So, what I'd like to talk about is something that was very dear to Kahn's heart, which is: how do we discover what is really particular about a project? How do you discover the uniqueness of a project as unique as a person? Because it seems to me that finding this uniqueness has to do with dealing with the whole force of globalization; that the particular is central to finding the uniqueness of place and the uniqueness of a program in a building.
Điều mà tôi muốn nói đến là một thứ rất gần gũi với trái tim của Kahn, đó là: Làm thế nào để chúng ta khám phá ra điểm đặc biệt của một dự án? Làm thế nào bạn tìm thấy ở một công trình mà độc đáo như ở một người? Vì với tôi, dường như việc tìm ra sự độc đáo có liên quan mật thiết đến việc đối phó toàn bộ tiến trình toàn cầu hóa; điểm đó cũng là cốt lõi của việc tìm ra sự độc đáo của một công trình và sự đặc biệt trong kiến tạo một công trình.
And so I'll take you to Wichita, Kansas, where I was asked some years ago to do a science museum on a site, right downtown by the river. And I thought the secret of the site was to make the building of the river, part of the river. Unfortunately, though, the site was separated from the river by McLean Boulevard so I suggested, "Let's reroute McLean," and that gave birth instantly to Friends of McLean Boulevard. (Laughter) And it took six months to reroute it.
Vì thế, tôi sẽ đưa các bạn đến Wichita, Kansas nơi mà vài năm trước, tôi được mời thiết kế bảo tàng khoa học ở một khu đất trung tâm thành phố, bên bờ sông. Tôi nghĩ chỗ huyền bí của khu đất là để tòa nhà thành như một phần của dòng sông. Không may là khu vực xây dựng lại bị ngăn cách khỏi con sông bởi đại lộ McLean nên tôi đã đề nghị, "Hãy đổi hướng đại lộ McLean." và điều đó ngay lập tức sinh ra Đại lộ Friends of McLean. (tiếng cười) Mất đến 6 tháng con đường ấy mới được đổi hướng.
The first image I showed the building committee was this astronomic observatory of Jantar Mantar in Jaipur because I talked about what makes a building a building of science. And it seemed to me that this structure -- complex, rich and yet totally rational: it's an instrument -- had something to do with science, and somehow a building for science should be different and unique and speak of that. And so my first sketch after I left was to say, "Let's cut the channel and make an island and make an island building." And I got all excited and came back, and they sort of looked at me in dismay and said, "An island? This used to be an island -- Ackerman Island -- and we filled in the channel during the Depression to create jobs." (Laughter)
Bức ảnh đầu tiên tôi cho ủy ban xem là đài quan sát thiên văn Jantar Mantar ở Jaipur, vì tôi nói cái làm một tòa nhà trở thành một tòa nhà mang tính khoa học. Với tôi, dường như kết cấu này, tuy phức tạp, hào nhoáng nhưng rất hợp lý; nó là một công cụ, có liên quan đến khoa học, và chí ít, một công trình kỹ thuật thì nên thể hiện được sự khác biệt, độc đáo. Vì thế bản nháp đầu tiên sau khi tôi đi là: "Hãy đào một con kênh, tạo một hòn đảo và tạo hòn đảo công trình." Tôi đã vô cùng hồ hởi khi trở lại, và họ nhìn tôi chán chường rồi nói: "Một hòn đảo á? Đây từng là một hòn đảo - Đảo Ackerman - nhưng chúng tôi đã lấp kênh trong cuộc Đại khủng hoảng để tạo việc làm." (tiếng cười)
And so the process began and they said, "You can't put it all on an island; some of it has to be on the mainland because we don't want to turn our back to the community." And there emerged a design: the galleries sort of forming an island and you could walk through them or on the roof. And there were all kinds of exciting features: you could come in through the landside buildings, walk through the galleries into playgrounds in the landscape. If you were cheap you could walk on top of a bridge to the roof, peek in the exhibits and then get totally seduced, come back and pay the five dollars admission. (Laughter) And the client was happy -- well, sort of happy because we were four million dollars over the budget, but essentially happy.
