In this rather long sort of marathon presentation, I've tried to break it up into three parts: the first being a whole lot of examples on how it can be a little bit more pleasurable to deal with a computer and really address the qualities of the human interface. And these will be some simple design qualities and they will also be some qualities of, if you will, the intelligence of interaction. Then the second part will really just be examples of new technologies -- new media falling very much into that mold. Again, I will go through them as fast as possible. And then the last one will be some examples I've been able to collect, which I think illustrate this at least as best I can, in the world of entertainment. People have this belief -- and I share most of it -- that we will be using the TV screens or their equivalents for electronic books of the future. But then you think, "My God! What a terrible image you get when you look at still pictures on TV." Well, it doesn't have to be terrible. And that is a slide taken from a TV set and it was pre-processed to be very sympathetic to the TV medium, and it absolutely looks beautiful.
Trong bài thuyết trình khá dài này, Tôi đã cố gắng chia nó thành ba phần: đầu tiên là rất nhiều ví dụ về làm cách nào để có thể thú vị hơn một chút khi giải quyết các vấn đề về máy tính và thực sự giải quyết vấn đề chất lượng giao diện người dùng. Và đó sẽ là vài chất lượng thiết kế đơn giản và nếu bạn muốn, nó cũng sẽ là vài đặc tính về trí tuệ tương tác. Sau đó, phần thứ hai sẽ thực ra chỉ là những ví dụ về công nghệ mới -- phương tiện truyền thông mới rơi rất nhiều vào khuôn mẫu đó. Một lần nữa, tôi sẽ lướt qua chúng nhanh nhất có thể. Và sau đó cái cuối cùng sẽ là một số ví dụ Tôi đã có thể thu thập, mà tôi nghĩ minh họa điều này ít nhất là tốt nhất có thể, trong thế giới giải trí. Mọi người có niềm tin này -- và tôi chia sẻ hầu hết niềm tin đó -- rằng chúng tôi sẽ sử dụng màn hình tivi hoặc tương đương của chúng cho sách điện tử của tương lai. Nhưng sau đó bạn nghĩ, “Chúa ơi! Thật khủng khiếp với hình ảnh mà bạn xem những bức ảnh tĩnh trên tivi.” Vâng, nó không phải là khủng khiếp. Và đó là một trang chiếu lấy từ tivi và nó đã được xử lý trước để phù hợp với phương tiện truyền hình, và nó trông hoàn toàn đẹp.
Well, what's happened? How did people get into this mess? Where you are now, all of a sudden, sitting in front of personal computers and video text -- teletext systems, and somewhat horrified by what you see on the screen? Well, you have to remember that TV was designed to be looked at eight times the distance of the diagonal. So you get a 13-inch, 19-inch, whatever, TV, and then you should multiply that by eight and that's the distance you should sit away from the TV set. Now we've put people 18 inches in front of a TV, and all the artifacts that none of the original designers expected to be seen, all of a sudden, are staring you in the face: the shadow mask, the scan lines, all of that. And they can be treated very easily; there are actually ways of getting rid of them, there are actually ways of just making absolutely beautiful pictures. I'm talking here a little bit about display technologies.
À, chuyện gì đã xảy ra? Làm thế nào mà mọi người mắc vào mớ hỗn độn này? Chỗ bạn đang ở, đột nhiên, ngồi trước máy tính cá nhân và videotext -- hệ thống teletext, và hơi kinh hoàng bởi những gì bạn nhìn thấy trên màn hình? Chà, bạn phải nhớ rằng tivi được thiết kế được nhìn với tám lần khoảng cách của đường chéo. Vì vậy, bạn có tivi 13 inch, 19 inch, bất cứ loại gì, và sau đó bạn nên nhân số đó với tám và đó là khoảng cách bạn nên ngồi cách xa tivi. Bây giờ chúng tôi đặt mọi người 18 inch trước tivi. và tất cả những tạo phẩm mà không nhà thiết kế ban đầu nào muốn được nhìn thấy, đột nhiên, đang nhìn chằm chằm vào mặt bạn: mặt nạ bóng, các đường quét, tất cả những thứ đó. Và chúng có thể được điều trị rất dễ dàng; thực sự có nhiều cách để loại bỏ chúng, thực sự có nhiều cách để tạo ra những bức ảnh hoàn toàn đẹp. Tôi đang nói ở đây một chút về công nghệ hiển thị.
