Natalie MacMaster: I'm going to just quickly start out with a little bit of music here. (Applause)
Tôi sẽ bắt đầu với một bản nhạc ở đây ngay lúc này. (Vỗ tay)
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you! (Applause)
Cảm ơn! (Vỗ tay)
I took my shoes off to dance, but maybe I'll get at that later. Anyways, I... where to start? Well, I'm really excited to talk a bit about my own upbringing in music and family and all of that, but I'm even more excited for you people to hear about Donnell's amazing family and maybe even a little bit about how we met, and all that sort of thing, but for those of you that may not be familiar with my upbringing, I'm from Cape Breton Island, Nova Scotia, eastern Canada, which is a very, very musical island, and its origins come from Scotland with the music and all the traditions, the dancing, the language, which unfortunately is dying out in Cape Breton. The traditional language is Gaelic, but a lot of the music came from the Gaelic language, and the dancing and the singing and everything, and my bloodline is Scottish through and through, but my mother and father are two very, very musical people.
Tôi đã cởi giày ra để nhảy, nhưng chuyện đó để sau hãy nói đi. Còn bây giờ, tôi nên bắt đầu câu chuyện ở đâu nhỉ? Thực sự tôi cảm thấy rất hào hứng Tôi muốn chia sẻ cho các bạn một vài điều về việc tôi đã được nuôi dưỡng bởi âm nhạc ra sao, gia đình tôi, hay những điều tương tự, nhưng tôi thực sự muốn kể cho các bạn nghe về gia đình tuyệt vời của Donnell, và tiết lộ đôi chút về việc chúng tôi đã gặp nhau như thế nào, và những điều như vậy. Nhưng cho những ai chưa biết về thời thơ ấu của tôi, tôi đến từ hòn đảo Cape Breton, thuộc tỉnh Nova Scotia, miền đông Canada, một hòn đảo rất, rất yêu âm nhạc. Và vì có nguồn gốc từ Scotland nơi gắn liền với âm nhạc và các truyền thống lâu đời như các điệu nhảy, ngôn ngữ phong phú. Nhưng thật đáng tiếc là ngày nay nó đã bị mai một ở Cape Breton. Ngôn ngữ truyền thống ở đây là tiếng Gaelic, Bởi vậy rất nhiều giai điệu âm nhạc có nguồn gốc từ ngôn ngữ này, các điệu nhảy và bài hát cũng vậy. Tất cả những điều đó được tạo ra và hòa quyện thành dòng máu Scotland chảy trong con người tôi. Bố mẹ tôi là những con người cực kì yêu âm nhạc.
My mom taught me to dance when I was five, and my dad taught me to play fiddle when I was nine. My uncle is a very well-known Cape Breton fiddler. His name's Buddy MacMaster, and just a wonderful guy, and we have a great tradition at home called square dancing, and we had parties, great parties at our house and the neighbors' houses, and you talk about kitchen cèilidhs. Well, cèilidh first of all is Gaelic for party, but kitchen party in Cape Breton is very common, and basically somebody drops into the house, and no matter what house you go to in Cape Breton, there's a fiddle there, guaranteed, and I'd say, well there's first of all more fiddlers per capita in Cape Breton than anywhere in the world, so ten chances to one, the fellow who walked in the door could play it, so you'd have someone come into the house, you'd invite them to play a tune, and lo and behold a little party would start up and somebody would dance, and somebody would sing, and all that sort of thing, so it was a wonderful, wonderful way to grow up, and that is where my beginnings in music come from: my surroundings, my family, just my bloodline in itself, and, oh, I've done lots of things with my music.