Tiến trình bắt đầu và họ nói: "Anh không thể đưa mọi thứ trên đảo được, một phần công trình phải ở trên đất liền vì chúng ta không thể quay lưng lại với cộng đồng." Từ đó xuất hiện bản thiết kế này: các phòng trưng bày kiến tạo hòn đảo và bạn có thể đi xuyên qua chúng hay đi trên mái nhà. Có rất nhiều chi tiết thú vị: Bạn có thể đi vào từ các tòa nhà ven bờ, xuyên qua các phòng trưng bày vào khu vui chơi. Nếu bạn không có tiền, bạn có thể đi trên thành cầu lên mái nhà, nghía vào các phòng triển lãm và rồi bị mê hoặc, quay trở lại trả 5 đô la vé vào cổng. (tiếng cười) Các khách hàng đã hài lòng - đại loại thế vì chúng tôi đã vượt kinh phí 4 triệu đô, nhưng tóm lại là họ vui lòng.
But I was still troubled, and I was troubled because I felt this was capricious. It was complex, but there was something capricious about its complexity. It was, what I would say, compositional complexity, and I felt that if I had to fulfill what I talked about -- a building for science -- there had to be some kind of a generating idea, some kind of a generating geometry. And this gave birth to the idea of having toroidal generating geometry, one with its center deep in the earth for the landside building and a toroid with its center in the sky for the island building. A toroid, for those who don't know, is the surface of a doughnut or, for some of us, a bagel. And out of this idea started spinning off many, many kinds of variations of different plans and possibilities, and then the plan itself evolved in relationship to the exhibits, and you see the intersection of the plan with the toroidal geometry.
Nhưng tôi vẫn thấy không yên tâm, không yên tâm vì nó dễ thay đổi. Nó phức tạp, nhưng có gì đó hay thay đổi trong sự phức tạp đó. Tôi gọi nó là sự phức tạp trong cấu trúc, Và tôi cảm thấy rằng, để hoàn tất những gì mà tôi đã nói đến, một công trình dành cho khoa học, tôi phải có một ý tưởng một loại hình học nào đó. Điều này sinh ra ý tưởng những đường sinh hình xuyến với trung tâm nằm sâu trong lòng đất dành cho phần công trình trong đất liền, và phần hình xuyến với trung tâm nằm trên bầu trời cho phần công trình ngoài đảo. Dành cho những ai không biết, hình xuyến giống bề mặt của chiếc bánh donut, hay đối với một vài người, là chiếc nhẫn. Từ ý tưởng này phát sinh ra rất nhiều biến thể với các kế hoạch và triển vọng khác nhau, và rồi mặt bằng phát triển dần dựa trên mối quan hệ của nó với các phòng triển lãm và ở đây là điểm giao nhau của mặt bằng và hình học xuyến.
And finally the building -- this is the model. And when there were complaints about budget, I said, "Well, it's worth doing the island because you get twice for your money: reflections." And here's the building as it opened, with a channel overlooking downtown, and as seen from downtown. And the bike route's going right through the building, so those traveling the river would see the exhibits and be drawn to the building. The toroidal geometry made for a very efficient building: every beam in this building is the same radius, all laminated wood. Every wall, every concrete wall is resisting the stresses and supporting the building. Every piece of the building works. These are the galleries with the light coming in through the skylights, and at night, and on opening day.
Cuối cùng là công trình, đây là mô hình của nó. Khi có phàn nàn về kinh phí, tôi bảo "Hòn đảo này đáng đồng tiền vì nó sẽ giúp anh thu lợi nhuận gấp đôi số tiền bỏ ra." Và đây là công trình khi nó được khánh thành, với một kênh đào nhìn về hướng thành phố. Đây là hình nhìn từ phía thành phố. Lối đi xe đạp băng ngang qua tòa nhà, để người đi dọc bờ sông có thể nhìn thấy triển lãm và bị thu hút bởi công trình. Hình học xuyến đã tạo nên một công trình rất hiệu quả: toàn bộ rầm trong tòa nhà đều có cùng góc, tất cả đều là gỗ dát mỏng. Mọi bức tường bê tông đều chịu lực và chống đỡ cho tòa nhà Mọi phần tử đều có chức năng của nó. Đây là các phòng triển lãm với ánh sáng qua cửa sổ mái, vào ban đêm, và vào ngày khánh thành.