Let me talk about how you might input information. And my favorite example is always fingers. I'm very interested in touch-sensitive displays. High-tech, high-touch. Isn't that what some of you said? It's certainly a very important medium for input, and a lot of people think that fingers are a very low-resolution sort of stylus for inputting to a display. In fact, they're not: it's really a very, very high-resolution input medium -- you have to just do it twice, you have to touch the screen and then rotate your finger slightly -- and you can move a cursor with great accuracy. And so when you see on the market these systems that have just a few light emitting diodes on the side and are very low resolution, it's nice that they exist because it still is better than nothing. But it, in some sense, misses the point: namely, that fingers are a very, very high-resolution input medium. Now, what are some of the other advantages? Well, the one advantage is that you don't have to pick them up, and people don't realize how important that is -- not having to pick up your fingers to use them. (Laughter)
Hãy để tôi nói về cách bạn có thể nhập thông tin. Và ví dụ yêu thích của tôi luôn là những ngón tay. Tôi rất quan tâm đến màn hình cảm ứng. Công nghệ cao, cảm ứng cao. Chẳng phải đó là những gì một số bạn đã nói sao? Nó chắc chắn là một phương tiện rất quan trọng cho đầu vào, và nhiều người nghĩ rằng ngón tay có độ phân giải rất thấp loại bút cảm ứng để nhập vào màn hình. Thực tế, không phải vậy: nó là một phương tiện đầu vào có độ phân giải rất cao bạn phải làm điều đó hai lần, bạn phải chạm vào màn hình và sau đó xoay nhẹ ngón tay của bạn -- và bạn có thể di chuyển con trỏ với độ chính xác cao. Và vì vậy trên thị trường những hệ thống này chỉ có một vài đèn đi-ốt phát quang ở bên và có độ phân giải rất thấp, thật tuyệt khi chúng tồn tại bởi vì nó vẫn tốt hơn là không có gì. Nhưng trong chừng mực nào đó, nó bỏ lỡ điểm: cụ thể là ngón tay là một phương tiện đầu vào có độ phân giải rất, rất cao. Bây giờ, một số lợi thế khác là gì? Ờm, một lợi thế là bạn không cần nhắc đến, và mọi người không nhận ra tầm quan trọng của nó -- không cần phải nhấc ngón tay của bạn để sử dụng chúng. (Tiếng cười)
When you think for a second of the mouse on Macintosh -- and I will not criticize the mouse too much -- when you're typing -- what you have -- you want to now put something -- first of all, you've got to find the mouse. You have to probably stop. Maybe not come to a grinding halt, but you've got to sort of find that mouse. Then you find the mouse, and you're going to have to wiggle it a little bit to see where the cursor is on the screen. And then when you finally see where it is, then you've got to move it to get the cursor over there, and then -- "Bang" -- you've got to hit a button or do whatever. That's four separate steps versus typing and then touching and typing and just doing it all in one motion -- or one-and-a-half, depending on how you want to count. Again, what I'm trying to do is just illustrate the kinds of problems that I think face the designers of new computer systems and entertainment systems and educational systems from the perspective of the quality of that interface.
Khi bạn nghĩ một giây về con chuột trên Macintosh -- và tôi sẽ không chỉ trích con chuột quá nhiều -- khi bạn đang gõ -- thứ bạn có -- bây giờ bạn muốn đặt thứ gì đó -- trước hết, bạn phải tìm con chuột. Bạn có lẽ phải dừng lại. Có thể không dừng hẳn lại, nhưng bạn phải phần nào tìm con chuột đó. Sau đó, bạn tìm thấy con chuột, và bạn sẽ phải ngọ nguậy nó một chút để xem con trỏ ở đâu trên màn hình. Và sau khi bạn thấy nó ở đâu xong, sau đó bạn phải di chuyển con trỏ đến đó, và khi đó - “Bùm” - bạn phải nhấn nút hoặc làm gì đó. Đó là bốn bước riêng biệt so với việc gõ và sau đó chạm vào và việc gõ và thực hiện tất cả trong một chuyển động -- hoặc một và một nửa, tùy thuộc vào cách bạn muốn đếm. Một lần nữa, những gì tôi đang cố minh họa là các loại vấn đề mà tôi nghĩ các nhà thiết kế phải đối mặt của hệ thống máy tính và hệ thống giải trí và hệ thống giáo dục mới từ góc độ chất lượng giao diện đó.
And another advantage, of course, of using fingers is you have 10 of them. And we have never known how to do this technically, so this slide is a fake slide. We never succeeded in using ten fingers, but there are certain things you can do, obviously, with more than one-finger input, which is rather fascinating. What we did stumble across was something ... Again, which is typical of the computer field, is when you have a bug that you can't get rid of you turn it into a feature. And maybe ... (Laughter) maybe a mouse is a new kind of bug. But the bug in our case was in touch-sensitive displays: we wanted to be able to draw -- you know, rub your finger across the screen to input continuous points -- and there was just too much friction created between your finger and the glass -- if glass was the substrate, which it usually is.
Và một lợi thế khác, tất nhiên, của việc sử dụng các ngón tay là bạn có 10 ngón. Và chúng tôi chưa bao giờ biết cách làm điều này về mặt kỹ thuật, vì vậy trang chiếu này là một trang giả tạo. Chúng tôi chưa từng thành công trong việc sử dụng cả mười ngón, nhưng rõ ràng là có một số điều bạn có thể làm, với đầu vào nhiều hơn một ngón tay, điều này khá hấp dẫn. Những gì chúng tôi đã vấp phải là một cái gì đó ... Một lần nữa, mà là điển hình của lĩnh vực máy tính, khi bạn gặp lỗi mà bạn không thể chữa, hãy biến nó thành một tính năng. Và có lẽ... (Cười) có thể chuột là một loại bọ mới. Nhưng lỗi trong trường hợp của chúng tôi là ở màn hình cảm ứng: chúng tôi muốn có thể vẽ -- bạn biết đấy, xoa ngón tay trên màn hình để nhập các điểm liên tục -- và có quá nhiều ma sát từ giữa ngón tay của bạn và tấm kính -- nếu tấm kính là chất nền, mà nó thường là như vậy.
So we found that that actually was a feature in the sense you could build a pressure-sensitive display. And when you touch it with your finger, you can actually, then, introduce all the forces on the face of that screen, and that actually has a certain amount of value. Let me see if I can load another disc and show you, quickly, an example. Now, imagine a screen, which is not only touch-sensitive now, it's pressure-sensitive. And it's pressure-sensitive to the forces both in the plane of the screen -- X, Y, and Z at least in one direction; we couldn't figure out how to come in the other direction. But let me get rid of the slide, and let's see if this comes on. OK. So there is the pressure-sensitive display in operation. The person's just, if you will, pushing on the screen to make a curve. But this is the interesting part.
Vì vậy, chúng tôi thấy rằng đó thực sự là một tính năng theo chừng mực mà bạn có thể tạo một màn hình cảm ứng lực. Và khi bạn chạm vào nó bằng ngón tay, sau đó, bạn thực sự có thể đưa vào tất cả các lực trên bề mặt của màn hình đó, và điều đó thực sự có một lượng giá trị nhất định. Để mình nạp đĩa khác xem sao và cho bạn thấy, nhanh thôi, một ví dụ. Bây giờ, hãy tưởng tượng một màn hình không chỉ có cảm ứng, nó là cảm ứng lực. Và nó là cảm ứng với lực cả trong mặt phẳng của màn hình -- X, Y và Z ít nhất theo một hướng; chúng tôi không thể tìm ra cách đi theo hướng khác. Nhưng -- để tôi bỏ qua trang chiếu này, và hãy xem nếu điều này xảy ra. Được rồi. Vì vậy, có màn hình cảm ứng lực đang hoạt động. Nếu bạn muốn, người đó chỉ cần ấn vào màn hình để tạo một đường cong. Nhưng đây mới là phần thú vị.
I want to stop it for a second because the movie is very badly made. And the particular display was built about six years ago, and when we moved from one room to another room, a rather large person sat on it and it got destroyed. So all we have is this record. (Laughter) But imagine that screen having lots of objects on it and the person has touched an object -- one of N -- like he did there, and then pushed on it. Now, imagine a program where some of those objects are physically heavy and some are light: one is an anvil on a fuzzy rug and the other one is a ping-pong ball on a sheet of glass. And when you touch it, you have to really push very hard to move that anvil across the screen, and yet you touch the ping-pong ball very lightly and it just scoots across the screen. And what you can do -- oops, I didn't mean to do that -- what you can do is actually feed back to the user the feeling of the physical properties. So again, they don't have to be weight; they could be a general trying to move troops, and he's got to move an aircraft carrier versus a little boat. In fact, they funded it for that very reason.
Tôi muốn dừng lại trong một giây bởi vì bộ phim được thực hiện rất tệ. Và màn hình cụ thể đã được xây dựng khoảng sáu năm trước, và khi chúng tôi chuyển từ phòng này sang phòng khác, một người khá lớn ngồi trên nó và nó bị phá hủy. Nên tất cả chúng tôi có là đoạn ghi này. (Tiếng cười) Nhưng hãy tưởng tượng rằng màn hình có rất nhiều vật thể trên đó và người đó đã chạm vào một vật thể -- một trong số... và... như anh ấy đã làm ở đó, và sau đó ấn vào nó. Bây giờ, hãy tưởng tượng một chương trình trong đó một số vật thể nặng và một số vật thể nhẹ: một là một cái đe trên một tấm thảm xù và cái còn lại là quả bóng bàn trên một tấm kính. Và khi bạn chạm vào nó, bạn phải ấn thật mạnh để di chuyển cái đe đó trên màn hình, vậy mà bạn lại chạm vào quả bóng bàn rất nhẹ và nó chỉ lướt qua màn hình. Và những gì bạn có thể làm -- ôi chết, tôi không có ý đó -- những gì bạn có thể làm thực sự là phản hồi lại cho người dùng cảm giác về tính chất vật lý. Vì vậy, một lần nữa, chúng không cần phải nặng; họ có thể là một vị tướng đang cố gắng di chuyển quân đội, và anh ấy phải di chuyển một tàu sân bay so với một chiếc thuyền nhỏ. Trên thực tế, họ đã tài trợ cho nó vì lý do đó.
(Laughter)
(Tiếng cười)
The whole notion, then, is one that at the interface there are physical properties in that transducer -- in this case it's pressure and touches -- that allow you to present things to the user that you could never present before. So it's not simply looking at the quality or, if you will, the luxury of that interface, but it's actually looking at the idea of presenting things that previously couldn't be presented before. I want to move on to another example, which is one of a different sort, where we're trying to use computer and video disc technology now to come up with a new kind of book. Here, the idea is that you're going to take this book, if you will, and it's going to come alive. You're going to sort of breathe life into it. We are so used to doing monologues. Filmmakers, for example, are the experts in monologue making: you make a film and it has a well-formed beginning, middle and end, and in some sense the art of it is that. And you then say, "There's an opportunity for making conversational movies." Well, what does that mean? And it sort of nibbles at the core of the whole profession and all the assumptions of that medium. So, book writing is the same thing.
Khi đó, toàn bộ ý niệm lúc này là về mặt giao diện có những đặc tính vật lý trong bộ chuyển đổi đó -- trong trường hợp này là lực và chạm -- cho bạn đưa ra các thứ cho người dùng mà bạn chưa có thể đưa ra trước đây. Vì vậy, nó không chỉ đơn giản là nhìn vào chất lượng hoặc, nếu bạn muốn, sự sang trọng của giao diện đó, nhưng nó thực sự nhìn vào ý tưởng của việc đưa ra các thứ mà trước đây không thể đưa ra được. Tôi muốn chuyển sang một ví dụ khác, đó là một trong những kiểu khác nhau, mà chúng tôi đang cố sử dụng máy tính và công nghệ đĩa ghi hình bây giờ để tạo ra một loại sách mới. Đây, ý tưởng là bạn sẽ lấy cuốn sách này, nếu bạn muốn, và nó sẽ trở nên sống động. Bạn sẽ thổi sức sống vào đó. Chúng ta đã quá quen với việc độc thoại. Ví dụ, các nhà làm phim là chuyên gia trong việc tạo ra đoạn độc thoại: bạn làm một bộ phim và nó có phần đầu, giữa và cuối được cấu trúc tốt, và theo một chừng mực nào đó, nghệ thuật của nó là thế. Và sau đó bạn nói, "Có một cơ hội để làm phim đối thoại.” Ờm, điều đó có nghĩa là gì? Và nó gần như gặm nhấm cốt lõi của toàn bộ nghề nghiệp và tất cả các giả định của phương tiện đó. Vì vậy, viết sách là điều tương tự.
What I'll show you very quickly is a new kind of book where it is mixed now with ... all sorts of things live in there, but you have to keep a few things in mind. One is that this book knows about itself. Each frame of the movie has information about itself. So it knows, or at least there is computer-readable information in the medium itself. It's just not a static movie frame. That's one thing. The other is that you have to realize that it is a random access medium, and you can, in fact, branch and expand and elaborate and shrink. And here -- again, my favorite example -- is the cookbook, the "Larousse Gastronomique." And I think I use the example all too often, but it's a great one because there is a classic ending in that little encyclopedia-style cookbook that tells you how to do something like penguin, and you get to the end of the recipe and it says, "Cook until done." Now, that would be, if you will, the top green track, which doesn't mean too much. But you might have to elaborate for me or for somebody who isn't an expert, and say, "Cook at 380 degrees for 45 minutes." And then for a real beginner, you would go down even further and elaborate more -- say, "Open the oven, preheat, wait for the light to go out, open the door, don't leave it open too long, put the penguin in and shut the door ..." (Laughter) whatever. And that's a much more elaborate one than you dribble back.
Những gì tôi sẽ sớm cho bạn thấy là một loại sách mới nơi nó được trộn lẫn với ... tất cả mọi thứ sống trong đó, nhưng bạn phải ghi nhớ một vài điều. Một là cuốn sách này biết về chính nó. Mỗi khung hình của bộ phim có thông tin về chính nó. Vì vậy, nó biết, hoặc ít nhất là có thông tin máy tính có thể đọc được trong chính phương tiện đó. Nó không chỉ là một khung phim tĩnh. Đó là một điều. Một điều khác là bạn phải nhận ra rằng nó là một phương tiện truy cập ngẫu nhiên, và trên thực tế, bạn có thể phân nhánh, mở rộng, xây dựng và thu nhỏ. Và đây -- một lần nữa, ví dụ ưa thích của tôi là sách dạy nấu ăn, "Larousse ẩm thực." Và tôi nghĩ rằng tôi đã sử dụng ví dụ này quá thường xuyên, nhưng đó là một ví dụ tuyệt vời bởi vì có một kết thúc kinh điển trong sách dạy nấu ăn kiểu bách khoa toàn thư mà chỉ cách làm các món như chim cánh cụt, và bạn đi đến cuối công thức và nó nói, “Nấu cho đến khi hoàn thành.” Bây giờ, nếu bạn muốn, đó sẽ là đường xanh trên cùng, mà không có nghĩa là quá nhiều. Nhưng bạn có thể phải giải thích cho tôi hoặc cho ai đó không phải là chuyên gia, và nói, "Nấu ở 380 độ trong 45 phút." Và sau đó đối với một người mới, bạn sẽ còn đi xuống nhiều hơn nữa và giải thích chi tiết hơn -- rằng, “Mở lò, làm nóng trước, chờ đèn tắt, mở cửa, đừng để nó mở quá lâu, bỏ chim cánh cụt vào và đóng cửa lại...” (Tiếng cười) sao cũng được. Và đó là một kỹ thuật phức tạp hơn nhiều so với bạn rê bóng trở lại.
That's one kind of use of random access. And the other is where you want to explain the same thing in different ways. If you're in a classroom situation and somebody asks a question, the last thing you do is repeat what you just said. You try and think of a different way of saying the same thing, or if you know the particular student and that student's cognitive style, then you might say it in a way that you think would have a good impedance match with that student. There are all sorts of techniques you will use -- and again, this is a different kind of branching. So, what I will show you is ... it's a rather boring book, but I'm afraid sometimes you have to do boring books because your sponsors aren't necessarily interested in fiction and entertainment. And this is a book on how to repair a transmission. Now, I don't even know what vintage the transmission is, but let me just show you very quickly some of it, and we'll move on.
Đó là một kiểu sử dụng quyền truy cập ngẫu nhiên. Và một kiểu khác mà mà bạn muốn giải thích cùng một điều theo những cách khác nhau Nếu bạn đang ở bối cảnh lớp học và ai đó đặt câu hỏi, điều cuối cùng bạn làm là lặp lại những gì bạn vừa nói. Bạn thử và nghĩ ra một cách khác để nói cùng một điều, hoặc nếu bạn biết một học sinh cụ thể và phong cách nhận thức của học sinh đó, sau đó bạn có thể nói theo cách mà bạn nghĩ sẽ có cái hợp nhau trở kháng tốt với học sinh đó. Có tất cả các loại kỹ thuật bạn sẽ sử dụng -- và một lần nữa, đây là một kiểu phân nhánh khác. Vì vậy, những gì tôi sẽ cho bạn thấy là ... đó là một cuốn sách khá nhàm chán, nhưng tôi sợ đôi khi bạn phải làm những cuốn sách nhàm chán bởi vì các nhà tài trợ của bạn không nhất thiết phải quan tâm đến tiểu thuyết và giải trí. Và đây là một cuốn sách về cách sửa hộp số. Bây giờ, tôi thậm chí còn không biết hộp số truyền thống là gì, nhưng hãy để tôi chỉ nhanh cho bạn một số thứ, và chúng ta sẽ tiếp tục.
(Video) Narrator: And continue to get descriptions for each of these chapters. Nicholas Negroponte: Now, this is his table of contents. Just a picture of the transmission, and as you rub your finger across the transmission it highlights the various parts.
(Video) Người trình bày: Và tiếp tục nhận các mô tả cho mỗi chương này. Nicholas Negroponte: Giờ đây là mục lục của anh ấy. Chỉ là hình ảnh của đường truyền, và khi bạn xoa ngón tay trên đường truyền nó làm nổi bật các phần khác nhau.
Narrator: When I find a chapter that I want to see, I just touch the text and the system will format pages for me to read. The words or phrases that are lit up in red are glossary words, so I can get a different definition by just touching the word, and the definition appears, superimposed over the illustration.
Người trình bày: Khi tôi thấy một chương mà tôi muốn xem, Tôi chỉ cần chạm vào văn bản và hệ thống sẽ định dạng các trang để tôi đọc. Các từ hoặc cụm từ sáng lên màu đỏ là các từ trong bảng thuật ngữ, để tôi có thể có một định nghĩa khác chỉ bằng cách chạm vào từ đó, và định nghĩa xuất hiện, chồng lên hình minh họa.
NN: This is about the oil pan, or the oil filter and all that. This is relatively important because it sets the page ...
NN: Cái này là cái chảo dầu, lọc dầu gì đó. Điều này tương đối quan trọng vì nó thiết lập trang...
Narrator: This is another example of a page with glossary words highlighted in red. I can get a definition of these words just by touching them, and the definition will appear in the illustration corner. I can get back to the illustration, but in this case it's not a single frame, but it's actually a movie of someone coming into the frame and doing the repair that's described in the text. The two-headed slider is a speed control that allows me to watch the movie at various speeds, in forward or reverse. And the movie is displayed as a full frame movie. I can go back to the beginning ... and play the movie at full speed. Here's another step-by-step procedure, only in this case --
Người kể chuyện: Đây là một ví dụ khác về trang với các từ trong bảng thuật ngữ đánh dấu màu đỏ. Tôi có thể hiểu được định nghĩa của những từ này chỉ bằng cách chạm vào chúng, và định nghĩa sẽ xuất hiện ở góc minh họa. Tôi có thể quay lại hình minh họa, nhưng lúc này nó không phải là khung hình đơn, nhưng nó thực ra là phim về ai đó bước vào khung hình và sửa chữa mà được mô tả trong văn bản. Thanh trượt hai đầu là điều khiển tốc độ cho phép tôi xem phim ở các tốc độ khác nhau, tiến hoặc lùi. Và phim được hiển thị dưới dạng phim toàn khuôn hình. Tôi có thể quay lại từ đầu... và phát phim ở tốc độ trọn vẹn. Đây là một quy trình từng bước khác, chỉ trong trường hợp này --
NN: Okay, this movie is ... Everybody's heard of sound-sync movies -- this is text-sync movies, so as the movie plays, the text gets highlighted. We highlight the text as we go through the movie. Repairman: ... Not too far out. Front poles, preferably. Don't loosen them too far. If you loosen them too far, you'll have a big mess. NN: I suspect that some of you might not even understand that language.
NN: Được rồi, phim này là... Mọi người đã nghe nói về phim đồng bộ hóa âm thanh -- đây là phim đồng bộ hóa văn bản nên khi phát, văn bản sẽ được đánh dấu. Chúng tôi đánh dấu văn bản khi chúng tôi xem qua bộ phim. Thợ sửa chữa: ... Cũng không xa lắm. Thường là cực trước. Đừng nới lỏng quá. Nếu bạn nới lỏng quá, bạn sẽ mắc phải một mớ hỗn độn lớn. NN: Tôi nghi ngờ rằng một số bạn thậm chí có thể không hiểu ngôn ngữ đó.
(Laughter)
(Tiếng cười)
OK. I'm at the third and last part of this, which I said I would make an attempt to at least give you some examples that may be more directly related to the world of entertainment. And of course, good education has got to be good entertainment, so my first example will be drawn from a very recent experiment that we've been doing -- in this case, in Senegal -- where we have tried to use personal computers as a pedagogical medium. But not as teaching machines at all; the whole notion is to use this as an instrument where there is a complete reversal of roles -- the child is, if you will, the teacher and the machine is the student -- and the art of computer programming is a vehicle that sort of approximates thinking about thinking. But teaching kids programming per se is utterly irrelevant. And there are just a few slides I want to go through,
VÂNG. Tôi đang ở phần thứ ba và phần cuối cùng của phần trình bày, mà tôi đã nói rằng tôi sẽ cố gắng ít nhất là cung cấp cho bạn một số ví dụ có thể liên quan trực tiếp hơn đến thế giới giải trí. Và tất nhiên, giáo dục tốt phải là giải trí tốt, vì vậy ví dụ đầu tiên của tôi sẽ được rút ra từ một thử nghiệm rất gần đây mà chúng tôi đang làm -- trong trường hợp này là ở Senegal -- nơi chúng tôi đã cố gắng sử dụng máy tính cá nhân như một phương tiện sư phạm. Nhưng hoàn toàn không phải là máy dạy học; toàn bộ ý niệm là sử dụng nó như một công cụ nơi có sự đảo ngược hoàn toàn về các vai trò -- đứa trẻ, nếu bạn muốn, là giáo viên và máy móc là học sinh -- và nghệ thuật lập trình máy tính là một phương tiện mà đại loại là mà gần giống với suy nghĩ về suy nghĩ. Nhưng bản thân việc dạy trẻ em lập trình là hoàn toàn không liên quan. Và chỉ có một vài trang tôi muốn xem qua,
but there's a story I'd like to tell. And that was when, before we did this in any developing countries -- we're doing it, in fact, in three developing countries right now: Pakistan, Colombia and Senegal -- we did it in some pretty rough areas of New York City. And one child, whose name I've forgotten, was about seven or eight years old, absolutely considered mentally handicapped -- couldn't read, didn't even make it in the lowest section of the school's classes -- and was pretty much not in school, though physically there. But did hang around the, quote, "computer room," where there were quite a few computers, and learned this particular language called Logo -- and learned it with great ease and found it a lot of fun, it was very interesting. And one day, by chance, some visitors from the NIE came by in their double-breasted suits looking at this setup, and none of the children who were normally there, except for this one child, were there.
nhưng có một câu chuyện tôi muốn kể. Và đó là khi, trước khi chúng tôi làm thế ở các nước đang phát triển -- thực tế, chúng tôi đang làm thế ở ba nước: Pakistan, Colombia và Senegal -- chúng tôi đã làm điều đó ở một số khu vực khá gồ ghề của Thành phố New York. Và một đứa trẻ, tôi đã quên tên, khoảng bảy hoặc tám tuổi, hoàn toàn được coi là thiểu năng trí tuệ -- không biết đọc, thậm chí không thuộc nhóm điểm thấp nhất của lớp -- và tâm trí gần như không ở trường, mặc dù thực tế là có đến lớp. Nhưng chúng đi loanh quanh cái gọi là “phòng máy tính,” nơi có khá nhiều máy tính, và học một ngôn ngữ đặc biệt được gọi là Logo -- và học nó một cách rất dễ dàng và thấy nó rất thú vị, nó rất thú vị. Và một hôm, tình cờ, một số khách từ NIE đến trong bộ đồ âu hai hàng khuy nhìn vào căn phòng này, và không có đứa trẻ nào thường ở đó, ngoại trừ một đứa trẻ này, đã ở đó.
He was, and he said, "Let me show you how this works," and they got an absolutely ingenuous, wonderful description of Logo. And the child was just zipping right through it, showing them all sorts of things until they asked him how to do something which he couldn't explain and so he flipped through the manual, found the explanation and typed the command and got it to do what they asked. They were delighted, and by the time it was time to go see the principal, whom they'd actually come to see -- not the computer room -- they went upstairs and they said, "This is absolutely remarkable! That child was very articulate and showed us and even dealt with the things he couldn't do automatically with that manual. It was just absolutely fantastic."
Cậu bé đã nói, “Để cháu chỉ cho chú cách nó hoạt động,” và họ đã có một mô tả hoàn toàn chân thật, tuyệt vời về Logo. Và đứa trẻ chỉ lướt qua nó, cho họ xem đủ thứ cho đến khi họ hỏi cậu bé làm thế nào để làm một thứ mà cậu không thể giải thích và vì vậy cậu lật qua sổ hướng dẫn, tìm thấy lời giải thích và gõ lệnh ra và nhận được thứ mà họ yêu cầu. Họ rất vui mừng, và đến lúc phải đi gặp hiệu trưởng, người mà họ thực sự đến gặp -- không phải phòng máy tính -- họ đi lên lầu và họ nói, “Điều này là thật sự đáng chú ý! Đứa trẻ đó rất rõ ràng và đã cho chúng tôi thấy và thậm chí xử lý những việc anh ấy không thể làm một cách tự động với cái sổ hướng dẫn đó. Nó hoàn toàn tuyệt vời.”
The principal said, "There's a dreadful mistake, because that child can't read. And you obviously have been hoodwinked or you've talked about somebody else." And they all got up and they all went downstairs and the child was still there. And they did something very intelligent: they asked the child, "Can you read?" And the child said, "No, I can't." And then they said, "But wait a minute. You just looked through that manual and you found ... " and he said, "Oh, but that's not reading." And so they said, "Well, what's reading then?" He says, "Well, reading is this junk they give me in little books to read. It's absolutely irrelevant, (Laughter) and I get nothing for it. But here, with a little bit of effort I get a lot of return."
Hiệu trưởng nói, “Có một sai lầm khủng khiếp, bởi vì đứa trẻ đó không biết đọc. Và rõ ràng là bạn đã bị lừa hoặc bạn đã nói về người khác." Và tất cả họ đứng dậy và tất cả họ đi xuống cầu thang và đứa trẻ vẫn ở đó. Và họ đã làm một điều rất thông minh: họ hỏi đứa trẻ, “Cháu có biết đọc không?” Và đứa trẻ nói, “Không, cháu không thể.” Và sau đó họ nói, “Nhưng đợi một chút. Cháu chỉ cần xem qua hướng dẫn đó và cháu tìm thấy ... ” và cậu bé nói, “Ồ, nhưng đó không phải là đọc.” Và vì vậy họ nói, “Chà, vậy đọc là gì đây?” Cậu ấy nói, “Chà, đọc là thứ rác rưởi mà họ đưa cháu những cuốn sách nhỏ để đọc. Nó hoàn toàn không liên quan, (Tiếng cười) và tôi chẳng nhận được gì từ nó cả. Nhưng ở đây, với một chút nỗ lực, tôi sẽ nhận lại được rất nhiều.”
And it really meant something to the child. The child read beautifully, it turned out, and was really very competent. So it actually meant something. And that story has many other anecdotes that are similar, but wow. The key to the future of computers in education is right there, and it is: when does it mean something to a child? There is a myth, and it truly is a myth: we believe -- and I'm sure a lot of you believe in this room -- that it is harder to read and write than it is to learn how to speak. And it's not, but we think speech -- "My God, little children pick it up somehow, and by the age of two they're doing a mediocre job, and by three and four they're speaking reasonably well. And yet you've got to go to school to learn how to read, and you have to sit in a classroom and somebody has to teach you. Hence, it must be harder." Well, it's not harder. What the truth is is that speaking has great value to a child; the child can get a great deal by talking to you.