Mẹ dạy tôi nhảy năm tôi lên 5, còn bố dạy tôi những bài học vĩ cầm đầu tiên năm tôi 9 tuổi. Chú tôi là một người chơi vĩ cầm rất nổi tiếng ở Cape Breton. Tên chú là Buddy MacMaster và chú là một con người rất tài năng. Gia đình chúng tôi còn có truyền thống tổ chức nhảy square dancing (điệu nhảy 4 cặp đôi đứng với nhau tạo thành hình vuông). Chúng tôi còn tổ chức những bữa tiệc lớn tại nhà hay những nhà hàng xóm khác. Và nói về việc tổ chức kitchen cèilidhs (bữa tiệc truyền thống thường được tổ chức và mùa đông của người Scotland) Vâng, cèilidh là mở đầu cho các lễ hội của Gaelic, nhưng bữa tiệc này ở Cape Breton chỉ là một bữa tiệc thông thường mà thôi. Đơn giản là bạn đến một ngôi nhà, một ngôi nhà bất kì ở Cape Breton thì cũng có người biết chơi vĩ cầm. Có một điều tôi dám chắc với bạn là, không ở đâu có số người biết chơi đàn vĩ cầm lại nhiều như ở Cape Breton Bạn có thể tìm được một người như vậy ngay khi vừa bước ra khỏi cửa. Bạn có thể mời ngay người đó vào nhà, cùng chơi nhạc và tận hưởng khoảnh khắc đó. Cứ như thế, nó biến thành bữa tiệc nhỏ, người thì nhảy, người thì hát rất vui. Và đó là một cách tuyệt vời để sống và lớn lên nơi có gia đình, họ hàng, những điều thú vị xung quanh mình. Tôi bắt đầu con đường âm nhạc từ những điều như vậy đó. Tôi đã làm được khá nhiều điều cho sự nghiệp âm nhạc của mình
I've recorded lots of CDs. I was nominated for a Grammy and I've won some awards and stuff like that, so that's awesome, but the best part was meeting my husband, and I've actually known Donnell for probably 12 years now, and I'm going to get into a little bit of, I guess, how music brought us together, but I'm going to introduce you right now to my new husband as of October 5, Donnell Leahy. (Applause)
Tôi đã thu âm và cho ra mắt nhiều sản phẩm âm nhạc, tôi cũng vinh dự nhận đề cử giải Grammy và nhận nhiều giải thưởng. Những điều đó thật tuyệt. Nhưng điều tuyệt nhất là tôi đã gặp được người bạn đời của mình. Tôi đã quen biết anh ấy có lẽ được 12 năm rồi. Tôi sẽ tiết lộ thêm trong chốc lác chuyện âm nhạc đã đưa chúng tôi lại gần nhau. Và bây giờ, tôi xin được giới thiệu, người đã cùng tôi gắn kết cuộc đời vào ngày 5 tháng 10 vừa qua, người chồng mới cưới của tôi, Donnell Leahy.
(Applause)
(Vỗ tay)
Donnell Leahy: Thank you. I'm kind of new to the TED experience and I'm glad to be here, but I'm just trying to put it all together, trying to figure all you people out, and I've been here for a short while, and I'm starting to understand a little bit better. So I asked Natalie, what do I do? And she said, just talk about yourself.
DL: Cảm ơn các bạn. Tôi cảm thấy rất vinh dự vì được mời đến đây ngày hôm nay. Dù không phải là người giỏi ăn nói lắm, tôi vẫn muốn có một cuộc trò chuyện cởi mở với mọi người. Thời gian cũng không phải quá nhiều nên tôi cảm thấy phân vân không biết nên nói gì. Nên tôi đã hỏi vợ tôi rằng anh nên nói gì bây giờ? Và cô ấy trả lời rằng cứ nói về bản thân anh là được.
It's kind of boring, but I'll just tell you a little bit about my family. I'm one of 11 brothers and sisters from Lakefield, Ontario, an hour and a half northeast of Toronto, and we grew up on a farm. Mom and Dad raised beef cattle, and I'm the oldest boy. There are four girls a little bit older than me. We grew up without a television. People find that strange, but I think it was a great blessing for us. We had a television for a few years, but of course we wasted so much time and the work wasn't getting done, so out went the television.