Going back to 1976. (Applause) In 1976, I was asked to design a children's memorial museum in a Holocaust museum in Yad Vashem in Jerusalem, which you see here the campus. I was asked to do a building, and I was given all the artifacts of clothing and drawings. And I felt very troubled. I worked on it for months and I couldn't deal with it because I felt people were coming out of the historic museum, they are totally saturated with information and to see yet another museum with information, it would make them just unable to digest. And so I made a counter-proposal:
Trở lại năm 1976, [Vỗ tay] Tôi được mời thiết kế một bảo tàng tưởng niệm trẻ em ở bảo tàng Holocaust (diệt chủng Do Thái) tại Yad Vashem, Jerulalem nơi bạn thấy khuôn viên ở đây. Tôi được yêu cầu thiết kế một công trình và được cung cấp toàn bộ đồ tạo tác từ vải và tranh vẽ. Tôi đã rất băn khoăn Tôi làm tháng trời nhưng không sao tìm được cách giải quyết bởi tôi cảm thấy du khách bước ra từ bảo tàng lịch sử, họ đã phải tiếp thu rất nhiều thông tin. và việc phải ghé thăm một bảo tàng nữa chỉ khiến họ khó tiêu thêm lượng kiến thức ấy mà thôi. Vì thế tôi đã trình một đề nghị ngược lại
I said, "No building." There was a cave on the site; we tunnel into the hill, descend through the rock into an underground chamber. There's an anteroom with photographs of children who perished and then you come into a large space. There is a single candle flickering in the center; by an arrangement of reflective glasses, it reflects into infinity in all directions. You walk through the space, a voice reads the names, ages and place of birth of the children. This voice does not repeat for six months. And then you descend to light and to the north and to life.
Tôi bảo: "Không có công trình nào hết." Có một cái hang trong khu vực xây dựng; chúng tôi xây một đường hầm xuyên quả đồi xuyên qua đá xuống một căn phòng ngầm dưới đất. Có một phòng chờ với hình ảnh của những đứa bé đã mất sau đó thì bạn sẽ đến một khu vực rộng. Có một ngọn nến cháy leo lét ở trung tâm; bằng cách xếp gương phản xạ, ánh sáng nến sẽ được phản xạ như vô tận khắp mọi hướng. Bạn đi xuyên qua không gian ấy, một giọng nói đọc tên tuổi và nơi sinh của những đứa bé. Giọng nói không lặp lại trong vòng 6 tháng. Và rồi bạn tiến dần về phía ánh sáng, phía Bắc, và sự sống.
Well, they said, "People won't understand, they'll think it's a discotheque. You can't do that." And they shelved the project. And it sat there for 10 years, and then one day Abe Spiegel from Los Angeles, who had lost his three-year-old son at Auschwitz, came, saw the model, wrote the check and it got built 10 years later.
Nhưng họ lại nói: "Người ta sẽ không hiểu, họ sẽ nghĩ đó là vũ trường. Anh không thể xây vậy." Và họ cho dự án lên kệ, đặt nó ở yên đấy trong 10 năm. Cho đến một ngày nọ, ông Abe Spiegel từ Los Angeles, người vừa mới mất đứa con trai ba tuổi của mình tại Auschwitz, đến, ông ấy thấy mô hình, ghi ngân phiếu, và cho xây công trình ấy 10 năm sau đó.
So, many years after that in 1998, I was on one of my monthly trips to Jerusalem and I got a call from the foreign ministry saying, "We've got the Chief Minister of the Punjab here. He is on a state visit. We took him on a visit to Yad Vashem, we took him to the children's memorial; he was extremely moved. He's demanding to meet the architect. Could you come down and meet him in Tel Aviv?" And I went down and Chief Minister Badal said to me, "We Sikhs have suffered a great deal, as you have Jews. I was very moved by what I saw today. We are going to build our national museum to tell the story of our people; we're about to embark on that. I'd like you to come and design it."
