So it all came to life in a dark bar in Madrid. I encountered my colleague from McGill, Michael Meaney. And we were drinking a few beers, and like scientists do, he told me about his work. And he told me that he is interested in how mother rats lick their pups after they were born. And I was sitting there and saying, "This is where my tax dollars are wasted --
Như một sự ngẫu nhiên trong một quán bar mờ ảo ở Marid Tôi đã chạm mặt một đồng nghiệp từ McGill, Michael Meaney Chúng tôi đang uống một vài ly bia, và giống như các nhà khoa học hay làm Anh kể cho tôi về công việc của anh. Anh ta bảo tôi là anh ta thấy rất thú vị về cách chuột mẹ liếm con mình sau khi chúng được sinh ra. Lúc đó, tôi đã ngồi đó và bảo rằng "Đây là nơi tiền đóng thuế của tôi bị hoang phí -
(Laughter)
(Tiếng cười)
on this kind of soft science."
ở môn khoa học nhẹ nhàng này."
And he started telling me that the rats, like humans, lick their pups in very different ways. Some mothers do a lot of that, some mothers do very little, and most are in between. But what's interesting about it is when he follows these pups when they become adults -- like, years in human life, long after their mother died. They are completely different animals. The animals that were licked and groomed heavily, the high-licking and grooming, are not stressed. They have different sexual behavior. They have a different way of living than those that were not treated as intensively by their mothers.
Anh ta bắt đầu kể tôi nghe rằng loài chuột, cũng như loài người liếm con theo nhiều cách khác nhau Vài con mẹ làm việc đó thường xuyên Vài con khác thì thỉnh thoảng Và đa số ở giữa mức đó Nhưng điều thú vị về nó là khi theo dõi những con con khi đã trưởng thành như hàng năm trời trong đời người, rất lâu sau khi mẹ chúng chết. Chúng là những động vật khác hoàn toàn Những con được liếm và ve vuốt nhiều, những con con được liếm và vuốt ve nhiều, không bị căng thẳng. Chúng có hành vi tình dục rất khác. Chúng có một lối sống khác với những con non không được chăm sóc tận tình như vậy bởi mẹ của chúng.
So then I was thinking to myself: Is this magic? How does this work? As geneticists would like you to think, perhaps the mother had the "bad mother" gene that caused her pups to be stressful, and then it was passed from generation to generation; it's all determined by genetics. Or is it possible that something else is going on here?
Nên sau đó tôi tự nghĩ: Có phải đây là phép màu chăng? Nó hoạt động như thế nào? như các nhà di truyền học muốn bạn nghĩ, có lẽ con mẹ có gene "mẹ ác" làm những đứa con bị căng thẳng, rồi nó được truyền qua các thế hệ; và được quyết định hoàn toàn bởi di truyền Hay là có khả năng một thứ gì khác đang xảy ra ở đây?
In rats, we can ask this question and answer it. So what we did is a cross-fostering experiment. You essentially separate the litter, the babies of this rat, at birth, to two kinds of fostering mothers -- not the real mothers, but mothers that will take care of them: high-licking mothers and low-licking mothers. And you can do the opposite with the low-licking pups. And the remarkable answer was, it wasn't important what gene you got from your mother. It was not the biological mother that defined this property of these rats. It is the mother that took care of the pups. So how can this work?
Đối với loài chuột, ta có thể đặt câu hỏi này và tự trả lời nó được. Vì vậy, việc chúng ta đã làm là một thí nghiệm đánh tráo con. Bạn cần phải tách các con chuột con ngay từ khi mới sinh, cho hai loại chuột mẹ nuôi con khác nhau - Không phải mẹ thật sự, nhưng là người mẹ sẽ chăm sóc chúng: những con mẹ hay liếm láp và không hay liếm láp Ta cũng có thể làm điều ngược lại với những con non ít được vuốt ve. Và câu trả lời đáng chú ý là, Nó không quan trọng gene nào bạn có từ mẹ bạn. Nó không phải là chuột mẹ ruột quyết định đặc điểm những con non này. Mà chính là con mẹ nào đã chăm sóc chúng. Vậy làm thế nào điều này có thể vận hành như vậy?