Nghe có vẻ nhàm chán, nhưng tôi muốn kể cho các bạn một chút về gia đình mình. Tôi sinh ra trong một gia đình có 11 anh chị em ở Lakefield, Ontario, cách Toronto khoảng 1,5 giờ lái xe theo hướng đông bắc. Anh em chúng tôi lớn lên ở nông trại nơi bố mẹ tôi sống bằng nghề nuôi bò. Tôi là người con trai đầu sau khi bố mẹ sanh bốn người chị gái. Chúng tôi lớn lên mà chẳng hề có TV. Nhiều người coi điều đó thật lạ lùng nhưng tôi cảm thấy thật hạnh phúc và may mắn vì điều đó. Thực ra chúng tôi cũng từng có TV, nhưng bạn biết đấy, nó khiến chúng tôi dán mắt vào xem suốt ngày và dĩ nhiên, công việc bị bỏ bê Thế nên cuối cùng tivi bị loại bỏ.
We grew up playing— Mom's from Cape Breton, coincidentally. Mom and Natalie's mother knew each other. We grew up playing, and used to dance together, right, yeah. (Laughter) We grew up playing a bunch of, we played by ear and I think that's important for us because we were not really exposed to a lot of different styles of music.
Thay vào đó anh em tôi chơi đùa cùng nhau rất vui vẻ. Thật trùng hợp là mẹ tôi cũng đến từ Cape Breton và quen biết mẹ của Natalie. Vậy nên chúng tôi đã có cơ hội được quen biết, chơi đùa và còn cùng nhau nhảy nhót tưng bừng nữa. (tiếng cười) Hai đứa cũng cùng chơi đàn, học thuộc bài nhạc từ âm thanh. Điều đó cũng khá quan trọng vì thực sự cả hai cũng chưa thật sự biết được nhiều thể loại âm nhạc khác.
We learned to play the instruments, but we kind of had to come from within or go from within, because we didn't watch television, we didn't listen to a lot of radio. We went to church and to school sometimes, and farmed and played music, so we were able, I think, at a very critical age to develop our own style, our own self, and my mother plays, my father plays, and the style that came from the Ottawa Valley in Ontario, we call it French-Canadian style but it originated in logging camps. Years ago, hundreds of men would go up for the winter to the camps in Northern Ontario and in Quebec, and they were all different cultures, and the Irish, the French, Scottish, German, they'd all meet, and of course at night, they'd play cards and step dance and play fiddles, and over the course of many years, the Ottawa Valley fiddling kind of evolved and the Ottawa Valley step dancing evolved, so that's, I kind of started out with that style and I quickly started doing my own thing, and then I met Natalie, and I was exposed to the great Cape Breton fiddling. That's how we met. (Laughter) You tell them. (Laughter)
Chúng tôi cùng học chơi nhạc cụ, nhưng dòng nhạc xuất phát từ nội tâm hoặc từ tâm hồn, Vì các bạn biết đấy, chúng tôi không xem TV, thậm chí ít khi nghe radio nữa. Chúng tôi chỉ quanh quẩn ở trường học, ở nông trại hay đi nhà thờ và chơi nhạc. Tuy khó nhưng chúng tôi vẫn nghĩ mình làm được. Tôi đã nghĩ rằng, ở độ tuổi đó thật khó để tìm ra bản thân mình là ai, phong cách của riêng mình là gì Lúc đó, tôi chơi nhạc cùng với bố mẹ mình theo phong cách của vùng Ottawa Valley của Ontario. Chúng tôi gọi đó là phong cách Pháp-Canada mà khởi nguồn chỉ bắt đầu từ những người dựng lều đốn gỗ trong rừng. Nhiều năm sau đó, trong mùa đông lạnh giá, có cả trăm người đàn ông đi lên vùng Northern Ontario và Quebec dựng lều cắm trại ở đó. Ở đây họ đã tiếp xúc với rất nhiều con người từ các nền văn hóa khác nhau, Từ Ai-len, Pháp, Scotland và cả người Đức nữa. Họ đã gặp nhau ở đó, cùng nhau chơi bài mỗi tối, tổ chức nhảy step dance (điệu nhảy chủ yếu tập trung vào chuyển động của bước chân) và chơi đàn vĩ cầm. Cứ như vậy qua nhiều năm, việc chơi đàn vĩ cầm và nhảy step dance ở Ottawa Valley đã ngày một phổ biến và phát triển hơn. Từ những điều đã học được, tôi đã tìm ra phong cách của riêng mình và đi theo con đường đó. Và khi gặp được Natalie, tôi cũng đã được tiếp cận những giai điệu vĩ cầm tuyệt vời nơi đây. Chúng tôi đã quen biết nhau như thế đấy (Tiếng cười) Em kể cho họ nghe đi. (Tiếng cười )