Nhiều năm sau đó, vào năm 1998 Tôi đến Jerusalem trong một trong những chuyến đi định kỳ hàng tháng và nhận được một cuộc gọi từ Bộ Ngoại giao nói rằng: "Chúng tôi đang có Thủ tướng nước Punjab ở đây. Ông ấy đang trong một chuyến công du. Chúng tôi đã đưa ông đến thăm Yad Vashem, cùng với khu tưởng niệm trẻ em; và ông ấy đã vô cùng xúc động. Ông yêu cầu được gặp kiến trúc sư. Anh đến gặp ông ở Tel Aviv được chứ?" Tôi đến và Thủ tướng Badal nói với tôi: "Người Sikhs chúng tôi đã phải chịu đựng rất nhiều, cũng giống như người Do Thái các anh vậy. Tôi đã rất xúc động trước những gì tôi nhìn thấy ngày hôm nay. Chúng tôi sẽ xây dựng bảo tàng quốc gia để kể chuyện dân tộc mình. Chúng tôi sắp làm điều đó, và,
And so, you know, it's one of those things that you don't take too seriously. But two weeks later, I was in this little town, Anandpur Sahib, outside Chandigarh, the capital of the Punjab, and the temple and also next to it the fortress that the last guru of the Sikhs, Guru Gobind, died in as he wrote the Khalsa, which is their holy scripture. And I got to work and they took me somewhere down there, nine kilometers away from the town and the temple, and said, "That's where we have chosen the location."
tôi muốn mời anh đến và thiết kế nó." Và rồi, các bạn biết đấy, đó không phải là một câu nói mà bạn cho là nghiêm túc. Thế nhưng hai tuần sau đó, tôi đang ở một thị trấn nhỏ, Anandpur Sahib, ngoại ô Chandigarh, thủ đô của Punjab, tại một ngôi đền gần pháo đài nơi mà vị Guru cuối cùng của người Sikhs, Guru Gobind, qua đời khi người viết Khalsa, một bộ Kinh của họ. Và tôi bắt đầu làm việc, họ đưa tôi đến đó, cách xa thị trấn và ngôi đền 9 km,
And I said, "This just doesn't make any sense. The pilgrims come here by the hundreds of thousands -- they're not going to get in trucks and buses and go down there. Let's get back to the town and walk to the site." And I recommended they do it right there, on that hill and this hill, and bridge all the way into the town. And, as things are a little easier in India, the site was purchased within a week and we were working. (Laughter)
và bảo: "Đây là nơi chúng tôi chọn làm địa điểm xây dựng." Và tôi nói: "Điều này thật chẳng hợp lý gì hết." Hàng trăm hàng nghìn người hành hương đến đây, họ sẽ không trèo lên xe tải hay xe buýt để đến đây. Hãy trở lại thị trấn và đi bộ đến khu vực đó." Và tôi khuyên họ xây nó ở ngay đấy, trên ngọn đồi này vì ngọn đồi này là cầu nối tất cả các con đường vào thị trấn. Vì ở Ấn Độ dễ dãi hơn, nên khu đất đã được mua trong vòng một tuần. Và rồi chúng tôi bắt đầu thi công.
And my proposal was to split the museum into two -- the permanent exhibits at one end, the auditorium, library, and changing exhibitions on the other -- to flood the valley into a series of water gardens and to link it all to the fort and to the downtown. And the structures rise from the sand cliffs -- they're built in concrete and sandstones; the roofs are stainless steel -- they are facing south and reflecting light towards the temple itself, pedestrians crisscross from one side to the other. And as you come from the north, it is all masonry growing out of the sand cliffs as you come from the Himalayas and evoking the tradition of the fortress.
(tiếng cười) Và kế hoạch của tôi là chia bảo tàng thành hai khu. Khu trưng bày cố định ở một bên, thính phòng, thư viện và khu trưng bày di động ở bên còn lại - để lấp đầy thung lũng với các khu thủy viên và nối chúng lại với các trạm và trung tâm thành phố. Công trình sẽ xây trên những đồi cát từ bê tông và sa thạch; mái vòm làm bằng thép không gỉ Chúng sẽ quay về hướng nam, phản chiếu ánh sáng đến ngôi đền, khách bộ hành sẽ đi xuyên từ bên này sang bên kia và khi bạn tới phương Bắc, toàn bộ công trình sẽ nhô lên từ rặng cát
And then I went away for four months and there was going to be groundbreaking. And I came back and, lo and behold, the little model I'd left behind had been built ten times bigger for public display on site and ... the bridge was built! (Laughter) Within the working drawings! And half a million people gathered for the celebrations; you can see them on the site itself as the foundations are beginning. I was renamed Safdie Singh. And there it is under construction; there are 1,800 workers at work and it will be finished in two years.