Và nó thực sự có ý nghĩa với đứa trẻ. Hóa ra là đứa trẻ đọc rất hay và thực sự rất có năng lực. Vì vậy, nó thực sự có ý nghĩa. Và câu chuyện đó còn nhiều giai thoại khác tương tự như vậy, nhưng ồ. Chìa khóa cho tương lai của máy tính trong giáo dục nằm ngay đó, và nó là: khi nào nó có ý nghĩa với một đứa trẻ? Có một lời đồn và nó thực sự là một lời đồn: chúng tôi tin -- và tôi chắc rằng rất nhiều người trong phòng này tin -- rằng đọc và viết khó hơn học nói. Và không phải, ta nghĩ rằng “Chúa ơi, những đứa trẻ làm được bằng kiểu gì đó và đến hai tuổi, chúng đang làm những việc tầm thường, và đến ba và bốn tuổi, họ nói khá tốt. Tuy nhiên, bạn phải đến trường để học cách đọc, và bạn phải ngồi trong lớp học và ai đó phải dạy bạn. Do đó, nó phải khó hơn.” Chà, nó không khó hơn. Sự thật là nói có giá trị rất lớn đối với trẻ; trẻ có thể nhận được rất nhiều bằng cách nói chuyện với bạn.
Reading and writing is utterly useless. There is no reason for a child to read and write except blind faith, and that it's going to help you. (Laughter) So what happens is you go to school and people say, "Just believe me, you're going to like it. You're going to like reading," and just read and read. On the other hand, you give a kid -- a three-year-old kid -- a computer and they type a little command and -- Poof! -- something happens. And all of a sudden ... You may not call that reading and writing, but a certain bit of typing and reading stuff on the screen has a huge payoff, and it's a lot of fun. And in fact, it's a powerful educational instrument. Well, in Senegal we found that this was the traditional classroom: 120 kids -- three per desk -- one teacher, a little bit of chalk. This student was one of our first students, and it's the girl on the left leaning with her chalkboard, and she came ... within two days -- I want to show you the program she wrote, and remember her hairstyle. And that is the program she made.
Đọc và viết là hoàn toàn vô ích. Không có lý gì để một đứa trẻ đọc và viết ngoại trừ niềm tin mù quáng, và rằng nó sẽ giúp bạn. (Tiếng cười) Vì vậy, điều gì xảy ra khi bạn đến trường và mọi người nói, "Chỉ cần tin tôi, bạn sẽ thích nó. Bạn sẽ thích đọc sách,” và chỉ cần đọc và đọc. Mặt khác, bạn đưa cho một đứa trẻ -- một đứa trẻ ba tuổi -- một chiếc máy tính và họ gõ một câu lệnh nhỏ và -- Bùm! -- điều gì đó xảy ra. Và đột nhiên... Bạn có thể không gọi đó là đọc và viết, nhưng đó là một chút gõ và đọc nội dung trên màn hình thì cũng là kết quả xứng đáng, và nó rất thú vị. Và trên thực tế, nó là một công cụ giáo dục mạnh mẽ. Chà, ở Senegal, chúng tôi thấy rằng đây là lớp học truyền thống: 120 đứa trẻ -- ba đứa một bàn -- một giáo viên, một ít phấn. Những học sinh này là một trong những học sinh đầu tiên của chúng tôi, và bé gái bên trái đang dựa vào bảng phấn của mình, và cô bé đã đến... trong vòng hai ngày -- Tôi muốn cho bạn xem chương trình mà cô bé đã viết, và nhớ kiểu tóc của cô ấy. Và đó là chương trình cô ấy thực hiện.
That's what meant something to her, is doing the hair pattern, and actually did it within two days -- an hour each day -- and found it was, to her, absolutely the most meaningful piece ... But rooted in that, little did she know how much knowledge she was acquiring about geometry and just math and logic and all the rest. And again, I could talk for three hours about this subject. I will come to my last example and then quit. And my last example -- as some of my former colleagues, whom I see in the room, can imagine what it will be. Yes, it is. It's our work -- that was a while ago, and it still is my favorite project -- of teleconferencing. And the reason it remains a favorite project is that we were asked to do a teleconferencing system where you had the following situation: you had five people at five different sites -- they were known people -- and you had to have these people in teleconference, such that each one was utterly convinced that the other four were physically present. Now, that is sufficiently zany that we would, obviously, jump to the bait, and we did. And the fact that we knew the people -- we had to take a page out of the history of Walt Disney -- we actually went so far as to build CRTs in the shapes of the people's faces. So if I wanted to call my friend Peter Sprague on the phone, my secretary would get his head out and bring it and set it on the desk,