NM: You want to or no? (Laughter) Well I guess I have to now. Well, it's just so interesting that Donnell's upbringing was very similar to mine, and I actually saw Donnell play when I was about 12 years old, and he and his family came to Inverness, which is about 45 minutes from where I lived, and I was just blown away, like, it was just amazing, and you'll find out why pretty soon here, but I couldn't believe the fiddling and Mom was there with me, and she was saying — Donnell's mother came up on stage and danced with her children, and Mom was saying, "That's Julie MacDonnell, I used to dance with her when we were kids. Little did I think our children would be playing instruments, you know, playing music, yeah."
Natalie MacMaster: Anh không muốn kể ư? Vậy bây giờ tôi phải kể rồi. (Cười lớn) Thực sự tôi nghĩ thật thú vị khi chúng tôi được nuôi dưỡng trong môi trường rất giống nhau. Tôi đã xem anh ấy trình diễn lần đầu năm tôi 12 tuổi khi gia đình anh ấy đến Inverness, nơi chỉ cách nhà tôi 45 phút lái xe. Tôi cảm thấy thật khâm phục, anh ta thật tài tình khi chơi vĩ cầm. Và các bạn sẽ được xem và thưởng thức năng khiếu của anh. Và sẽ hiểu tại sau tôi nghĩ anh ta là một thiên tài. Mẹ tôi cũng có mặt ở đó và khi bà thấy mẹ của Donnell bà nói _ "Cô Julie MacDonell đang lên sân khấu nhảy với con cô ấy kìa. Mẹ và cô ấy đã từng nhảy nhót, chơi đùa với nhau khi cả hai chỉ là những đứa trẻ. Mẹ đã nghĩ là khi cả hai có con thì sẽ thật vui nếu cho chúng học nhạc và chơi nhạc cụ cùng nhau và chơi nhạc cụ cùng nhau." Mười hai, à hai mươi năm sau bà đâu ngờ
Twelve years, er, 20 years later little did she think her kids would be getting married, but anyway, so, then I got a phone call about, I dunno, seven years later. I was 19, first or second year of college, and it was Donnell, and he said "Hi, you probably don't know me but my name is Donnell Leahy." And I said, "I know you. I have a tape of yours at home." And he said, "Well, I'm in Truro," which is where I was, and he asked me out for supper. That's it. (Laughter) (Applause) Then — Will I keep going? (Laughs) (Laughter) Then we dated for two years, broke up for 10, got back together and got married. (Laughter) (Applause)
rằng chúng tôi sẽ lấy nhau. Khi tôi nhận cú điện thoại, cở chừng 7 năm sau đó, từ anh ấy. Năm đó tôi 19 tuổi, đang học năm thứ nhất thứ hai gì đó. Anh ấy đã nói: "Chào em, chắc em không biết anh đâu nhưng anh muốn cho em biết, tên anh là Donnell Leahy." Tôi trả lời rằng: "Em biết mà. Em có cả băng nhạc của anh ở nhà đấy nhé." Anh nói "Ừ, Anh hiện đang ở Truro" em có rảnh không, Anh mời em đi ăn tối được không?" Mọi chuyện là thế đấy. (Cười lớn) (Vỗ tay) Sau đó, mà tôi có nên tiếp tục không nhỉ? (Cười) (Cười lớn) Chúng tôi hẹn hò 2 năm, chia tay 10 năm nhưng rồi cuối cùng vẫn quay lại rồi làm đám cưới với nhau. (Cười, Vổ tay) DL: Chúng ta sắp hết giờ,
DL: So anyway, we're running out of time, so I'll just get to it. I'm going to play a piece of music for you. It's actually a Scottish piece I've chosen. I starts out with a slow air. Airs were played in Europe at burials, as a body was carried out from the wake site to the burial site, the procession was led by a piper or a fiddle player. I'll quickly play a short part of the air, and then I'm going to get into kind of a crazy tune that is very difficult to play when you're not warmed up, so, if I mess it up, pretend you like it anyway. It's called The Banks.