như khi lên đỉnh Himalayas, gợi lên truyền thống xây thành lũy tại đây. Sau đó tôi rời đi 4 tháng và tại đây đã có một đột phá lớn. Khi tôi quay lại, kì lạ thay, cái mô hình nhỏ tôi để lại đã được làm to lên 10 lần để trưng bày cho công chúng. và... cây cầu đã được xây! (tiếng cười) Khi mà đang sửa bản vẽ! 500 nghìn người đã tụ họp để ăn mừng; các bạn có thể thấy họ cả trên công trường khi bắt đầu làm nền móng. Tôi được đổi tên thành Safdie Singh. Đây là hình ảnh khi đang thi công; 1800 nhân công đang làm việc và nó sẽ được hoàn tất trong 2 năm nữa.
Back to Yad Vashem three years ago. After all this episode began, Yad Vashem decided to rebuild completely the historic museum because now Washington was built -- the Holocaust Museum in Washington -- and that museum is so much more comprehensive in terms of information. And Yad Vashem needs to deal with three million visitors a year at this point. They said, "Let's rebuild the museum." But of course, the Sikhs might give you a job on a platter -- the Jews make it hard: international competition, phase one, phase two, phase three. (Laughter)
Trở lại với Yad Vashem cách đây 3 năm. Sau khi mọi chuyện bắt đầu, Yad Vashem quyết định xây dựng lại toàn bộ bảo tàng lịch sử bởi vì hiện nay khi Bảo tàng Holocaust được xây tại Washington, và thông tin ở đấy lại dễ tiếp thu hơn rất nhiều. Yad Vashem cần phải đối mặt với 3 triệu khách du lịch mỗi năm thời điểm đó. Họ bảo: "Hãy xây dựng lại bảo tàng." Nhưng tất nhiên, người Sikhs đưa ra thì dễ còn người Do Thái làm nó khó hơn: các cuộc thi quốc tế, giai đoạn một, giai đoạn hai, giai đoạn ba. (tiếng cười)
And again, I felt kind of uncomfortable with the notion that a building the size of the Washington building -- 50,000 square feet -- will sit on that fragile hill and that we will go into galleries -- rooms with doors and sort of familiar rooms -- to tell the story of the Holocaust. And I proposed that we cut through the mountain. That was my first sketch. Just cut the whole museum through the mountain -- enter from one side of the mountain, come out on the other side of the mountain -- and then bring light through the mountain into the chambers.
Và lần nữa, tôi cảm thấy không thoải mái với ý tưởng cho rằng một công trình với diện tích bằng tòa nhà Washington 50 000 feet vuông sẽ được xây trên ngọn đồi mỏng manh ấy. và chúng ta đi qua các phòng trưng bày - phòng nối tiếp phòng, cửa nối cửa với các phòng gần giống nhau - có thể kể lại câu chuyện của cuộc thảm sát. Và tôi đề nghị đào xuyên qua ngọn núi. Đây là bản vẽ đầu tiên của tôi. Xây bảo tàng xuyên qua ngọn núi - với cửa vào ở một sườn núi, lối ra ở bên sườn còn lại, và đưa ánh sáng qua núi để tới toàn khu nhà.
And here you see the model: a reception building and some underground parking. You cross a bridge, you enter this triangular room, 60 feet high, which cuts right into the hill and extends right through as you go towards the north. And all of it, then, all the galleries are underground, and you see the openings for the light. And at night, just one line of light cuts through the mountain, which is a skylight on top of that triangle. And all the galleries, as you move through them and so on, are below grade. And there are chambers carved in the rock -- concrete walls, stone, the natural rock when possible -- with the light shafts. This is actually a Spanish quarry, which sort of inspired the kind of spaces that these galleries could be. And then, coming towards the north, it opens up: it bursts out of the mountain into, again, a view of light and of the city and of the Jerusalem hills.
