money, to the retail providers. So the NGOs become part of a public government system, rather than independent of it.
Không có hướng tiếp cận nào ở trên là hợp lý. Vậy nên những gì tôi đề xuất đó là cái mà tôi gọi là Chính quyền phân lập. Đó là chia các chức năng của các Bộ riêng lẻ ra làm ba. Chức năng lên kế hoạch và chính sách giao cho Bộ; việc phân phát các dịch vụ vào đất nước, bạn nên dùng bất cứ cách nào mà hiệu quả -- giáo hội, tổ chức phi chính phủ, cộng đồng địa phương, bất cứ cách nào mà hiệu quả. Và thêm nữa, nên có một văn phòng công cộng, Ủy Ban Dịch Vụ độc lập, nơi điều chỉnh ngân sách, và đặc biệt tài trợ ngân sách, tới các những người cung cấp lẻ. Vậy các Tổ chức phi chính phủ trở thành một phần của hệ thống chính phủ nhân dân, thay vì là độc lập với nó.
One advantage of that is that you can allocate money coherently. Another is, you can make NGOs accountable. You can use yardstick competition, so they have to compete against each other for the resources. The good NGOs, like Oxfam, are very keen on this idea. They want to have the discipline and accountability. So that's a way to get basic services scaled up. And because the government would be funding it, it would be co-branding these services. So they wouldn't be provided thanks to the United States government and some NGO. They would be co-branded as being done by the post-conflict government, in the country. So, jobs, basic services, finally, clean government.
Một ích lợi của điều đó là bạn có thể cấp phát ngân sách minh bạch. Mặt khác, bạn có thể tạo ra các tổ chức phi chính phủ có trách nhiệm. Bạn có thể sử dụng những tiêu chuẩn cạnh tranh, nên họ phải cạnh tranh lẫn nhau để có được nguồn tài trợ. Những tổ chức phi chính phủ tốt như Oxfam, rất hứng thú với điều này. Họ muốn có sự kỷ luật và trách nhiệm. Vậy đó là một cách để làm cho những dịch vụ cơ bản tăng trưởng. Và bởi vì chính phủ sẽ gây quỹ, sẽ có những cộng tác dịch vụ. Họ sẽ không phải nói lời cảm ơn tới chính phủ Mỹ và một số Tổ chức phi chính phủ. Họ sẽ cộng tác như được tạo ra bởi chính phủ sau chiến tranh, trong nước. Vậy là công ăn việc làm, dịch vụ cơ sở, cuối cùng là chính phủ trong sạch.
Clean means follow their money. The typical post-conflict government is so short of money that it needs our money just to be on a life-support system. You can't get the basic functions of the state done unless we put money into the core budget of these countries. But, if we put money into the core budget, we know that there aren't the budget systems with integrity that mean that money will be well spent. And if all we do is put money in and close our eyes it's not just that the money is wasted -- that's the least of the problems -- it's that the money is captured. It's captured by the crooks who are at the heart of the political problem. And so inadvertently we empower the people who are the problem.
Trong sạch nghĩa là theo dõi tiền nong. Các chính phủ hậu chiến thường có nguồn tài chính hạn hẹp nên rất cần tiền của chúng ta chỉ để duy trì hệ thống có thể chu cấp sống còn. Bạn không thể hoàn thành những chức năng cơ bản nhất của nhà nước trừ khi chúng ta đặt tiền vào ngân sách cốt lõi của những đất nước đó. Nhưng nếu chúng ta bỏ tiền vào ngân sách, mà ta biết không phải là một hệ thống ngân sách hoàn toàn trong sạch nghĩa là tiền sẽ đem đi sử dụng. Nếu tất cả gì ta làm là bỏ tiền vào nhưng lại nhắm mắt làm ngơ thì không chỉ số tiền đó sẽ bị lãng phí -- đó chỉ là vấn đề tối thiểu -- tiền còn có thể bị chiếm đoạt. Tiền bị chiếm đoạt bởi quan chức tham ô, chính những kẻ này gây nên khủng hoảng chính trị. Vậy nên vô tình chúng ta đã tiếp tay cho những con sâu mọt của đất nước.
So building clean government means, yes, provide money to the budget, but also provide a lot of scrutiny, which means a lot of technical assistance that follows the money. Paddy Ashdown, who was the grand high nabob of Bosnia to the United Nations, in his book about his experience, he said, "I realize what I needed was accountants without borders, to follow that money." So that's the -- let me wrap up, this is the package.
Vậy nên xây dựng một chính phủ trong sạch, và, cấp tiền vào ngân sách, nhưng cần phải xem xét kĩ lưỡng, có nghĩa là cần rất nhiều trợ tá chuyên môn làm việc theo dõi tiền nong. Paddy Ashdown, nhà triệu phú khủng của Bosnia tới Liên Hợp Quốc, trong sách của ông viết về những kinh nghiệm của mình, ông đã nói "Tôi nhận ra thứ tôi cần là những kế toán từ mọi đất nước, theo dõi tiền nong." Vậy hãy để tôi tổng kết tất cả, trong một gói.
What's the goal? If we follow this, what would we hope to achieve? That after 10 years, the focus on the construction sector would have produced both jobs and, hence, security -- because young people would have jobs -- and it would have reconstructed the infrastructure. So that's the focus on the construction sector. The focus on the basic service delivery through these independent service authorities would have rescued basic services from their catastrophic levels, and it would have given ordinary people the sense that the government was doing something useful. The emphasis on clean government would have gradually squeezed out the political crooks, because there wouldn't be any money in taking part in the politics. And so gradually the selection, the composition of politicians, would shift from the crooked to the honest. Where would that leave us? Gradually it would shift from a politics of plunder to a politics of hope. Thank you. (Applause)
Mục tiêu là gì? Nếu chúng ta theo điều đó, chúng ta mong đợi đạt được những gì? Đó là sau 10 năm, sự tập trung vào ngành xây dựng sẽ vừa sản xuất ra công việc và từ đó, an ninh -- bởi những thanh niên đều có công việc -- đồng thời nó còn tái kiến thiết cơ sở hạ tầng. Vậy đó là sự tập trung vào ngành xây dựng. Tập trung vào phân phối các dịch vụ cơ bản thông qua những Ủy ban Dịch vụ độc lập sẽ cứu nguy cho dịch vụ cơ bản khỏi mức độ thảm họa của chúng, và nó se cho những người thường dân cảm thấy rằng chính phủ đang làm những việc hữu ích. Việc nhấn mạnh tầm quan trọng của chính phủ trong sạch sẽ dần dần tiêu diệt những sâu mọt trong chính phủ, bởi vì sẽ không có đồng tiền nào tham gia vào chính trị. Và rồi từ từ cuộc bầu cử, sự thỏa hiệp giữa các nhà chính trị, sẽ chuyển đổi từ thủ đoạn sang thành thật. Điều đó sẽ dẫn đến chuyện gì? Từ từ nó sẽ chuyển đổi từ nền chính trị của tham ô sang một chính trị của hi vọng. Cảm ơn. (Tiếng vỗ tay)