There's a question I've been puzzling over and writing about for pretty much all of my adult life. Why do some large-scale crises jolt us awake and inspire us to change and evolve while others might jolt us a bit, but then it's back to sleep? Now, the kind of shocks I'm talking about are big -- a cataclysmic market crash, rising fascism, an industrial accident that poisons on a massive scale. Now, events like this can act like a collective alarm bell. Suddenly, we see a threat, we get organized. We discover strength and resolve that was previously unimaginable. It's as if we're no longer walking, but leaping. Except, our collective alarm seems to be busted. Faced with a crisis, we often fall apart, regress and that becomes a window for antidemocratic forces to push societies backwards, to become more unequal and more unstable.
Có một câu hỏi tôi từng băn khoăn và viết về nó gần như cả cuộc đời trưởng thành của mình. Tại sao một số cuộc khủng hoảng quy mô lớn đánh thức chúng ta và truyền cảm hứng cho chúng ta thay đổi và phát triển, trong khi một số khác chỉ khiến ta giật mình một chút, và rồi để nó chìm vào quên lãng? Những cú sốc mà tôi đang nói đến đều rất lớn -- sự sụp đổ thị trường thảm khốc, chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, một tai nạn công nghiệp chất độc ở quy mô lớn. Những sự kiện như này vận hành như một hồi chuông báo động tập thể. Đột nhiên, chúng ta cảm thấy mối đe dọa, chúng ta tổ chức lại. Chúng ta khám phá ra sức mạnh và quyết tâm không tưởng. Như thể chúng ta không còn “đi bộ” nữa mà “nhảy vọt”. Ngoại trừ, hồi chuông báo động của ta dường như đã bị hỏng. Khi đối mặt với khủng hoảng, chúng ta thường suy sụp, thoái lui và nó trở thành cơ hội cho các lực lượng phản dân chủ đẩy lùi xã hội, trở nên bất bình đẳng và bất ổn hơn.
Ten years ago, I wrote about this backwards process and I called it the "Shock Doctrine." So what determines which road we navigate through crisis? Whether we grow up fast and find those strengths or whether we get knocked back. And I'd say this is a pressing question these days. Because things are pretty shocking out there. Record-breaking storms, drowning cities, record-breaking fires threatening to devour them, thousands of migrants disappearing beneath the waves. And openly supremacist movements rising, in many of our countries there are torches in the streets. And now there's no shortage of people who are sounding the alarm. But as a society, I don't think we can honestly say that we're responding with anything like the urgency that these overlapping crises demand from us. And yet, we know from history that it is possible for crisis to catalyze a kind of evolutionary leap.
Mười năm trước tôi đã viết về quá trình đi lùi này và tôi gọi là “Học thuyết gây Sốc”. Vậy điều gì quyết định con đường giúp ta vượt qua khủng hoảng? Ta sẽ trưởng thành nhanh và tìm ra những điểm mạnh hay ta sẽ bị đánh bật trở lại. Và tôi muốn nói đây là một câu hỏi cấp bách hiện nay. Bởi vì mọi thứ đều khá kinh hoàng ngoài đó. Những cơn bão chưa từng có, các thành phố bị nhấn chìm, những đám cháy kỷ lục đe dọa nuốt chửng họ, hàng nghìn người di cư biến mất dưới làn sóng. Và các phong trào chủ nghĩa thượng đẳng công khai nổi lên, ở đất nước chúng ta, như những “ngọn đuốc” đường phố. Và bây giờ không hiếm những người gióng lên hồi chuông cảnh báo. Nhưng là một xã hội, tôi không nghĩ ta có thể thành thật nói rằng chúng ta đang giải quyết bất cứ điều gì mang tính khẩn cấp mà những cuộc khủng hoảng chồng chéo này đòi hỏi ở chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết từ lịch sử, rằng khủng hoảng xảy ra sẽ xúc tác cho bước nhảy tiến hóa.
