Pollinator decline is a grand challenge in the modern world. Of the 200,000 species of pollinators, honeybees are the most well-understood, partly because of our long history with them dating back 8,000 years ago to our cave drawings in what is now modern-day Spain. And yet we know that this indicator species is dying off.
Sự suy giảm số lượng động vật thụ phấn là một thách thức lớn hiện nay. Trong số 200.000 loài động vật thụ phấn, ong mật là loài chúng ta hiểu rõ nhất, một phần bởi mối quan hệ người - ong mật được cho rằng đã có từ 8000 năm trước qua các bức hoạ trong hang động ở Tây Ban Nha hiện nay. Có điều chúng ta biết rằng loài chỉ thị này đang chết dần.
Last year alone, we lost 40 percent of all beehives in the United States. That number is even higher in areas with harsh winters, like here in Massachusetts, where we lost 47 percent of beehives in one year alone. Can you imagine if we lost half of our people last year? And if those were the food-producing people? It's untenable. And I predict that in 10 years, we will lose our bees. If not for the work of beekeepers replacing these dead beehives, we would be without foods that we rely upon: fruits, vegetables, crunchy almonds and nuts, tart apples, sour lemons. Even the food that our cattle rely upon to eat, hay and alfalfa -- gone, causing global hunger, economic collapse, a total moral crisis across earth.
Chỉ trong năm ngoái, chúng ta đã mất đi 40% lượng tổ ong trên toàn nước Mỹ. Con số còn cao hơn ở những nơi có mùa đông khắc nghiệt, như ở đây, Masachusetts, nơi chúng ta mất 47% tổ ong chỉ trong vòng một năm. Hãy tưởng tượng chúng ta mất đi một nửa số người trong năm ngoái, và đó lại là những người sản xuất ra thực phẩm! Ta không bảo vệ được họ! Tôi dự đoán rằng trong 10 năm, chúng ta sẽ mất toàn bộ lượng ong đang có. Nếu như không có những người nuôi ong thay những cái tổ chết, chúng ta sẽ không có các loại đồ ăn thiết yếu như hoa quả, rau, hạnh nhân và các loại hạt giòn, bánh táo, chanh chua. Kể cả thức ăn cho chăn nuôi, cỏ khô, cỏ linh lăng cũng không còn, gây nên một nạn đói toàn cầu, kinh tế sụp đổ, một cuộc khủng hoảng tinh thần toàn cầu.
Now, I first started keeping bees here in Cape Cod right after I finished my doctorate in honeybee immunology.
Hiện giờ, tôi đã bắt đầu nuôi ong ở đây, Cape Cod ngay sau khi tôi hoàn thành bằng tiến sĩ miễn dich học của ong mật.
(Laughter)
(Tiếng cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
Imagine getting such a degree in a good economy -- and it was 2009: the Great Recession. And I was onto something. I knew that I could find out how to improve bee health. And so the community on Cape Cod here in Provincetown was ripe for citizen science, people looking for ways to get involved and to help. And so we met with people in coffee shops. A wonderful woman named Natalie got eight beehives at her home in Truro, and she introduced us to her friend Valerie, who let us set up 60 beehives at an abandoned tennis court on her property. And so we started testing vaccines for bees. We were starting to look at probiotics. We called it "bee yogurt" -- ways to make bees healthier. And our citizen science project started to take off.
Tưởng tượng có một tầm bằng như thế vào một thời kỳ kinh tế tốt như là năm 2009: khủng hoảng tài chính toàn cầu. Và tôi biết một điều tuyệt vời. Tôi đã biết rằng mình có thể tìm ra cách để cải thiện sức khoẻ cho loài ong. Và cộng đồng Cape Cod ở đây, Provincetown đã sẵn sàng cho khoa học, mọi người tìm cách tham gia và giúp đỡ. Chúng tôi gặp gỡ ở những quán café. Một người phụ nữ tuyệt vời tên Natalie có tám tổ ong tại nhà ở Truro, cô ấy giới thiệu chúng tôi với Valerie, người đã để chúng tôi dựng 60 tổ ong ở một khoảng sân tennis bỏ hoang của mình. Và thế là chúng tôi bắt đầu thử nghiệm vắc-xin cho ong. Chúng tôi bắt đầu xem xét tới lợi khuẩn. Chúng tôi gọi nó là “sữa chua ong” cách khiến ong khoẻ mạnh hơn. Và dự án khoa học công dân của chúng tôi bắt đầu phát triển.