nên tôi sẽ bắt đầu. Tôi sẽ chơi một bản nhạc dành riêng cho các bạn. Và chọn phong cách âm nhạc của Scotland. Tôi đã bắt đầu chơi nhạc bằng những giai điệu chậm rãi, nhẹ nhàng. Nó đã từng được chơi ở châu Âu trong các lễ tang. Trong suốt cả tang lễ cho tới khi được đưa đi chôn cất, đoàn xe phục vụ tang lễ được dẫn đầu bởi dàn kèn hoặc những người chơi vĩ cầm. Tôi nhanh chóng chơi một giai điệu quen thuộc, nhưng tôi đã nhanh chóng nhận ra rằng nó thật khó chơi khi chưa dợt trước vài lần vậy nếu không hay lắm, xin các bạn thứ lổi. Bản nhạc gọi là The Banks.
(Tuning)
(Lên dây đàn)
(Laughter)
(Cười lớn)
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay)
NM: Well, we're gonna play one together now. (Applause) We're laughing, like, because our styles are totally different, as you can hear. And so, you know, Donnell and I are actually in the process of writing new pieces of music together that we can play, but we don't have any of those ready. We just started yesterday. (Laughter) So we're gonna play something together anyway.
NM: Giờ chúng tôi cùng chơi một bản nhạc nha. (Vỗ tay) Các bạn biết vì sao chúng tôi cười không? Bởi vì chúng tôi có phong cách hoàn toàn khác nhau. Các bạn sẽ thấy ngay thôi. Các bạn có biết không, tôi và Donnell đang viết một bản nhạc để chúng tôi có thể chơi cùng với nhau. Nhưng giờ thì chắc chưa thể giới thiệu cho các bạn được. Vì chúng tôi mới bắt đầu viết từ hôm qua thôi. (Cười lớn) Vậy giờ chúng tôi sẽ cùng chơi một bản nhạc nhé.
DL: With one minute.
DL: Trong vòng 1 phút nhé.
NM: With one minute.
NM: Ừ, trong vòng 1 phút.
(Audience reaction)
(Phản ứng khán giả)
DL: You start. NM: No, you have to start, because you've got to do your thing.
DL: Em bắt đầu đi. NM: Không, anh bắt đầu trước. Anh biết mình phải làm gì mà.
(Music)
(Âm nhạc)
NM: I'm not tuned. Hold on.
NM: Không phải âm thanh này. Chờ đã.
(Tuning)
(Lên dây đàn)
NM: I feel like I'm in the duck or the bird pose right now. (Laughter)
NM: Tôi cảm thấy nó giống như tiếng kêu của vịt hay chim ấy (Tiếng cười)
(Music)
(Âm nhạc)
(Audience claps along)
(Khán giả vỗ tay theo điệu nhạc)
(Applause)
(vỗ tay tán thưởng)
Announcer: Great news, they're running late downstairs. We've got another 10 minutes. (Applause)
Dẫn chương trình: Tin tốt đây. Hậu trường chạy chương trình muộn hơn dự kiến. Và chúng ta sẽ có thêm 10 phút trình diễn. (vỗ tay tán thưởng)
NM: Okay. Sure. All right, okay. Let's get her going. (Applause)
NM: Được thôi. Được, hay quá, Hãy tiếp tục với một bản nhạc nữa. (Vỗ tay)
(Tuning)
(Giai điệu vang lên)
DL: What do you want to play?