I am an a epigeneticist. I am interested in how genes are marked by a chemical mark during embryogenesis, during the time we're in the womb of our mothers, and decide which gene will be expressed in what tissue. Different genes are expressed in the brain than in the liver and the eye. And we thought: Is it possible that the mother is somehow reprogramming the gene of her offspring through her behavior? And we spent 10 years, and we found that there is a cascade of biochemical events by which the licking and grooming of the mother, the care of the mother, is translated to biochemical signals that go into the nucleus and into the DNA and program it differently. So now the animal can prepare itself for life: Is life going to be harsh? Is there going to be a lot of food? Are there going to be a lot of cats and snakes around, or will I live in an upper-class neighborhood where all I have to do is behave well and proper, and that will gain me social acceptance? And now one can think about how important that process can be for our lives.
Tôi là một nhà biểu sinh học. Tôi thích cách các gene được đánh dấu bởi một dấu hiệu hóa học trong suốt sự hình thành phôi, trong thời gian chúng ta trong tử cung của mẹ, và quyết định gene nào sẽ được biểu hiện ở loại mô nào. các gene được biểu hiện ở não khác với các gene biểu hiện ở gan và mắt. Và chúng tôi nghĩ: liệu có thể là người mẹ bằng cách nào đó lập trình lại gene của con mình thông qua hành vi của mình? Và chúng tôi dành ra 10 năm, và tìm ra rằng có một chuỗi liên tục những sự kiện sinh hóa trong đó việc liếm láp và chải chuốt của người mẹ, sự chăm sóc của người mẹ được diễn giải thành các tín hiệu sinh hóa đi vào trong nhân tế bào và vào DNA và lập trình nó khác đi. Và bây giờ con vật có thể tự chuẩn bị cho cuộc sống của nó Liệu cuộc sống sẽ khắc nghiệt chăng? Liệu sẽ có nhiều thức ăn chăng? Liệu sẽ có nhiều mèo và rắn xung quanh, hay tôi sẽ sống ở một khu thượng lưu nơi tất cả những gì tôi phải làm là cư xử tốt và phù hợp, và điều đó khiến tôi được xã hội chấp nhận? Bây giờ người ta có thể nghĩ quá trình này quan trọng tới mức nào với cuộc sống của ta.
We inherit our DNA from our ancestors. The DNA is old. It evolved during evolution. But it doesn't tell us if you are going to be born in Stockholm, where the days are long in the summer and short in the winter, or in Ecuador, where there's an equal number of hours for day and night all year round. And that has such an enormous [effect] on our physiology. So what we suggest is, perhaps what happens early in life, those signals that come through the mother, tell the child what kind of social world you're going to be living in. It will be harsh, and you'd better be anxious and be stressful, or it's going to be an easy world, and you have to be different. Is it going to be a world with a lot of light or little light? Is it going to be a world with a lot of food or little food? If there's no food around, you'd better develop your brain to binge whenever you see a meal, or store every piece of food that you have as fat.
Chúng ta thừa hưởng DNA từ tổ tiên DNA thì cũ rồi Nó tiến hóa trong suốt quá trình tiến hoá Nhưng nó không cho ta biết liệu bạn sẽ được sinh ở Stockholm, nơi ngày dài vào mùa hè và ngắn vào mùa đông, hay ở Ecuador, nơi có số giờ cho ngày và đêm bằng nhau quanh năm. và nó có một [tác động] rất lớn đến sinh lý của chúng ta. Những gì ta cho là những gì có lẽ xảy ra lúc đầu đời những dấu hiệu đó đến thông qua người mẹ bảo đứa trẻ về thế giới xã hội mà chúng sẽ sống Nó sẽ khắc nghiệt, và bạn tốt hơn hết là nên lo lắng và căng thẳng, hoặc nó sẽ là một thế giới sống dễ dàng và bạn phải trở nên khác đi. Liệu nó sẽ là một thế giới tràn ngập ánh sáng hay với rất ít ánh sáng? Liệ nó sẽ là một thế giới với vô số thức ăn hay rất ít thức ăn? Nếu chẳng có thức ăn, Bạn phải phát triển bộ óc để biết ăn ngấu nghiến mỗi khi bạn thấy thức ăn, hoặc dự trữ từng mẫu thức ăn bạn có dưới dạng mỡ.
So this is good. Evolution has selected this to allow our fixed, old DNA to function in a dynamic way in new environments. But sometimes things can go wrong; for example, if you're born to a poor family and the signals are, "You better binge, you better eat every piece of food you're going to encounter." But now we humans and our brain have evolved, have changed evolution even faster. Now you can buy McDonald's for one dollar. And therefore, the preparation that we had by our mothers is turning out to be maladaptive. The same preparation that was supposed to protect us from hunger and famine is going to cause obesity, cardiovascular problems and metabolic disease. So this concept that genes could be marked by our experience, and especially the early life experience, can provide us a unifying explanation of both health and disease.
Vậy điều đó là tốt. Sự tiến hóa đã lựa chọn điều này để cho phép bộ DNA cũ và cố định của ta hoạt động theo một cách năng động ở những môi trường mới. Nhưng sai sót cũng có thể xảy ra ví dụ như nếu sinh ra trong một gia đình nghèo Và tín hiệu là: "Bạn tố nhất nên nuốt chửng, bạn tốt nhất nên ăn bất cứ thực phẩm nào mà bạn bắt gặp. Nhưng nay ta, con người, với bộ não đã tiến hóa đã làm thay đổi sự tiến hoá thậm chí nhanh hơn Bạn có thể mua McDonald's giá một đô-la Thành ra sự chuẩn bị chúng ta có từ mẹ chúng ta trở nên không phù hợp cho thích nghi. Chính sự chuẩn bị đáng lẽ sẽ bảo vệ chúng ta khỏi cơn đói và nạn đói sẽ gây ra bệnh béo phì, những bệnh tim mạch và những bệnh về trao đổi chất. Vì vậy, quan niệm rằng gene có thể được đánh dấu bởi trải nghiệm và đặc biệt những trải nghiệm đầu đời có thể cho ta một sự giải thích thống nhất cho cả sức khỏe và bệnh tật.
But is true only for rats? The problem is, we cannot test this in humans, because ethically, we cannot administer child adversity in a random way. So if a poor child develops a certain property, we don't know whether this is caused by poverty or whether poor people have bad genes. So geneticists will try to tell you that poor people are poor because their genes make them poor. Epigeneticists will tell you poor people are in a bad environment or an impoverished environment that creates that phenotype, that property.
Nhưng liệu nó chỉ đúng cho loài chuột? vấn đề là chúng ta không thể thử nghiệm trên con người, vì về mặt đạo đức, ta không thể kiểm soát rủi ro ở trẻ em theo cách ngẫu nhiên. Vì thế nếu một đứa trẻ nghèo phát triển với các đặc điểm nhất định, chúng ta không thể biết đó là do nghèo khó hay là những người nghèo có những gene xấu Vì vậy các nhà di truyền học sẽ bảo rằng người nghèo nghèo vì gen của họ làm họ nghèo Các nhà biểu sinh học sẽ bảo bạn rằng người nghèo sống trong môi trường không tốt hoặc môi trường nghèo khó những nơi tạo ra tính trạng đó, đặc điểm đó.
So we moved to look into our cousins, the monkeys. My colleague, Stephen Suomi, has been rearing monkeys in two different ways: randomly separated the monkey from the mother and reared her with a nurse and surrogate motherhood conditions. So these monkeys didn't have a mother; they had a nurse. And other monkeys were reared with their normal, natural mothers. And when they were old, they were completely different animals. The monkeys that had a mother did not care about alcohol, they were not sexually aggressive. The monkeys that didn't have a mother were aggressive, were stressed and were alcoholics. So we looked at their DNA early after birth, to see: Is it possible that the mother is marking? Is there a signature of the mother in the DNA of the offspring?