Meanwhile, back in my apartment here, I was a bit nervous about my landlord. I figured I should tell him what we were doing.
Trong khi đó, nhìn lại căn hộ của mình, tôi bắt đầu hơi lo lắng về phía chủ nhà. Tôi nên nói với ông ấy việc chúng tôi đang làm.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I was terrified; I really thought I was going to get an eviction notice, which really was the last thing we needed, right? I must have caught him on a good day, though, because when I told him what we were doing and how we started our nonprofit urban beekeeping laboratory, he said, "That's great! Let's get a beehive in the back alley." I was shocked. I was completely surprised. I mean, instead of getting an eviction notice, we got another data point. And in the back alley of this image, what you see here, this hidden beehive -- that beehive produced more honey that first year than we have ever experienced in any beehive we had managed. It shifted our research perspective forever. It changed our research question away from "How do we save the dead and dying bees?" to "Where are bees doing best?" And we started to be able to put maps together, looking at all of these citizen science beehives from people who had beehives at home decks, gardens, business rooftops. We started to engage the public, and the more people who got these little data points, the more accurate our maps became.
Tôi sợ, tôi thực sự nghĩ mình sẽ nhận một tờ thông báo bị đuổi, đó chẳng phải là thứ không ai mong muốn sao? Lẽ ra tôi nên gặp ông ấy vào một ngày lành, bởi khi tôi nói với ông việc mình đang làm và thí nghiệm phi lợi nhuận bảo vệ ong, ông ấy nói: “Tuyệt lắm! Lấy cái tổ ong ở cái hẻm đằng sau ấy” Tôi sốc. Tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Bởi thay vì nhận được tờ thông báo đuổi, tôi nhận được thêm thông tin. Ở con hẻm phía sau trong bức ảnh này, bạn thấy đó, chiếc tổ ong bị ẩn giấu — trong năm đầu tiên, nó tạo ra nhiều mật ong hơn bất cứ cái tổ nào chúng tôi từng thấy. Nó đã làm thay đổi quan điểm nghiên cứu của chúng tôi. Từ việc hỏi: “Làm sao để cứu những đàn ong đang chết dần?” sang: “Ong đang sống tốt nhất ở đâu?” Chúng tôi bắt đầu có thể phác họa nên bản đồ, bằng cách nhìn vào những tổ ong của những người có tổ ong ở phía sau nhà, trong vườn, trên mái nhà. Chúng tôi kêu gọi quần chúng, và càng có nhiều người có dữ liệu, bản đồ càng trở nên chính xác hơn.
And so when you're sitting here thinking, "How can I get involved?" you might think about a story of my friend Fred, who's a commercial real estate developer. He was thinking the same thing. He was at a meeting, thinking about what he could do for tenant relations and sustainability at scale. And while he was having a tea break, he put honey into his tea and noticed on the honey jar a message about corporate sustainability from the host company of that meeting. And it sparked an idea.
Vì vậy nếu bạn đang băn khoăn “làm sao để có thể chung tay?" bạn có thể nghĩ đến câu chuyện của anh bạn Fred, một quản lý tài sản bất động sản. Anh ấy cũng từng băn khoăn điều tương tự. Fred từng dự một cuộc họp, nghĩ về cách để cải thiện quan hệ với khách thuê và quy mô bền vững. Và trong lúc uống trà giải lao, anh bỏ mật ong vào trà và nhận ra trên lọ mật ong thông điệp về sự bền vững của doanh nghiệp từ công ty chủ trì cuộc họp. Một ý tưởng lóe lên.
He came back to his office. An email, a phone call later, and -- boom! -- we went national together. We put dozens of beehives on the rooftops of their skyscrapers across nine cities nationwide.
Fred quay lại văn phòng. Một cái email, một cuộc gọi sau đó, và -- bùm! -- chúng tôi mở rộng tới tầm quốc gia luôn. Chúng tôi đặt hàng tá tổ ong trên mái các tòa nhà chọc trời của họ khắp chín thành phố trên toàn quốc.
Nine years later --
Chín năm sau --
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
Nine years later, we have raised over a million dollars for bee research. We have a thousand beehives as little data points across the country, 18 states and counting, where we have created paying jobs for local beekeepers, 65 of them, to manage beehives in their own communities, to connect with people, everyday people, who are now data points together making a difference.