Đó là điều có ý nghĩa với cô ấy, là tạo kiểu tóc, và thực tế đã làm điều đó trong vòng hai ngày -- một giờ mỗi ngày -- và thấy rằng, đối với cô ấy, hoàn toàn là phần ý nghĩa nhất ... Nhưng bắt nguồn từ đó, cô biết bao nhiêu kiến thức cô ấy đang học về hình học và chỉ toán học và logic và tất cả những thứ còn lại. Và một lần nữa, tôi có thể nói ba giờ liền về chủ đề này. Được rồi, tôi sẽ đến với ví dụ cuối cùng của tôi và sau đó chúng ta sẽ dừng lại. Và ví dụ cuối cùng của tôi -- như một số đồng nghiệp cũ của tôi đang nhìn thấy trong phòng, có thể hình dung ra nó như thế nào. Vâng, đúng vậy. Đó là việc của chúng tôi -- cũng một thời gian rồi, và nó vẫn là dự án yêu thích của tôi -- về tổ chức hội nghị trực tuyến. Và lý do nó vẫn là một dự án yêu thích là chúng tôi được yêu cầu làm một hệ thống hội nghị trực tuyến nơi bạn đã có tình huống sau đây: bạn có 5 người ở 5 địa điểm khác nhau -- họ là những người nổi tiếng -- và bạn phải để cho những người này tham gia hội nghị trực tuyến, đến nỗi mỗi người đều phải hoàn toàn bị thuyết phục rằng bốn người kia đều đã có mặt. Bây giờ, đó đủ là một trò hề rằng rõ ràng là chúng tôi đã nhảy vào bẫy. Và thực tế là chúng tôi biết mọi người -- chúng tôi phải lấy một trang ra khỏi lịch sử của Walt Disney -- chúng tôi thực sự đã đi xa đến mức xây dựng các hệ thống CRT trong hình dạng khuôn mặt của mọi người. Nên nếu tôi muốn gọi điện cho người bạn Peter Sprague của mình, thư ký của tôi sẽ lấy đầu ra và mang đến và đặt nó trên bàn,
(Laughter)
(Tiếng cười)
and that would be the TV used for the occasion. And it's uncanny: there's no way I can explain to you the amount of eye contact you get with that physical face projected on a 3D CRT of that sort. The next thing that we had to do is to persuade them that there needed to be spatial correspondence, which is straightforward, but again, it's something that didn't fall naturally out of a telecommunications or computing style of thinking; it was a very, if you will, architectural or spatial concept. And that was to recognize that when you sit around the table, the actual location of the people becomes rather important. And when somebody gets up, in fact, to go answer a phone or use a bathroom or something, the empty seat becomes, if you will, that person. And you point frequently to the empty seat and you say, "He or she wouldn't agree," and the empty chair is that person and the spatiality is crucial. So we said, "Well, these will be on round tables and the order around the table had to be the same, so that at my site, I would be, if you will, real and then at each other's site you'd have these plastic heads. And the plastic heads, sometimes you want to project them. And there are a number of schemes, which I don't want to dwell on,
và đó sẽ là tivi được sử dụng cho dịp đó. Và thật kỳ lạ: tôi không biết cách nào để giải thích cho bạn lượng giao tiếp bằng mắt bạn nhận được với khuôn mặt vật lý đó được chiếu trên 3D CRT thuộc loại đó. Điều tiếp theo mà chúng tôi phải làm là thuyết phục họ cần phải có sự tương ứng về không gian, điều này rất đơn giản, nhưng một lần nữa, đó là thứ không tự nhiên ra khỏi viễn thông hoặc cách lập trình về suy nghĩ; nếu bạn tìm hiểu, đó là một khái niệm về kiến trúc hoặc không gian. Và đó là để nhận ra rằng khi bạn ngồi quanh bàn, vị trí thực tế của mọi người trở nên khá quan trọng. Và khi ai đó thức dậy, thực tế là để đi trả lời điện thoại hoặc đi tắm hay gì đó, thì chiếc ghế trống sẽ trở thành người đó, nếu bạn muốn. Và bạn thường xuyên chỉ vào ghế trống và bạn nói, “Anh ấy hoặc cô ấy sẽ không đồng ý,” và chiếc ghế trống là người đó và không gian là rất quan trọng. Vì vậy, chúng tôi nói, “Chà, những thứ này sẽ có trên bàn tròn và thứ tự quanh bàn phải giống nhau, để mà tại chỗ của tôi là thật, nếu bạn muốn, và sau đó tại địa điểm của người khác, bạn sẽ có những cái đầu nhựa này. Và những cái đầu nhựa, đôi khi bạn muốn chiếu chúng. Và có một số sự sắp xếp, mà tôi không muốn nói đến,
but this is the one that we finally used where we projected onto rear screen material that was molded in the face -- literally in the face of the person. And I'll show you one more slide, where this is actually made from something called a solid photograph and is the screen. Now, we track, on the person's head, the head motions -- so we transmit with a video the head positions -- and so this head moves in about two axes. So if I, all of a sudden, turn to the person to my left and start talking to that person, then at the person to my right's site, he'll see these two plastic heads talking to each other. And then if that person interrupts, then those two heads may turn. And it really is reconstructing, quite accurately, teleconferencing.
nhưng đây là cái mà cuối cùng chúng tôi đã sử dụng nơi chúng tôi chiếu lên vật liệu màn hình phía sau đã được đúc vào khuôn mặt -- thực tế là khuôn mặt của người đó. Và tôi sẽ cho bạn xem một trang nữa, nơi nó thực sự được tạo ra từ một cái gọi là một bức ảnh rắn và là màn hình. Bây giờ, chúng tôi theo dõi chuyển động của đầu người đó -- nên chúng tôi truyền đi băng ghi hình các vị trí đầu -- và do đó cái đầu này di chuyển theo hai trục. Vì vậy, nếu tôi đột nhiên quay sang người bên trái tôi và bắt đầu nói chuyện với người đó, sau đó tại vị trí người bên phải tôi, anh ta sẽ thấy hai cái đầu nhựa này nói chuyện với nhau. Và sau đó nếu người đó ngắt lời, thì hai cái đầu đó có thể quay đầu. Và nó thực sự đang tái tạo lại, khá chính xác, hội nghị trực tuyến.