Bây giờ chúng ta sẽ cùng xem xét anh em họ hàng của ta, loài khỉ Đồng nghiệp của tôi, Stephen Suomi, đã chăm nuôi những con khỉ theo hai cách khác nhau: ngẫu nhiên tách con con khỏi mẹ và một y tá chăm sóc con con đó đóng thay vai trò cho các điều kiện của việc làm mẹ. Những con khỉ đó không có mẹ; chúng có một y tá. Những con khác được nuôi bởi mẹ đẻ. Và khi chúng già, chúng khác hoàn toàn Những con khỉ có mẹ thì không thích rượu, không gây hấn để quyến rũ bạn tình. Còn những con không mẹ thì hiếu chiến, căng thẳng và nghiện rượu Vì vậy chúng tôi xem lại DNA của chúng sau khi sinh và thấy rằng: Có thể nào con mẹ đang đánh dấu hay không? Có dấu hiệu của con mẹ trong DNA của con con hay không?
These are Day-14 monkeys, and what you see here is the modern way by which we study epigenetics. We can now map those chemical marks, which we call methylation marks, on DNA at a single nucleotide resolution. We can map the entire genome. We can now compare the monkey that had a mother or not. And here's a visual presentation of this. What you see is the genes that got more methylated are red. The genes that got less methylated are green. You can see many genes are changing, because not having a mother is not just one thing -- it affects the whole way; it sends signals about the whole way your world is going to look when you become an adult. And you can see the two groups of monkeys extremely well-separated from each other. How early does this develop? These monkeys already didn't see their mothers, so they had a social experience. Do we sense our social status, even at the moment of birth?
Đây là những con khỉ 14 ngày tuổi còn thứ bạn thấy đây là một cách hiện đại chúng tôi dùng để tìm hiểu biểu sinh học. Chúng ta có thể vẽ ra những dấu hiệu hóa học mà được gọi là điểm methyl hóa trên DNA với độ phân giải đến từng nu-clê-ô-tít. Ta có thể vẽ bản đồ toàn bộ hệ gene. Giờ chúng ta có thể so sánh cá thể khỉ có mẹ hay không có mẹ. Và đây là sự trình bày trực quan cho điều đó Cái bạn thấy là các gene bị methyl hoá có màu đỏ. Các gene ít bị methyl hóa hơn thì màu xanh Các bạn cũng thấy có nhiều gen đang thay đổi Vì không có mẹ không chỉ là một vấn đề nó ảnh hưởng toàn bộ quá trình; Nó gửi tín hiệu về toàn bộ quá trình thế giới của bạn sẽ trông ra sao khi bạn trưởng thành. Và bạn cũng có thể nhìn thấy hai nhóm khỉ cực kì tách biệt với nhau. Điều này phát triển sớm như thế nào? Các con khỉ này đã không được trông thấy mẹ nên chúng có một trải nghiệm xã hội. Liệu chúng ta có thể nhận thức được địa vị xã hội ngay khi mới sinh không?
So in this experiment, we took placentas of monkeys that had different social status. What's interesting about social rank is that across all living beings, they will structure themselves by hierarchy. Monkey number one is the boss; monkey number four is the peon. You put four monkeys in a cage, there will always be a boss and always be a peon. And what's interesting is that the monkey number one is much healthier than monkey number four. And if you put them in a cage, monkey number one will not eat as much. Monkey number four will eat [a lot]. And what you see here in this methylation mapping, a dramatic separation at birth of the animals that had a high social status versus the animals that did not have a high status.
Nên trong thí nghiệm này, chúng tôi lấy đi nhau thai của những con khỉ có địa vị xã hội khác nhau. Điều thú vị về thứ bậc xã hội là xuyên suốt tất cả các dạng sống, chúng sẽ cấu hình chính chúng theo cấp bậc. Con khỉ số một là chủ; con khỉ thứ tư là kẻ làm việc. Bạn đặt bốn con vào chung một chuồng, sẽ luôn luôn có một con làm chủ và một con làm việc Một điều thú vị là con khỉ số một khỏe mạnh hơn con khỉ số bốn Và nếu đặt hai con vào một chuồng, thì con khỉ số một ăn không nhiều bằng. con khỉ số bốn thì lại ăn [rất nhiều]. Và các bạn thấy đây trong việc lập bản đồ methyl hoá này, việc tách ra ngay sau khi sinh ở các con có địa vị xã hội cao so với những con không có địa vị cao.
So we are born already knowing the social information, and that social information is not bad or good, it just prepares us for life, because we have to program our biology differently if we are in the high or the low social status.
Vậy nên khi được sinh ra ta đã biết về các thông tin xã hội, và các thông tin xã hội đó không tốt hoặc xấu, nó chỉ chuẩn bị cho ta vào đời, Vì chúng ta phải lập trình hệ sinh học theo một cách khác. nếu chúng ta ở cấp bậc cao hay thấp trong xã hội.
But how can you study this in humans? We can't do experiments, we can't administer adversity to humans. But God does experiments with humans, and it's called natural disasters.
Nhưng làm sao bạn nghiên cứu điều này ở người? Chúng ta không thể làm thí nghiệm, ta cũng không thể kiểm soát rủi ro ở người Nhưng Chúa làm thí nghiệm với người, và nó được gọi là thảm hoạ tự nhiên.
One of the hardest natural disasters in Canadian history happened in my province of Quebec. It's the ice storm of 1998. We lost our entire electrical grid because of an ice storm when the temperatures were, in the dead of winter in Quebec, minus 20 to minus 30. And there were pregnant mothers during that time. And my colleague Suzanne King followed the children of these mothers for 15 years.
Một trong những thảm họa kinh hoàng nhất lịch sử Canada xảy ra ở tỉnh Quebec của tôi. Đó là trận bão tuyết năm 1998. Chúng tôi mất toàn bộ mạng lưới điện bởi một trận bão tuyết khi nhiệt độ xuống đến, trong sự chết chốc của mùa đông ở Quebec, âm 20 đến âm 30 độ. Có những bà mẹ đang mang thai vào thời gian đó Và đồng nghiệp Suzanne King của tôi đã theo dõi những đứa con của các bà mẹ này. trong 15 năm.
And what happened was, that as the stress increased -- and here we had objective measures of stress: How long were you without power? Where did you spend your time? Was it in your mother-in-law's apartment or in some posh country home? So all of these added up to a social stress scale, and you can ask the question: How did the children look? And it appears that as stress increases, the children develop more autism, they develop more metabolic diseases and they develop more autoimmune diseases. We would map the methylation state, and again, you see the green genes becoming red as stress increases, the red genes becoming green as stress increases, an entire rearrangement of the genome in response to stress.
Và điều đã xảy ra là, khi sự căng thẳng gia tăng - và ở đây chúng tôi đã có cách đo khách quan căng thẳng: Bạn đã mất điện trong bao lâu? Bạn dành thời gian của bạn ở đâu? Liệu đó là ở nhà mẹ chồng/vợ hay một ngôi nhà nông thôn sang trọng nào đó? Tất cả các thứ này gộp lại tạo một thang đo căng thẳng xã hội, và bạn có thể hỏi rằng: Bọn trẻ kia đã trông như thế nào? Dường như rằng khi stress gia tăng, các đứa trẻ bị bệnh tự kỷ nhiều hơn chúng bị nhiều bệnh liên quan đến chuyển hoá hơn. và chúng bị nhiều bệnh tự miễn hơn. Chúng tôi đã lập bản đồ tình trạng methyl hoá, và một lần nữa, và bạn sẽ thấy gene xanh trở nên đỏ khi mức độ căng thẳng tăng cao, và các gene đỏ biến thành xanh khi sự căng thẳng tăng, một sự sắp xếp lại của cả một hệ gene khi phản ứng lại với sự căng thẳng.
So if we can program genes, if we are not just the slaves of the history of our genes, that they could be programmed, can we deprogram them? Because epigenetic causes can cause diseases like cancer, metabolic disease and mental health diseases.
Vậy nếu chúng ta có thể lập trình các gene Nếu chúng ta không phải chỉ là nô lệ của lịch sử của các gene của chúng ta, rằng chúng có thể được lập trình, ta có thể "phản" lập trình chúng không? Vì các nguyên nhân biểu sinh có thể gây ra các bệnh như ung thư bệnh liên quan đến trao đổi chất và các bệnh về sức khoẻ thần kinh.
Let's talk about cocaine addiction. Cocaine addiction is a terrible situation that can lead to death and to loss of human life. We asked the question: Can we reprogram the addicted brain to make that animal not addicted anymore? We used a cocaine addiction model that recapitulates what happens in humans. In humans, you're in high school, some friends suggest you use some cocaine, you take cocaine, nothing happens. Months pass by, something reminds you of what happened the first time, a pusher pushes cocaine, and you become addicted and your life has changed.
Bây giờ ta hãy nói về chứng nghiện cocaine. Nghiện cocaine là một bệnh trạng kinh khủng có thể dẫn đến tử vong và sự mất đi chất lượng sống của con người. Chúng ta đã đặt ra câu hỏi: rằng ta có thể tái lập bộ não bị nghiện để làm cho con vật đó không bị nghiện nữa? Chúng tôi đã dùng một mô hình nghiện cocaine tóm lược lại những gì xảy ra ở người. Ở con người, khi bạn học trung học, Vài đứa bạn bảo bạn dùng cocaine, bạn dùng cocaine, và chẳng có gì xảy ra. hàng tháng trôi qua, có gì đó làm bạn nhớ những gì đã xảy ra trong lần đầu tiên đó, Một sự thúc đẩy đẩy bạn đến với cocaine, Thế rồi bạn bị nghiện và cuộc đời bạn thay đổi.
In rats, we do the same thing. My colleague, Gal Yadid, he trains the animals to get used to cocaine, then for one month, no cocaine. Then he reminds them of the party when they saw the cocaine the first time by cue, the colors of the cage when they saw cocaine. And they go crazy. They will press the lever to get cocaine until they die. We first determined that the difference between these animals is that during that time when nothing happens, there's no cocaine around, their epigenome is rearranged. Their genes are re-marked in a different way, and when the cue comes, their genome is ready to develop this addictive phenotype.
Ở chuột, chúng tôi làm điều tương tự. Đồng nghiệp của tôi, Gal Yadid, đã huấn luyện loài vật này cho chúng quen với cocaine, sau đó là một tháng không cocaine. Sau đó gợi lại cho chúng về lần đầu tiên chúng nhìn thấy cocaine bằng việc gợi lại màu của cái lồng nơi lần đầu chúng thấy cocaine. Và chúng trở nên điên cuồng. Chúng sẽ ấn cái bẩy để lấy được cocaine cho đến khi chết. Ban đầu chúng tôi cho rằng sự khác biệt giữa các con vật này là trong suốt thời kì trên, khi không có gì xảy ra, không có cocaine xung quanh, hệ gene biểu sinh của chúng được bố trí lại. Các gene của chúng được đánh dấu lại theo một cách khác, và khi có gì gợi nhớ thì hệ gene đó đã sẵn sàng để phát triển tính trạng nghiện cocaine này.
So we treated these animals with drugs that either increase DNA methylation, which was the epigenetic marker to look at, or decrease epigenetic markings. And we found that if we increased methylation, these animals go even crazier. They become more craving for cocaine. But if we reduce the DNA methylation, the animals are not addicted anymore. We have reprogrammed them. And a fundamental difference between an epigenetic drug and any other drug is that with epigenetic drugs, we essentially remove the signs of experience, and once they're gone, they will not come back unless you have the same experience. The animal now is reprogrammed. So when we visited the animals 30 days, 60 days later, which is in human terms many years of life, they were still not addicted -- by a single epigenetic treatment.
Vì thế nên chúng tôi đã điều trị chúng với thuốc hoặc là làm tăng sự methyl hoá DNA, thứ đã là dấu hiệu gene biểu sinh để theo dõi, hoặc là giảm những điểm đánh dấu gene biểu sinh. Và chúng tôi thấy rằng nếu gia tăng sự methyl hoá, các con vật thậm chí còn phát điên hơn nữa. Chúng trở nên thèm khát cocaine, Nhưng nếu chúng tôi giảm sự methyl hoá DNA, thì chúng không bị nghiện nữa. Chúng tôi đã tái lập trình chúng. và một sự khác biệt cơ bản giữa thuốc biểu sinh và các loại thuốc khác là với thuốc biểu sinh chúng tôi loại bỏ những tín hiệu từ sự trải nghiệm, và khi chúng đã biến mất, chúng sẽ không quay lại nếu bạn không có trải nghiệm tương tự. Loài vật giờ đã được lập trình lại. Vậy nên khi chúng tôi thăm chúng 30, 60 ngày sau đó, tương đương với nhiều năm của cuộc đời con người, chúng vẫn không bị nghiện - bởi chỉ một cách điều trị biểu sinh duy nhất.
So what did we learn about DNA? DNA is not just a sequence of letters; it's not just a script. DNA is a dynamic movie. Our experiences are being written into this movie, which is interactive. You're, like, watching a movie of your life, with the DNA, with your remote control. You can remove an actor and add an actor. And so you have, in spite of the deterministic nature of genetics, you have control of the way your genes look, and this has a tremendous optimistic message for the ability to now encounter some of the deadly diseases like cancer, mental health, with a new approach, looking at them as maladaptation. And if we can epigenetically intervene, [we can] reverse the movie by removing an actor and setting up a new narrative.
Vậy ta đã học được gì về DNA? DNA không phải chỉ là một chuỗi các ký tự; Cũng không phải chỉ là một bản thảo. DNA là một bộ phim năng động. Trải nghiệm của ta đang được ghi vào bộ phim đó, thứ mang tính tương tác. Bạn giống như đang xem một bộ phim về đời mình, với DNA, với cái điều khiển từ xa của bạn. Bạn có thể loại bỏ một diễn viên và thêm vào một diễn viên. Và vì vậy bạn có, mặc cho bản chất định tính của di truyền học, Bạn có sự kiểm soát cách các gene của mình biểu hiện, và điều này tạo ra một thông điệp tích cực to lớn cho khả năng đối mặt với một số bệnh nan y như là ung thư, sức khoẻ thần kinh, theo một cách tiếp cận mới, nhìn nhận chúng như sự không thích nghi. Và nếu ta có thể can thiệp một cách biểu sinh, [ta có thể] đảo ngược cuốn phim bằng việc thay thế một diễn viên và thiết lập một cốt truyện mới.
So what I told you today is, our DNA is really combined of two components, two layers of information. One layer of information is old, evolved from millions of years of evolution. It is fixed and very hard to change. The other layer of information is the epigenetic layer, which is open and dynamic and sets up a narrative that is interactive, that allows us to control, to a large extent, our destiny, to help the destiny of our children and to hopefully conquer disease and serious health challenges that have plagued humankind for a long time.
Vậy những gì tôi đã kể cho các bạn nghe hôm nay, DNA của chúng ta được cấu thành bởi hai thành phần, hai lớp thông tin, Một lớp thông tin thì cũ, tiến hóa từ hàng triệu năm của quá trình tiến hoá. Nó được cố định và rất khó để thay đổi. Lớp thông tin còn lại là lớp gene biểu sinh, rất cởi mở và năng động và tạo nên một câu chuyện mang tính tương tác, cho phép ta nắm trong tay, đến mức độ nào đó, số phận của mình. để giúp cho các số phận của các đứa trẻ và hy vọng là để chiến thắng bệnh tật và những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng, những căn bệnh đã hành hạ loài người trong một thời gian dài.
So even though we are determined by our genes, we have a degree of freedom that can set up our life to a life of responsibility.
Mặc dù chúng ta được xác định bởi hệ gene của mình, chúng ta vẫn có được một mức độ tự do thứ có thể thiết lập cuộc sống của ta thành một cuộc sống đầy trách nhiệm.
Thank you.
Cảm ơn
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)