And one of the most striking examples of this progressive power of crisis is the Great Crash of 1929. There was the shock of the sudden market collapse followed by all of the aftershocks, the millions who lost everything thrown onto breadlines. And this was taken by many as a message that the system itself was broken. And many people listened and they leapt into action. In the United States and elsewhere, governments began to weave a safety net so that the next time there was a crash there would be programs like social security to catch people. There were huge job-creating public investments in housing, electrification and transit. And there was a wave of aggressive regulation to reign in the banks.
Và một trong những ví dụ nổi bật nhất về sức mạnh tiến bộ từ khủng hoảng là cuộc Đại Đổ Vỡ năm 1929. Nó là một cú sốc về sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán theo sau là tất cả các dư chấn, hàng triệu người mất tất cả xếp hàng dài ở khu cứu tế. Và nhiều người coi nó như một thông điệp cho biết bản thân hệ thống đã bị hỏng. Và nhiều người đã lắng nghe và bắt tay vào hành động. Tại Hoa Kỳ và nhiều nơi, chính phủ bắt đầu thiết lập một mạng lưới an toàn để nếu còn những vụ Đổ Vỡ khác sẽ có những chương trình như An ninh Xã hội để hỗ trợ họ. Có những hệ thống công lập tạo việc làm đầu tư vào nhà ở, điện khí hóa và vận chuyển. Và có một quy phạm mạnh mẽ ngự trị trong các ngân hàng.
Now, these reforms were far from perfect. In the US, African American workers, immigrants and women were largely excluded. But the Depression period, along with the transformation of allied nations and economies during the World War II effort, show us that it is possible for complex societies to rapidly transform themselves in the face of a collective threat. Now, when we tell this story of the 1929 Crash, that's usually the formula that it follows -- that there was a shock and it induced a wake-up call and that produced a leap to a safer place.
Giờ đây, những cải cách này vẫn chưa hoàn hảo. Ở Mỹ, công nhân người Mỹ gốc Phi, người nhập cư và phụ nữ phần lớn vẫn bị bỏ lại. Nhưng thời kỳ Suy thoái, cùng với sự chuyển đổi của các quốc gia và nền kinh tế đồng minh trong nỗ lực của Thế Chiến II, cho chúng ta thấy rằng, có cơ hội cho những xã hội phức tạp chuyển đổi bản thân một cách nhanh chóng khi đối mặt với mối đe dọa tập thể. Giờ đây, khi chúng ta bàn về câu chuyện Đổ Vỡ năm 1929, tất cả tuân theo một công thức chung -- rằng đã có một “cú sốc” và nó mang đến một “lời cảnh tỉnh” và điều đó đã tạo ra một “bước nhảy vọt” đến một nơi an toàn hơn.
Now, if that's really what it took, then why isn't it working anymore? Why do today's non-stop shocks -- why don't they spur us into action? Why don't they produce leaps? Especially when it comes to climate change.
Bây giờ, nếu đó thực sự là điều cần làm, vậy thì tại sao nó không hoạt động nữa? Tại sao những cú sốc không ngừng hiện nay -- tại sao chúng không thúc đẩy ta hành động? Tại sao chúng không tạo ra bước nhảy vọt? Đặc biệt là khi bàn đến biến đổi khí hậu.
So I want to talk to you today about what I think is a much more complete recipe for deep transformation catalyzed by shocking events. And I'm going to focus on two key ingredients that usually get left out of the history books.
Hôm nay tôi muốn bàn luận với các bạn ý nghĩ của tôi về một công thức hoàn chỉnh hơn cho sự biến đổi sâu sắc được xúc tác từ những sự kiện gây sốc. Và tôi sẽ tập trung vào hai phần chính mà thường bị lãng quên khỏi sử sách.
One has to do with imagination, the other with organization. Because it's in the interplay between the two where revolutionary power lies. So let's start with imagination. The victories of the New Deal didn't happen just because suddenly everybody understood the brutalities of laissez-faire. This was a time, let's remember, of tremendous ideological ferment, when many different ideas about how to organize societies did battle with one another in the public square. A time when humanity dared to dream big about different kinds of futures, many of them organized along radically egalitarian lines. Now, not all of these ideas were good but this was an era of explosive imagining. This meant that the movements demanding change knew what they were against -- crushing poverty, widening inequality -- but just as important, they knew what they were for. They had their "no" and they had their "yes," too. They also had very different models of political organization than we do today.
Một cái liên quan đến trí tưởng tượng, cái còn lại liên quan đến tổ chức. Bởi sự tương tác giữa hai điều này là nơi sức mạnh cách mạng hình thành. Vì vậy, hãy bắt đầu với trí tưởng tượng. Những thắng lợi của Chính sách mới đã không xảy ra chỉ vì đột nhiên mọi người đều hiểu ra sự tàn bạo của Tự do Kinh tế. Hãy nhớ rằng, đây là khoảng thời gian gây náo động của hệ tư tưởng lớn, khi có nhiều phe tư tưởng khác nhau về cách tổ chức xã hội đã tranh luận công khai. Thời điểm mà nhân loại dám mơ lớn về những tương lai khác nhau, nhiều người đã tổ chức theo đường lối chủ nghĩa bình đẳng một cách triệt để. Bây giờ, không phải tất cả ý tưởng đều tốt nhưng đây là thời đại bùng nổ trí tưởng tượng. Điều này có nghĩa là các phong trào đòi thay đổi biết mình đang chống lại điều gì: tình trạng đói nghèo, `gia tăng bất bình đẳng, nhưng cũng quan trọng không kém, họ biết họ có giá trị gì. Họ biết thứ phải nói “không” và thứ nên nói “có“. Họ cũng có những mô hình tổ chức chính trị rất khác nhau so với chúng ta ngày nay.
For decades, social and labor movements had been building up their membership bases, linking their causes together and increasing their strength. Which meant that by the time the Crash happened, there was already a movement that was large and broad enough to, for instance, stage strikes that didn't just shut down factories, but shut down entire cities. The big policy wins of the New Deal were actually offered as compromises. Because the alternative seemed to be revolution.
Trong nhiều thập kỷ, các phong trào xã hội và lao động đã và đang xây dựng khối thành viên nền tảng của họ, liên kết động lực của nhau và tăng sức mạnh cho nhau. Điều đó có nghĩa là vào thời điểm vụ Đổ Vỡ xảy ra, đã có một phong trào đủ lớn và rộng ví dụ như các cuộc đình công dẫn đến không chỉ đóng cửa các nhà máy, mà đóng cửa cả thành phố. Chính sách vẻ vang nhất của Chính sách Mới thực ra được đề xuất dưới dạng thỏa thuận. Bởi vì giải pháp thay thế có vẻ là một cuộc cách mạng.
So, let's adjust that equation from earlier. A shocking event plus utopian imagination plus movement muscle, that's how we get a real leap.
Vậy, hãy điều chỉnh lại phương trình trước đó. Một “sự kiện gây sốc” cộng với “trí tưởng tượng không tưởng” cộng với “cuộc vận động sức lực”, đó là cách chúng tôi có được một bước nhảy vọt thực sự.
So how does our present moment measure up? We are living, once again, at a time of extraordinary political engagements. Politics is a mass obsession. Progressive movements are growing and resisting with tremendous courage. And yet, we know from history that "no" is not enough. Now, there are some "yeses" out there that are emerging. And they're actually getting a lot bolder quickly. Where climate activists used to talk about changing light bulbs, now we're pushing for 100 percent of our energy to come from the sun, wind and waves, and to do it fast. Movements catalyzed by police violence against black bodies are calling for an end to militarized police, mass incarceration and even for reparations for slavery. Students are not just opposing tuition increases, but from Chile to Canada to the UK, they are calling for free tuition and debt cancellation. And yet, this still doesn't add up to the kind of holistic and universalist vision of a different world than our predecessors had. So why is that?