Đây là mô hình: Một phòng tiếp tân, vài bãi đậu xe ngầm Bạn đi qua cầu, bước vào căn phòng hình tam giác cao 18 mét này, nó đào sâu vào trong ngọn đồi, và mở rộng dần về hướng Bắc. Và tất cả những thứ này, đều ngầm dưới lòng đất bạn sẽ thấy các cửa mở ra lấy sáng. và buổi tối chỉ có đúng một lối sáng xuyên qua núi mà đó là ánh sáng trên đỉnh tam giác Toàn bộ các phòng trưng bày, bạn sẽ di chuyển qua chúng và đi xuống. Khu nhà lớn được đào vào núi -- tường bê tông, đá, đá tự nhiên được dùng khi có thể -- với những khoang lấy sáng. Đây thực chất là đá Tây Ban Nha, đã truyền cảm hứng cho không gian mà các khu trưng bày này có thể dùng. Khi đi tới phía Bắc, nó mở ra: thoát ra khỏi ngọn núi, lần nữa đưa bạn tới ánh sáng và quang cảnh toàn thành phố cùng với những ngọn đồi của Jerusalem.
I'd like to conclude with a project I've been working on for two months. It's the headquarters for the Institute of Peace in Washington, the U.S. Institute of Peace. The site chosen is across from the Lincoln Memorial; you see it there directly on the Mall. It's the last building on the Mall, on access of the Roosevelt Bridge that comes in from Virginia. That too was a competition, and it is something I'm just beginning to work on.
Tôi muốn kết thúc bài nói với một dự án mà tôi đã làm được 2 tháng rồi. Đó là trụ sở chính của viện Hòa Bình ở thủ đô Washington, Viện Hòa Bình Hoa Kỳ. Khu đất được chọn nằm đối diện đài tưởng niệm Lincoln; nó nhìn thẳng ra khu Mall và là công trình cuối cùng của khu. gần cầu Roosevelt nối với bang Virginia. Đây cũng là một cuộc thi, và là một dự án tôi chỉ vừa bắt đầu làm việc.
But one recognized the kind of uniqueness of the site. If it were to be anywhere in Washington, it would be an office building, a conference center, a place for negotiating peace and so on -- all of which the building is -- but by virtue of the choice of putting it on the Mall and by the Lincoln Memorial, this becomes the structure that is the symbol of peace on the Mall. And that was a lot of heat to deal with.
Nhưng ta có thể nhận ra điểm đặc biệt của khu đất. Nếu có bất kì đâu ở Washington, có thể làm một tòa văn phòng hay khu hội thảo, một nơi để đàm phán về hòa bình và hơn thế tất cả đều chỉ là một tòa nhà -- nhưng nhờ lựa chọn đặt vị trí tại khu Mall và đài tưởng niệm Lincoln, công trình trở thành một biểu tượng hòa bình tại công viên Mall. Và đó là một áp lực lớn.
The first sketch recognizes that the building is many spaces -- spaces where research goes on, conference centers, a public building because it will be a museum devoted to peacemaking -- and these are the drawings that we submitted for the competition, the plans showing the spaces which radiate outwards from the entry. You see the structure as, in the sequence of structures on the Mall, very transparent and inviting and looking in. And then as you enter it again, looking in all directions towards the city. And what I felt about that building is that it really was a building that had to do with a lightness of being -- to quote Kundera -- that it had to do with whiteness, it had to do with a certain dynamic quality and it had to do with optimism. And this is where it is; it's sort of evolving.
Bản vẽ nháp đầu tiên phân công trình ra với rất nhiều không gian -- không gian cho nghiên cứu, trung tâm hội nghị, một công trình công cộng vì nó sẽ là một bảo tàng cống hiến cho hòa bình. Và đây là những bản vẽ chúng tôi nộp cho cuộc thi Bản vẽ cho thấy những căn phòng xòe ra từ cửa vào. Bạn thấy cấu trúc như sự nối tiếp với cấu trúc công viên, gần như trong suốt, thu hút nhìn vào trong. Và khi bạn bước vào trong, tất cả mọi hướng đều dẫn về thành phố. Đó là điều tôi cảm thấy ở công trình thực sự mang đến sự nhẹ nhàng, trích Kundera, liên tưởng tới sự ngây thơ, trong trắng, tạo một cảm giác đầy năng động và lạc quan. Đây là hình ảnh công trình với cấu trúc mở.