DL: Em muốn chơi bài gì nào?
NM: Well, um...
NM: Ừ thì...
(Music) (Laughter)
(Âm nhạc) (Cười lớn)
NM: Uh, sure.
NM: Ừ, được rồi
DL: How fast?
DL: Có nhanh quá không?
NM: Not too fast.
NM: Không nhanh lắm đâu.
(Music)
(Âm nhạc)
(Audience claps along)
(Khán giả vỗ tay theo bài hát)
(Cheering)
(Cổ vũ)
(Audience claps along)
(Khán giả vỗ tay theo bài hát)
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay tán thưởng)
DL: We're going to play a tune and Natalie's going to accompany me on the piano. The Cape Breton piano playing is just awesome. It's very rhythmic and, you'll see it. My mom plays piano, and she learned to play before they had a piano at home in Cape Breton. Before Mom's family had a piano in Cape Breton, she learned to play the rhythms on a piece of board, and the fiddlers would all congregate to play on the cold winter's evenings and Mom would be banging on this board, so when they bought a piano, they bought it in Toronto and had it taken by train and brought in on a horse, a horse and sleigh to the house. It became the only piano in the region, and Mom said she could basically play as soon as the piano arrived, she could play it because she had learned all these rhythms. Anyway, we found the piano last year and were able to bring it back home. We purchased it. It had gone through, like, five or six families, and it was just a big thing for us, and we found actually an old picture of somebody and their family years ago. Anyway, I'm blabbering on here.
DL: Chúng tôi sẽ cùng chơi một giai điệu và Natalie sẽ đệm đàn piano cho tôi. Chơi nhạc theo phong cách của Cape Breton thật tuyệt. Nó rất nhịp nhàng. Tôi tin là bạn sẽ thấy điều đó. Mẹ tôi chơi piano và bà đã học để chơi nó trước khi nhà ông bà ngoại có một cây ở nhà ở Cape Breton. Trước khi có đàn piano, bà học những giai điệu trên một miếng gỗ, và những người chơi vĩ cầm thì muốn tổ chức một buổi gặp mặt để chơi nhạc trong những đêm đông lạnh giá. Mẹ tôi khi đó chỉ có thể đánh vào tấm bảng. Và khi mẹ được mua cây đàn piano đó, Cây đàn đã được mua ở Toronto và gửi về bằng tàu hỏa, rồi lại di chuyển bằng ngựa, cuối cùng nó cũng về tới nhà bằng xe trượt tuyết. Chiếc piano đó trở thành cây đàn duy nhất của cả vùng, và mẹ tôi nói rằng mẹ đã biết chơi đàn một cách cơ bản từ trước khi nó đến rồi đấy nhé. Mẹ bảo bà biết chơi vì đã học hết các giai điệu rồi. Chúng tôi muốn chia sẻ rằng chúng tôi đã tìm được cây đàn vào năm ngoái và mang nó về nhà rồi.Chúng tôi đã tậu được nó. Chiếc đàn đã được trao tay qua năm hay sáu gia đình , nhưng nó lại là một điều rất có ý nghĩa với chúng tôi. Tình cờ chúng tôi đã tìm ra tấm ảnh cũ của một ai đó và gia đình họ nhiều năm về trước. Ôi trời, tôi trở thành người ba hoa ở đây mất rồi.
NM: No, I want you to tell them about Leahy.
NM: Không đâu mà. Em muốn anh nói thêm về Leahy.