Chín năm sau, chúng tôi đã gọi được trên một tỉ đô để nghiên cứu về ong. Chúng tôi có một ngàn tổ ong, những điểm dữ liệu nhỏ khắp cả nước, 18 bang và chưa ngừng tăng, nơi chúng tôi đã tạo thêm việc làm, cho người nuôi ong địa phương, 65 người, quản lý các tổ ong trong cộng đồng của chính họ, kết nối với con người, những người bình thường, họ là những điểm dữ liệu đã tạo nên sự khác biệt hôm nay.
So in order to explain what's actually been saving bees, where they're thriving, I need to first tell you what's been killing them. The top three killers of bees are agricultural chemicals such as pesticides, herbicides, fungicides; diseases of bees, of which there are many; and habitat loss. So what we did is we looked on our maps and we identified areas where bees were thriving. This was mostly in cities, we found. Data are now showing that urban beehives produce more honey than rural beehives and suburban beehives. Urban beehives have a longer life span than rural and suburban beehives, and bees in the city are more biodiverse; there are more bee species in urban areas.
Để giải thích điều thực sự đã và đang cứu loài ong, nơi chúng đang sinh sôi, tôi cần phải nói với bạn trước thứ đang giết chúng. Ba tác nhân hàng đầu làm chết ong là (1) hóa chất dùng trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, diệt nấm; (2) bệnh của ong, (có rất nhiều loại); và (3) mất môi trường sống. Điều chúng tôi đã làm là quan sát bản đồ và xác định các vùng ong đang phát triển mạnh. Đó hầu hết là các thành phố. Dữ liệu cho thấy các tổ ong ở thành phố cho ra nhiều mật ong hơn ở nông thôn và ngoại thành. Tổ ong ở đô thị có tuổi thọ cao hơn ở nông thôn và ngoại thành, và ong ở thành phố đa dạng hơn; và đa dạng chủng loại hơn.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Right? Why is this? That was our question. So we started with these three killers of bees, and we flipped it: Which of these is different in the cities?
Đúng không? Tại sao lại như vậy? Đó là câu hỏi của chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu với ba tác nhân làm chết ong và lật lại: Đâu là điểm khác biệt ở thành phố?
So the first one, pesticides. We partnered up with the Harvard School of Public Health. We shared our data with them. We collected samples from our citizen science beehives at people's homes and business rooftops. We looked at pesticide levels. We thought there would be less pesticides in areas where bees are doing better. That's not the case. So what we found here in our study is -- the orange bars are Boston, and we thought those bars would be the lowest, there would be the lowest levels of pesticides. And, in fact, there are the most pesticides in cities. So the pesticide hypothesis for what's saving bees -- less pesticides in cities -- is not it. And this is very typical of my life as a scientist. Anytime I've had a hypothesis, not only is it not supported, but the opposite is true.
Điều đầu tiên, thuốc trừ sâu. Chúng tôi hợp tác với khoa Sức khỏe Cộng đồng ở Harvard, chia sẻ dữ liệu với họ. Chúng tôi lấy mẫu từ các tổ ong của dự án ở nhà dân và trên mái các doanh nghiệp. Xét đến mức độ thuốc trừ sâu, chúng tôi nghĩ sẽ thấp hơn ở những nơi ong đang phát triển tốt hơn. Nhưng không phải vậy. Điều chúng tôi tìm ra sau nghiên cứu là — các cột màu cam đại diện cho Boston, chúng tôi nghĩ các cột đó sẽ là thấp nhất, nồng độ thuốc trừ sâu đáng lẽ phải là thấp nhất. Thực tế thì đó là các thành phố có nhiều thuốc trừ sâu nhất. Như vậy giả thuyết thuốc trừ sâu, thứ đang cứu loài ong - ít thuốc sâu ở thành phố - không đúng. cuộc sống nhà khoa học điển hình của tôi là vậy. Mỗi lần tôi có một giả thuyết, nó không những không được ủng hộ, mà điều ngược lại còn đúng.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Which is still an interesting finding, right?
Cũng là một khám phá thú vị đấy chứ?
We moved on. The disease hypothesis. We looked at diseases all over our beehives. And what we found in a similar study to this one with North Carolina State is: there's no difference between disease in bees in urban, suburban and rural areas. Diseases are everywhere; bees are sick and dying. In fact, there were more diseases of bees in cities. This was from Raleigh, North Carolina. So again, my hypothesis was not supported. The opposite was true. We're moving on.
Chúng tôi tiếp tục. Giả thuyết về bệnh. Chúng tôi xem xét các bệnh từng gặp ở các tổ ong. Chúng tôi phát hiện ra từ một nghiên cứu tương tự ở Bắc Carolina: không có sự khác biệt nào về bệnh ở ong ở đô thị, ngoại thành và nông thôn. Bệnh có ở khắp nơi; Ong ốm rồi chết. Thực tế, ong mắc bệnh nhiều hơn ở thành phố. Đây là ở Raleigh, Bắc Carolina. Giả thuyết của tôi lại không được ủng hộ. Điều ngược lại mới đúng. Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu.
(Laughter)
(Tiếng cười)
The habitat hypothesis. This said that areas where bees are thriving have a better habitat -- more flowers, right? But we didn't know how to test this. So I had a really interesting meeting. An idea sparked with my friend and colleague Anne Madden, fellow TED speaker. We thought about genomics, kind of like AncestryDNA or 23andMe. Have you done these? You spit in a tube and you find out, "I'm German!"
Giả thuyết môi trường sống. Những vùng ong đang sinh sôi có môi trường sống tốt hơn - nhiều hoa hơn ư? Chúng tôi không biết làm sao kiểm tra nên tôi đã có một cuộc họp vô cùng thú vị. Một ý tưởng loé lên cùng bạn đồng nghiệp của tôi, Anne Madden, cũng là một diễn giả TED Chúng tôi nghĩ tới hệ gen học, như xét nghiệm AncestryDNA hay 23andME. Bạn từng làm bao giờ chưa? Nhổ nước bọt vào ống nghiệm và ngộ ra “Tôi là người Đức”
(Laughter)
(Tiếng cười)
Well, we developed this for honey. So we have a sample of honey and we look at all the plant DNA, and we find out, "I'm sumac!"
Chúng tôi phát triển nó cho ong. Lấy một mẫu mật ong và xem xét DNA của tất cả các loài thực vật, chúng tôi tìm ra, “Tôi là cây muối!”
(Laughter)
(Tiếng cười)
And that's what we found here in Provincetown. So for the first time ever, I'm able to report to you what type of honey is from right here in our own community. HoneyDNA, a genomics test. Spring honey in Provincetown is from privet. What's privet? Hedges. What's the message? Don't trim your hedges to save the bees.
Đó là thứ chúng tôi tìm ra ở Provincetown. Lần đầu tiên tôi có thể báo cho bạn loại mật ong nào đến từ chính cộng đồng của bạn. DNA mật ong, một xét nghiệm gen. Mật ong mùa xuân ở Provincetown là từ cây thuỷ lạp. Thuỷ lạp là cây gì? Cây hàng rào. Thông điệp ở đây là gì? Đừng cắt hàng rào cây để bảo vệ ong.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I know we're getting crunchy and it's controversial, so before you throw your tomatoes, we'll move to the summer honey, which is water lily honey. If you have honey from Provincetown right here in the summer, you're eating water lily juice; in the fall, sumac honey. We're learning about our food for the first time ever. And now we're able to report, if you need to do any city planning: What are good things to plant? What do we know the bees are going to that's good for your garden? For the first time ever for any community, we now know this answer.
Tôi biết điều này gây tranh cãi nên trước khi bạn ném cà chua đi, chúng ta đi tiếp sang mật ong mùa hè, là mật hoa súng. Nếu bạn có mật ong từ Provincetown vào mùa hè, bạn đang uống nước hoa súng đấy; vào mùa thu, mật cây muối. Lần đầu tiên chúng ta học về thức ăn của chính mình. Và bây giờ, chúng tôi có thể trả lời, nếu bạn cần làm quy hoạch thành phố: Đâu là loài cây tốt để trồng? Chúng ta biết gì về việc ong có ích với khu vườn của mình đến vậy? Lần đầu tiên chúng ta biết câu trả lời.
What's more interesting for us is deeper in the data. So, if you're from the Caribbean and you want to explore your heritage, Bahamian honey is from the laurel family, cinnamon and avocado flavors. But what's more interesting is 85 different plant species in one teaspoon of honey. That's the measure we want, the big data. Indian honey: that is oak. Every sample we've tested from India is oak, and that's 172 different flavors in one taste of Indian honey. Provincetown honey goes from 116 plants in the spring to over 200 plants in the summer. These are the numbers that we need to test the habitat hypothesis.