Studies for the structure of the roof, which demands maybe new materials: how to make it white, how to make it translucent, how to make it glowing, how to make it not capricious. And here studying, in three dimensions, how to give some kind, again, of order, a structure; not something you feel you could just change because you stop the design of that particular process. And so it goes.
Nghiên cứu cấu trúc mái, nó đặt ra yêu cầu một vật liệu mái mới: làm sao cho có màu trắng, có độ trong suốt, có thể phát sáng, sao cho nó không trở nên đồng bóng. Đây là nghiên cứu dưới định dạng 3D, nó tạo cảm giác có trật tự và cấu trúc; không phải thứ mà bạn có thể thay đổi bởi vì bạn ngưng thiết kế ở giai đoạn đó. Và cứ như thế.
I'd like to conclude by saying something ... (Applause) I'd like to conclude by relating all of what I've said to the term "beauty." And I know it is not a fashionable term these days, and certainly not fashionable in the discourse of architectural schools, but it seems to me that all this, in one way or the other, is a search for beauty. Beauty in the most profound sense of fit. I have a quote that I like by a morphologist, 1917, Theodore Cook, who said, "Beauty connotes humanity. We call a natural object beautiful because we see that its form expresses fitness, the perfect fulfillment of function." Well, I would have said the perfect fulfillment of purpose. Nevertheless, beauty as the kind of fit; something that tells us that all the forces that have to do with our natural environment have been fulfilled -- and our human environment -- for that.
Tôi muốn kết lại vài điều. (vỗ tay) Tôi muốn kết thúc bằng cách liên hệ tất cả những gì tôi đã nói với từ "cái đẹp". Và tôi biết từ này hiện nay không còn thịnh hành nữa, và hiển nhiên là không còn phổ biến trong bài giảng ở các trường kiến trúc. Nhưng với tôi chúng, dù bằng cách nào nữa, đều là để tìm kiếm cái đẹp. Cái đẹp là sắc thái sâu thẳm nhất của sự hài hòa. Tôi có một trích dẫn mà tôi rất thích của một nhà hình thái học, năm 1917, Theodore Cook, ông ấy nói: "Cái đẹp bao hàm lòng nhân đạo. Chúng ta cho môt sự vật tự nhiên là đẹp bởi vì chúng ta thấy rằng hình dáng của nó thể hiện sự cân đối, đầy đủ chức năng một cách hoàn hảo." Tôi có thể nói đã hoàn thành trọn vẹn mục đích. Tuy nhiên, cái đẹp là một loại cân đối; một cái gì đó nói với chúng ta rằng tất cả các loại lực có liên quan đến môi trường tự nhiên đều hoàn chỉnh -- môi trường của chúng ta cũng vậy.
Twenty years ago, in a conference Richard and I were at together, I wrote a poem, which seems to me to still hold for me today. "He who seeks truth shall find beauty. He who seeks beauty shall find vanity. He who seeks order shall find gratification. He who seeks gratification shall be disappointed. He who considers himself the servant of his fellow beings shall find the joy of self-expression. He who seeks self-expression shall fall into the pit of arrogance. Arrogance is incompatible with nature. Through nature, the nature of the universe and the nature of man, we shall seek truth. If we seek truth, we shall find beauty."
Cách đây 20 năm, trong một hội thảo mà tôi và Richard cùng tham dự, Tôi đã viết một bài thơ mà đến giờ vẫn còn có ý nghĩa với tôi. "Người kiếm sự thật sẽ thấy cái đẹp. Kẻ tìm cái đẹp sẽ thấy phù hoa. Người kiếm trật tự sẽ nhận được sự thỏa mãn. Kẻ muốn thỏa mãn sẽ phải thất vọng mà thôi. Người cho mình là kẻ hầu hạ của bạn hữu sẽ thấy niềm vui khi bày tỏ lòng mình. Người chỉ tìm cách để bày tỏ bản thân sẽ rơi vào hố sâu của sự ngạo mạn. Sự ngạo mạn không phù hợp với tự nhiên. Thông qua tự nhiên, bản chất của vũ trụ và bản chất loài người, chúng ta sẽ tìm ra sự thật. Nếu tìm được sự thật, ta sẽ thấy cái đẹp."
Thank you very much. (Applause)
Cảm ơn các bạn rất nhiều. (vỗ tay)