Vậy thời điểm hiện tại của chúng ta được “đo lường” như nào? Chúng ta đang sống, một lần nữa, tại thời đại của những cam kết chính trị phi thường. Chính trị là nỗi ám ảnh của đại chúng. Các phong trào tiến bộ đang phát triển và kháng cự bằng lòng dũng cảm to lớn. Tuy nhiên, từ lịch sử chúng ta biết rằng nói “không” là chưa đủ. Bây giờ, có một số thứ phải nói “có” đang xuất hiện. Và chúng thực sự đang nhanh chóng trở nên táo bạo hơn rất nhiều. Từ đề xuất thay bóng đèn của các nhà hoạt động khí hậu, giờ chúng tôi đang dùng 100 phần trăm năng lượng đến từ mặt trời, gió và sóng biển, và thực hiện chúng nhanh chóng. Các phong trào nổi lên từ hành vi bạo lực của cảnh sát với người da đen kêu gọi kết thúc chế độ cảnh sát quân sự, việc phạt tù hàng loạt và thậm chí là bồi thường cho chế độ nô lệ. Sinh viên không chỉ phản đối việc tăng học phí, mà từ Chile đến Canada tới Vương quốc Anh, họ đang kêu gọi miễn học phí và xóa nợ sinh viên. Tuy nhiên, điều này vẫn không tạo ra một loại tầm nhìn toàn diện và phổ quát cho một thế giới khác hơn những người tiền nhiệm từng có. Tại sao lại như vậy?
Well, very often we think about political change in defined compartments these days. Environment in one box, inequality in another, racial and gender justice in a couple of other boxes, education over here, health over there. And within each compartment, there are thousands upon thousands of different groups and NGOs, each competing with one another for credit, name recognition and of course, resources. In other words, we act a lot like corporate brands. Now, this is often referred to as the problem of silos. Now, silos are understandable. They carve up our complex world into manageable chunks. They help us feel less overwhelmed. But in the process, they also train our brains to tune out when somebody else's issue comes up and when somebody else's issue needs our help and support. And they also keep us from seeing glaring connections between our issues.
Ta thường nghĩ sự thay đổi trong chính trị được xác định bởi các dự luật thời nay, Môi trường ở một “ngăn” tài liệu , bất bình đẳng ở một “ngăn” khác, công bằng về chủng tộc và giới tính trong một vài “ngăn” khác nữa, giáo dục ở đây, sức khỏe ở đó. Và trong mỗi “ngăn”, có hàng ngàn nhóm và tổ chức phi chính phủ khác nhau, các bên cạnh tranh với nhau để giành được tín nhiệm, độ nhận diện và tất nhiên là cả tài nguyên. Nói cách khác, chúng ta hành động rất giống thương hiệu doanh nghiệp. Và nó thường được gọi là vấn đề về Silo. (Silo: giao tiếp kém giữa các bộ phận) Xảy ra Silo là điều dễ hiểu. Chúng chia thế giới phức tạp của ta thành những phần để quản lý được. Chúng giúp chúng ta bớt thấy choáng ngợp hơn. Nhưng trong quá trình đó, chúng cũng rèn luyện bộ não của ta lờ đi khi xuất hiện vấn đề của người khác và khi người khác cần sự giúp đỡ và hỗ trợ từ chúng ta với vấn đề của họ. Và chúng cũng khiến ta không nhìn thấy được mối liên hệ rõ ràng giữa các vấn đề của mình.
So for instance, the people fighting poverty and inequality rarely talk about climate change. Even though we see time and again that it's the poorest of people who are the most vulnerable to extreme weather. The climate change people rarely talk about war and occupation. Even though we know that the thirst for fossil fuels has been a major driver of conflict. The environmental movement has gotten better at pointing out that the nations that are getting hit hardest by climate change are populated overwhelmingly by black and brown people. But when black lives are treated as disposable in prisons, in schools and on the streets, these connections are too rarely made.
Ví dụ, những người chống lại đói nghèo và bất bình đẳng hiếm khi nói về biến đổi khí hậu. Mặc dù chúng ta nhiều lần chứng kiến những người khốn khó nhất là những người dễ bị ảnh hưởng nhất bởi thời tiết khắc nghiệt. Những con người của biến đổi khí hậu hiếm khi nói về chiến tranh và nghề nghiệp. Mặc dù chúng ta biết rằng cơn khát nhiên liệu hóa thạch là nguyên nhân chính gây ra xung đột. Phong trào môi trường đã trở nên tốt hơn trong việc chỉ ra rằng các quốc gia đang bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu có người da đen và da nâu chiếm số lượng lớn dân cư. Nhưng khi cuộc sống người da đen bị coi là bỏ đi trong nhà tù, trường học và trên đường phố những mối liên hệ này rất hiếm khi được xem xét.
The walls between our silos also means that our solutions, when they emerge, are also disconnected from each other. So progressives now have this long list of demands that I was mentioning earlier, those "yeses." But what we're still missing is that coherent picture of the world we're fighting for. What it looks like, what it feels like, and most of all, what its core values are. And that really matters. Because when large-scale crises hit us and we are confronted with the need to leap somewhere safer, there isn't any agreement on what that place is. And leaping without a destination looks a lot like jumping up and down.
Những bức tường giữa các Silo của chúng ta cũng có nghĩa là các giải pháp của chúng ta, khi chúng nổi lên, cũng bị ngắt kết nối với nhau. Có một danh sách dài những nhu cầu mà tôi đã đề cập trước đó dành cho quá trình tiến bộ , những câu “có.” Nhưng điều ta vẫn còn thiếu có phải là bức tranh nhất quán của thế giới mà chúng ta đang đấu tranh? Nó trông như thế nào, mang lại cảm giác gì, và trên hết là giá trị cốt lõi của nó là gì. Và điều đó thực sự quan trọng. Bởi vì khi khủng hoảng quy mô lớn tấn công chúng ta và chúng ta phải đối mặt với nhu cầu nhảy tới nơi nào đó an toàn hơn, không có bất kỳ thống nhất nào cho biết địa điểm đó ở đâu. Một cú nhảy không có đích đến trông khá giống việc nhảy lên nhảy xuống.
(Laughter)
(Cười)
Fortunately, there are all kinds of conversations and experiments going on to try to overcome these divisions that are holding us back. And I want to finish by talking about one of them.
May mắn thay, đa dạng hoá các cuộc trao đổi và thí nghiệm đang được diễn ra để cố gắng cắt đứt những chia rẽ đang cản trở chúng ta. Và tôi muốn kết thúc bằng cách nói về một trong số chúng.
A couple of years ago, a group of us in Canada decided that we were hitting the limits of what we could accomplish in our various silos. So we locked ourselves in a room for two days, and we tried to figure out what bound us together. In that room were people who rarely get face to face. There were indigenous elders with hipsters working on transit. There was the head of Greenpeace with a union leader representing oil workers and loggers. There were faith leaders and feminist icons and many more. And we gave ourselves a pretty ambitious assignment: agreeing on a short statement describing the world after we win. The world after we've already made the transition to a clean economy and a much fairer society. In other words, instead of trying to scare people about what will happen if we don't act, we decided to try to inspire them with what could happen if we did act.
Cách đây vài năm, một nhóm chúng tôi ở Canada quyết định rằng chúng ta đã đạt đến giới hạn về những gì chúng ta có thể đạt được từ kiểu làm việc Silo khác nhau. Thế là chúng tôi nhốt mình trong phòng suốt hai ngày, và chúng tôi cố gắng tìm ra điều gì đã gắn kết mọi người lại với nhau. Trong căn phòng đó có những người hiếm khi giáp mặt nhau. Có những người lớn tuổi bản địa với những hipster làm trong ngành vận tải. Có người đứng đầu tổ chức Hoà bình xanh. với lãnh đạo công đoàn đại diện cho công nhân khai thác dầu và gỗ. Có những lãnh đạo đức tin và đại diện nữ quyền và nhiều hơn nữa. Và chúng tôi đã cho mình một nhiệm vụ khá tham vọng: thống nhất về một tuyên bố ngắn mô tả thế giới sau chiến thắng. Thế giới sau khi chúng ta đã đã chuyển đổi sang nền kinh tế sạch và một xã hội công bằng hơn nhiều. Nói cách khác, thay vì đe dọa mọi người về viễn cảnh nếu chúng ta không hành động, chúng tôi quyết định cố gắng truyền cảm hứng cho họ về những gì có thể xảy ra nếu chúng tôi hành động.
Sensible people are always telling us that change needs to come in small increments. That politics is the art of the possible and that we can't let the perfect be the enemy of the good. Well, we rejected all of that. We wrote a manifesto, and we called it "The Leap." I have to tell you that agreeing on our common "yes" across such diversity of experiences and against a backdrop of a lot of painful history was not easy work. But it was also pretty thrilling. Because as soon as we gave ourselves permission to dream, those threads connecting much of our work became self-evident.
Những người nhạy cảm luôn nói với chúng ta sự thay đổi đó cần phải diễn ra theo từng bước nhỏ. Kiểu Chính trị đó là nghệ thuật của sự khả thi và rằng chúng ta không thể để “hoàn hảo” trở thành kẻ thù của “cái tốt”. Vâng, chúng tôi đã từ chối tất cả những điều đó. Chúng tôi đã viết một bản tuyên ngôn, và chúng tôi gọi nó là “Bước nhảy vọt”. Tôi phải nói với bạn rằng, việc có chung tiếng nói “có” đó sau những trải nghiệm đa dạng như vậy và trong bối cảnh hàng tấn lịch sử đau thương là chuyện không hề dễ dàng. Nhưng nó cũng khá xúc động. Bởi vì ngay khi chúng ta cho phép mình mơ ước, những sợi dây kết nối những gì chúng ta làm dần trở nên hiển nhiên.
We realized, for instance, that the bottomless quest for profits that is forcing so many people to work more than 50 hours a week, without security, and that is fueling this epidemic of despair is the same quest for bottomless profits and endless growth that is at the heart of our ecological crisis and is destabilizing our planet. It also became clear what we need to do. We need to create a culture of care-taking. In which no one and nowhere is thrown away. In which the inherent value of all people and every ecosystem is foundational. So we came up with this people's platform, and don't worry, I'm not going to read the whole thing to you out loud -- if you're interested, you can read it at theleap.org. But I will give you a taste of what we came up with.
Ví dụ, chúng tôi nhận ra rằng những mong muốn về lợi nhuận, không có điểm dừng nó đang trói buộc rất nhiều người làm việc hơn 50 giờ một tuần, không có sự an toàn, và điều đó đang tiếp thêm năng lượng đại dịch tuyệt vọng này cũng là cuộc tìm kiếm lợi nhuận không đáy và sự tăng trưởng không ngừng đó là trái tim cuộc khủng hoảng sinh thái của chúng ta và đang làm mất ổn định hành tinh của chúng ta. Điều chúng tôi cần thực hiện cũng trở nên rõ ràng. Chúng ta cần tạo ra một nền văn hóa của sự chăm sóc. Trong đó không có ai và không nơi nào bị bỏ lại. Với nền tảng của nó là giá trị vốn có của mọi người và mọi hệ sinh thái. Vì vậy chúng tôi cho ra mắt nền tảng mọi người, và đừng lo lắng, tôi sẽ không đọc to toàn bộ cho bạn -- nếu bạn quan tâm, bạn có thể đọc nó tại theleap.org. Nhưng tôi sẽ cho bạn trải nghiệm những gì chúng tôi đã cho ra mắt.
So we call for that 100 percent renewable economy in a hurry, but we went further. Calls for new kinds of trade deals, a robust debate on a guaranteed annual income, full rights for immigrant workers, getting corporate money out of politics, free universal day care, electoral reform and more. What we discovered is that a great many of us are looking for permission to act less like brands and more like movements. Because movements don't care about credit. They want good ideas to spread far and wide. What I love about The Leap is that it rejects the idea that there is this hierarchy of crisis, and it doesn't ask anyone to prioritize one struggle over another or wait their turn. And though it was birthed in Canada, we've discovered that it travels well. Since we launched, The Leap has been picked up around the world with similar platforms, being written from Nunavut to Australia, to Norway to the UK and the US, where it's gaining a lot of traction in cities like Los Angeles, where it's being localized. And also in rural communities that are traditionally very conservative, but where politics is failing the vast majority of people.
Chúng tôi kêu gọi việc nhanh chóng tái tạo 100 phần trăm nền kinh tế, nhưng còn hơn cả thế. Kêu gọi các hình thức thỏa thuận thương mại mới, một cuộc tranh luận mạnh mẽ về đảm bảo thu nhập hàng năm, đầy đủ quyền lợi cho người lao động nhập cư, chặn dòng tiền doanh nghiệp chảy vào chính trị, ngày chăm sóc toàn diện miễn phí, cải cách bầu cử và hơn thế nữa. Những gì chúng tôi phát hiện ra là rất nhiều người trong chúng ta đang tìm kiếm sự cho phép để hành động giống một phong trào hơn là một doanh nghiệp. Vì phong trào thì không quan tâm đến sự ghi công. Họ muốn những ý tưởng hay được lan truyền xa và rộng. Điều tôi thích ở The Leap là nó bác bỏ ý tưởng rằng tồn tại hệ thống phân cấp khủng hoảng, và nó không yêu cầu mọi người ưu tiên khủng hoảng này hơn khủng hoảng khác hoặc đợi đến lượt. Và dù nó xuất phát từ Canada, chúng tôi đã khám phá ra sự lan rộng của nó khá tốt. Từ khi chúng tôi cho ra mắt, The Leap đã được chọn để tạo ra các nền tảng tương tự trên khắp thế giới, được mở ra từ Nunavut đến Úc, tới Norway rồi tới Anh và Mỹ, nơi nó thu được nhiều sự chú ý của các thành phố như Los Angeles, nơi nó được địa phương hoá. Và cả những cộng đồng nông thôn vẫn còn mang nặng truyền thống bảo thủ, nhưng là nơi chính trị đang thất bại trước nhóm đại đa số to lớn.
Here's what I've learned from studying shocks and disasters for two decades.
Đây là những gì tôi học được
Crises test us. We either fall apart or we grow up fast. Finding new reserves of strength and capacity that we never knew we had. The shocking events that fill us with dread today can transform us, and they can transform the world for the better. But first we need to picture the world that we're fighting for. And we have to dream it up together. Right now, every alarm in our house is going off simultaneously. It's time to listen. It's time to leap.
trong khi nghiên cứu về “sốc” và “thảm hoạ” trong hai thập kỷ. Khủng hoảng đánh đố chúng ta. Hoặc là ta gục ngã hoặc là ta trưởng thành nhanh chóng. Khám phá ra sức mạng và năng lực tiềm tàng mà ta chưa từng biết đến. Những sự kiện gây sốc lấp đầy sự khiếp sợ trong ta hôm nay có thể biến đổi ta, và chúng có thể biến đổi thế giới trở nên tốt hơn. Nhưng trước hết ta cần hình dung ra thế giới mà ta muốn tranh đấu cho nó. Và ta phải đồng lòng mơ ước về điều đó. Ngay lúc này, hồi chuông báo động trong căn nhà của ta đang reo lên cùng lúc. Đã đến lúc ta nên lắng nghe. Đã đến lúc cho một bước nhảy vọt.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)