Điều khiến chúng tôi thấy thú vị nằm sâu bên trong dữ liệu. Nếu bạn đến từ Caribbean và muốn khám phá di sản của quê mình, mật ong Bahamian có họ Nguyệt quế, mang hương vị quế và bơ. Thú vị hơn là 85 loài thực vật khác nhau cùng ở trong một thìa mật ong. Đó là số liệu mà chúng tôi muốn, dữ liệu lớn. Mật ong Ấn Độ: đó là cây sồi. Mọi mẫu chúng tôi từng xét nghiệm ở Ấn Độ đếu là sồi và 172 vị khác nhau ấy cùng trong một nhấm mật ong Ấn. Mật ong Provincetown có từ 116 loài cây mùa xuân tới 200 loài vào mùa hè. Đây là những con số chúng tôi cần để kiểm tra giả thuyết môi trường sống.
In another citizen science approach, you find out about your food and we get some interesting data. We're finding out now that in rural areas, there are 150 plants on average in a sample of honey. That's a measure for rural. Suburban areas, what might you think? Do they have less or more plants in suburban areas with lawns that look nice for people but they're terrible for pollinators? Suburbs have very low plant diversity, so if you have a beautiful lawn, good for you, but you can do more. You can have a patch of your lawn that's a wildflower meadow to diversify your habitat, to improve pollinator health. Anybody can do this. Urban areas have the most habitat, best habitat, as you can see here: over 200 different plants. We have, for the first time ever, support for the habitat hypothesis.
Trong một phương pháp khác, bạn khám phá thực phẩm, và chúng tôi có được vài thông tin thú vị. Chúng tôi tìm ra hiện nay ở nông thôn, trung bình có 150 loài cây trong một mẫu mật ong. Đó là số liệu của nông thôn. Ngoại thành, bạn nghĩ sao? Có ít hay nhiều cây hơn ở những vùng ngoại thành có bãi cỏ đẹp để ngắm nhưng tệ cho động vật thụ phấn? Ngoại thành có độ đa dạng thực vật thấp, nên nếu bạn có một bãi cỏ đẹp, tốt cho bạn, nhưng bạn có thể làm hơn thế. Bạn có thể dành ra một khoảng làm bãi hoa dại để làm nơi ở thêm phong phú, cho động vật thụ phấn thêm khoẻ mạnh. Điều này ai cũng có thể. Đô thị có nhiều môi trường sống tốt nhất, như bạn có thể thấy ở đây: Hơn 200 loài cây khác nhau. Lần đầu tiên chúng ta có dữ liệu ủng hộ giả thuyết môi trường sống.
We also now know how we can work with cities. The City of Boston has eight times better habitat than its nearby suburbs. And so when we work with governments, we can scale this. You might think on my tombstone, it'll say, "Here lies Noah. Plant a flower." Right? I mean -- it's exhausting after all of this. But when we scale together, when we go to governments and city planners -- like in Boston, the honey is mostly linden trees, and we say, "If a dead tree needs to be replaced, consider linden." When we take this information to governments, we can do amazing things. This is a rooftop from Fred's company. We can plant those things on top of rooftops worldwide to start restoring habitat and securing food systems. We've worked with the World Bank and the presidential delegation from the country of Haiti. We've worked with wonderful graduate students at Yale University and Ethiopia. In these countries, we can add value to their honey by identifying what it is, but informing the people of what to plant to restore their habitat and secure their food systems.
Chúng ta cũng biết bây giờ nên làm gì với các thành phố. Thành phố Boston có môi trường sống tốt hơn tám lần so với ngoại thành. Khi làm việc với chính phủ, chúng tôi có thể tính toán nó. Bia mộ của tôi sẽ viết “Nơi đây Noah yên nghỉ. Ông ấy đã trồng hoa”. Ý tôi là - sau tất cả những việc trên, chúng tôi kiệt sức. Nhưng khi chúng ta cùng nhân rộng, khi gặp chính phủ và tổ quy hoạch thành phố - như ở Boston, mật ong chủ yếu lấy từ cây bồ đề. Chúng tôi nói: “Nếu một cây chết cần được thay thế, hãy cân nhắc bồ đề.” Mang thông tin này tới chính phủ, chúng tôi làm được những điều kỳ diệu, Đây là nóc công ty của Fred. Chúng tôi có thể trồng chúng trên mái nhà khắp thế giới để khôi phục môi trường sống và bảo đảm hệ thống thức ăn. Chúng tôi làm việc với Ngân hàng Thế giới và chủ tịch phái đoàn đến từ Haiti. Chúng tôi đã làm việc với các sinh viên cao học ở Đại học Yale và Ethiopia. Ở các nước này, chúng tôi có thể thêm giá trị nhờ xác định đó là mật gì, nói với người dân loài cây nào nên trồng để phục hồi môi trường sống và đảm bảo hệ thống thức ăn.
But what I think is even more important is when we think about natural disasters. For the first time, we now know how we can have a baseline measure of any habitat before it might be destroyed. Think about your hometown. What risks does the environment pose to it? This is how we're going to save Puerto Rico after Hurricane Maria. We now have a baseline measure of honey, honey DNA from before and after the storm. We started in Humacao. This is right where Hurricane Maria made landfall. And we know what plants to replace and in what quantity and where by triangulating honey DNA samples.
Nhưng tôi nghĩ nó còn quan trọng hơn khi ta nghĩ về thiên tai. Lần đầu tiên, chúng ta có một thước đo cơ sở cho bất kỳ môi trường sống nào trước khi nó có thể bị huỷ hoại. Nghĩ về quê hương bạn. Đâu là hiểm hoạ từ môi trường? Đây là cách chúng ta sẽ cứu Puerto Rico sau cơn bão Maria. Giờ chúng ta đã có một thước đo cơ sở bằng mật ong, DNA mật ong từ trước và sau bão. Chúng tôi bắt đầu ở Humacao. Đây chính là nơi bão Maria đổ bộ vào đất liền. Và chúng tôi biết loài cây nào bị thay thế với số lượng bao nhiêu và ở đâu bằng cách lập lưới tam giác các mẫu DNA mật ong.
You might even think about right here, the beautiful land that connected us, that primed us, all the citizen science to begin with, the erosion, the winter storms that are getting more violent every year. What are we going to do about this, our precious land? Well, looking at honey DNA, we can see what plants are good for pollinators that have deep roots, that can secure the land, and together, everybody can participate. And the solution fits in a teaspoon. If your hometown might get swept away or destroyed by a natural disaster, we now have a blueprint suspended in time for how to restore that on Earth, or perhaps even in a greenhouse on Mars.
Thậm chí bạn có thể nghĩ ở ngay đây, những mảnh đất xinh đẹp kết nối chúng ta, nuôi dưỡng ta, bắt đầu với khoa học công dân, xói mòn đất, những trận bão tuyết mỗi năm một mạnh hơn. Chúng ta sẽ làm gì với đất yêu quý? Nhìn vào DNA mật ong, chúng ta có thể ra cây nào tốt cho động vật thụ phấn, lại có rễ sâu, có thể giữ đất, và mọi người có thể tham gia cùng nhau. Giải pháp chỉ vừa bằng cái muỗng. Nếu quê nhà của bạn có khả năng bị tàn phá bởi một thiên tai, giờ ta đã có một chỉ dẫn chi tiết về cách khôi phục lại nó trên Trái đất, hoặc cũng có thể là trong một căn nhà kính trên sao Hoả.
I know it sounds crazy, but think about this: a new Provincetown, a new hometown, a place that might be familiar that's also good for pollinators for a stable food system, when we're thinking about the future. Now, together, we know what's saving bees -- by planting diverse habitat. Now, together, we know how bees are going to save us -- by being barometers for environmental health, by being blueprints, sources of information, little data factories suspended in time.
Tôi biết điều này nghe thật điên rồ, những bạn hãy nghĩ: một Provincetown mới, một quê hương mới, một nơi quen thuộc và cũng tốt cho động vật thụ phấn cho hệ thống thức ăn ổn định khi ta nghĩ về tương lai. Bây giờ, cùng với nhau, chúng ta biết việc sẽ cứu loài ong - đó là trồng môi trường sống đa dạng. Giờ chúng ta biết cách ong bảo vệ chúng ta - chúng là dụng cụ đo sức khoẻ môi trường, là chỉ dẫn, nguồn thông tin, “nhà máy thông tin nhỏ” bất biến với thời gian
Thank you.
Cảm ơn các bạn.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)