DL: What about Leahy? (Laughter)
DL: Điều gì về Leahy cơ? (cười lớn)
NM: Just tell them what—
NM: Gì cũng được.
DL: She wants me to talk about— We have a band named Leahy. There's 11 siblings. We, um— What will I tell them? (Laughter) We opened—
DL: Cô ấy muốn tôi nói về ban nhạc của gia đình chúng tôi. Ban nhạc tên là Leahy gồm 11 anh chị em chúng tôi. Chúng tôi... Tôi sẽ nói gì về họ bây giờ? (Cười lớn) Chúng tôi đã được thành lập.
NM: No surgeries.
NM: Không hề chia tách.
DL: No surgeries, oh yeah. We had a great opportunity. We opened for Shania Twain for two years on her international tour. It was a big thing for us, and now all my sisters are off having babies and the boys are all getting married, so we're staying close to home for, I guess, another couple of weeks. What can I say? I don't know what to say, Natalie. We, uh... (Laughter)
DL: Ừ, bọn anh không tách rời nhau. Chúng tôi đã có một cơ hội tuyệt vời. Chúng tôi trình diễn màn đầu cho tua diễn quốc tế của danh ca Shania Twain. Nó thực sự là một điều rất lớn lao với chúng tôi. Hiện giờ thì các chị em gái của tôi đều nghỉ để sinh em bé hết rồi, còn các anh em trai cũng đều đã lập gia đình nên chúng tôi nghỉ ở nhà vì tôi nghĩ là sắp có một cặp đôi nữa trong vài tuần tới. Tôi phải nói gì bây giờ. Tôi chẳng biết nói gì nữa. Natalie à, chúng ta... (Cười lớn)
(Laughter)
(Cười lớn)
NM: Is this what marriage is about? (Applause) I like it. (Applause)
NM: Ý anh nói về chúng mình hả? (Vỗ tay) Ý tưởng đó hay đấy. (Vỗ tay)
(Laughter)
(Cười lớn)
DL: Oh yeah, okay, in my family we had seven girls, four boys, we had two fiddles and one piano, and of course we were all fighting to play on the instruments, so dad and mom set a rule that you couldn't kick anyone off the instrument. You had to wait until they were finished, so of course, what we would do is we'd get on the piano and you wouldn't even get off to eat, because you wouldn't want to give it up to your brother or sister, and they'd wait and wait and wait, and it'd be midnight and you'd be still sitting there on the piano, but it was their way to get us to practice. Will we play a tune?
DL: Được rồi. Nhà tôi có 7 chị em gái, 4 anh em trai, nhưng chỉ có hai cây vĩ cầm và một cây piano. Dĩ nhiên là chúng tôi giành nhau để được chơi nhạc cụ. Vậy nên bố mẹ tôi đã đề ra quy định là không được tranh giành và bắt nạt lẫn nhau để chiếm lấy nhạc cụ. Chúng tôi phải chờ đến khi người khác chơi xong. Vậy nên, việc mà có thể làm là trèo lên cây piano, chơi đàn mà không dám rời khỏi đó để đi ăn cơm. Vì như vậy có nghĩa là phải chấp nhận từ bỏ. Các anh chị em chúng tôi cứ đợi, đợi mãi, có khi đến tận nửa đêm. Người đang chơi thì cứ ngồi mãi trên cây piano như vậy. Tuy vậy nhưng tôi nghĩ đó là cách Bố mẹ dạy chúng tôi luyện tập. Giờ mình chơi một giai điệu gì đó nha?
NM: It worked. DL: It worked. Sorry, I hate to carry on... So this is our last number, and we'll feature Nat on piano. Okay, play in, how about A?
NM: Ừ, bắt đầu thôi. DL: Ừ, bắt đầu nhé. Xin lỗi phải nói với các bạn đây là bản nhạc cuối cùng rồi, và tôi sẽ chơi nó cùng Nat trên piano. Được rồi, bắt đầu nhé.
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay)