Well when I was asked to do this TEDTalk, I was really chuckled, because, you see, my father's name was Ted, and much of my life, especially my musical life, is really a talk that I'm still having with him, or the part of me that he continues to be.
Khi được đề nghị thực hiện bài nói TEDTalk này, thực sự tôi đã cười thầm vì các bạn biết đấy cha tôi cũng tên Ted, và phần lớn cuộc đời tôi, đặc biệt là đời sống âm nhạc thực sự là một cuộc trò chuyện (talk) mà tôi vẫn đang tiếp tục với ông ấy, hay nói cách khác một phần trong tôi vẫn là ông ấy.
Now Ted was a New Yorker, an all-around theater guy, and he was a self-taught illustrator and musician. He didn't read a note, and he was profoundly hearing impaired. Yet, he was my greatest teacher. Because even through the squeaks of his hearing aids, his understanding of music was profound.
Ted là một người New York, một người lúc nào quanh quẩn nhà hát và ông đã tự học để trở thành một hoạ sỹ vẽ tranh minh họa và là một nhạc sỹ. Ông không đọc nốt nhạc, và khả năng nghe của ông hết sự bị hạn chế. Vậy đấy, nhưng ông là giáo viên tuyệt vời nhất của đời tôi. Mặc dù nghe âm thanh qua máy trợ thính nhưng hiểu biết về âm nhạc của ông rất sâu sắc.
And for him, it wasn't so much the way the music goes as about what it witnesses and where it can take you. And he did a painting of this experience, which he called "In the Realm of Music." Now Ted entered this realm every day by improvising in a sort of Tin Pan Alley style like this. (Music)
Và đối với ông, vấn đề không phải là cách âm nhạc đi như thế nào mà là những gì nó chứng kiến và nó có thể đưa bạn đi đến đâu. Và ông đã vẽ nên một bức họa về trải nghiệm này, mà ông đặt tên là "In the Realm of Music" (tạm dịch: Trong Cõi Âm Nhạc). Mỗi ngày Ted bước vào cõi âm nhạc này bằng lối chơi ngẫu hứng phần nào theo phong cách Tin Pan Alley kiểu như thế này. (Nhạc)
But he was tough when it came to music. He said, "There are only two things that matter in music: what and how. And the thing about classical music, that what and how, it's inexhaustible."
Nhưng ông khá cố chấp đối với âm nhạc. Ông nói: "Chỉ có hai thứ duy nhất quan trọng trong âm nhạc: "điều gì" và "như thế nào". Và đối với nhạc cổ điển, "điều gì" và "như thế nào" là vô tận."
That was his passion for the music. Both my parents really loved it. They didn't know all that much about it, but they gave me the opportunity to discover it together with them. And I think inspired by that memory, it's been my desire to try and bring it to as many other people as I can, sort of pass it on through whatever means. And how people get this music, how it comes into their lives, really fascinates me.
Đó là niềm đam mê của ông đối với âm nhạc. Cả cha và mẹ tôi đều rất yêu âm nhạc. Họ không biết quá nhiều về âm nhạc, nhưng họ dành cho tôi cơ hội để khám phá nó cùng với họ. Và tôi nghĩ rằng mình được tạo cảm hứng từ ký ức đó, nên mong muốn của tôi là thử và mang âm nhạc đến với càng nhiều người càng tốt trong khả năng tôi có thể, kiểu như truyền nó đi, bằng mọi phương cách. Vậy làm thế nào mà người ta cảm nhận được thứ âm nhạc này, làm thế nào mà nó đến với cuộc sống của họ, điều này thực sự mê hoặc tôi.
One day in New York, I was on the street and I saw some kids playing baseball between stoops and cars and fire hydrants. And a tough, slouchy kid got up to bat, and he took a swing and really connected. And he watched the ball fly for a second, and then he went, "Dah dadaratatatah. Brah dada dadadadah." And he ran around the bases. And I thought, go figure. How did this piece of 18th century Austrian aristocratic entertainment turn into the victory crow of this New York kid? How was that passed on? How did he get to hear Mozart?
Một ngày nọ ở New York khi đang ở trên đường, tôi thấy một vài đứa trẻ đang chơi bóng chày ở giữa những bậc cửa, xe hơi và trụ nước cứu hỏa. Và một cậu bé cứng cáp đang trong thế thõng người xuống để chuẩn bị tung gậy đánh bóng cậu xoay một vòng và đánh trúng phóc. Cậu nhìn quả bóng bay trong một giây, và rồi cậu hô lên: "Dah dadaratatatah Brah dada dadadadah." Rồi cậu bé chạy xung quanh khu sân đó. Còn tôi thì mãi nghĩ: Làm thế nào mà bản nhạc giải trí của giới quý tộc Áo thế kỷ thứ 18 lại trở thành khúc reo mừng chiến thắng của đứa trẻ New York này? Làm thế nào mà nó được truyền giữ? Làm thế nào mà cậu bé nghe được nhạc Mozart?
Well when it comes to classical music, there's an awful lot to pass on, much more than Mozart, Beethoven or Tchiakovsky. Because classical music is an unbroken living tradition that goes back over 1,000 years. And every one of those years has had something unique and powerful to say to us about what it's like to be alive.
Vậy đấy, khi nói đến nhạc cổ điển, có một điều lạ lùng diễn ra, hơn cả Mozart, Beethoven hay Tchiakovsky. Vì nhạc cổ điển là một truyền thống sinh hoạt không bao giờ bị gián đoạn đã đi qua hơn 1000 năm. Và mỗi năm trong từng ấy năm đó đều chứa đựng điều gì đó rất đặc biệt và có tác động lớn để nói với chúng ta về những gì mà nó muốn được tồn tại mãi.
Now the raw material of it, of course, is just the music of everyday life. It's all the anthems and dance crazes and ballads and marches. But what classical music does is to distill all of these musics down, to condense them to their absolute essence, and from that essence create a new language, a language that speaks very lovingly and unflinchingly about who we really are. It's a language that's still evolving.
Đến nay nguyên liệu thô của nó dĩ nhiên chỉ là âm nhạc trong đời sống hàng ngày. Đó là tất cả những bài hát vui, những đoạn vũ nhạc ngắn, những bản balat và hành khúc. Tuy nhiên những gì mà nhạc cổ điển làm là chưng cất những thứ âm nhạc này, cô đọng lại thành tinh chất chất tuyệt đối, và từ tinh chất này tạo ra một ngôn ngữ mới, một ngôn ngữ mà phát ngôn một cách đầy yêu thương và không nao núng về việc chúng ta thực sự là ai. Đó là một thứ ngôn ngữ vẫn đang tiến triển.
Now over the centuries it grew into the big pieces we always think of, like concertos and symphonies, but even the most ambitious masterpiece can have as its central mission to bring you back to a fragile and personal moment -- like this one from the Beethoven Violin Concerto. (Music) It's so simple, so evocative. So many emotions seem to be inside of it. Yet, of course, like all music, it's essentially not about anything. It's just a design of pitches and silence and time.
Đến nay qua hàng thế kỷ nó đã phát triển thành những bản nhạc lớn mà chúng ta luôn nghĩ đến như là các bản nhạc không lời và giao hưởng, nhưng ngay cả những kiệt tác nhiều tham vọng nhất có thể có sứ mệnh trung tâm của nó là mang các bạn quay trở lại một khoảnh khắc riêng tư và mong manh như bản nhạc vĩ cầm không lời của Beethoven này. (Nhạc) Rất đơn giản và gợi nhiều liên tưởng. Dường như rất nhiều cảm xúc được chứa đựng bên trong nó. Còn nữa, tất nhiên, giống như tất cả các âm nhạc, thực sự nó chẳng nói về điều gì cả. Nó chỉ là một thiết kế của độ cao thấp của âm thanh cùng với sự tĩnh lặng và thời gian.
And the pitches, the notes, as you know, are just vibrations. They're locations in the spectrum of sound. And whether we call them 440 per second, A, or 3,729, B flat -- trust me, that's right -- they're just phenomena. But the way we react to different combinations of these phenomena is complex and emotional and not totally understood. And the way we react to them has changed radically over the centuries, as have our preferences for them.
Và độ cao thấp âm thanh, các nốt nhạc như các bạn biết chỉ là những âm rung. Chúng là những vị trí trong quang phổ của âm thanh. và dù cho chúng ta gọi chúng là 440 một giây, La (A) hay 3729, Si giáng (B flat) -- tin tôi đi, đều đúng cả -- chúng chỉ là hiện tượng. Nhưng cái cách mà chúng ta phản ứng đối với các kết hợp khác nhau của những hiện tượng này thì phức hợp và đầy xúc cảm và không thể hoàn toàn thấu hiểu được. Và cái cách mà chúng ta phản ứng lại chúng cũng thay đổi hoàn toàn qua hàng thế kỷ, cũng như sự thích thú của chúng ta đối với chúng.
So for example, in the 11th century, people liked pieces that ended like this. (Music) And in the 17th century, it was more like this. (Music) And in the 21st century ... (Music)
Chẳng hạn, ở thế kỷ 11 người ta thích nghe những bản nhạc có kết thúc như thế này. (Nhạc) Và đến thể kỷ 17, nó là như thế này. (Nhạc) Và cho đến thế kỷ 21... (Nhạc)
Now your 21st century ears are quite happy with this last chord, even though a while back it would have puzzled or annoyed you or sent some of you running from the room. And the reason you like it is because you've inherited, whether you knew it or not, centuries-worth of changes in musical theory, practice and fashion.
Đến nay, những đôi tai ở thế kỷ 21 của các bạn khá là thích thú với hợp âm kết thúc như thế, mặc dù một lát sau đó nó sẽ khiến bạn bối rối hay làm bạn khó chịu hoặc một số trong số các bạn sẽ rời khỏi căn phòng. Và lý do vì sao các bạn thích nó là bởi vì các bạn thừa hưởng, dù các bạn biết hay không biết nó cái đáng giá hàng thế kỷ của những sự thay đổi trong lý thuyết, thực tế và thời trang âm nhạc.
And in classical music we can follow these changes very, very accurately because of the music's powerful silent partner, the way it's been passed on: notation. Now the impulse to notate, or, more exactly I should say, encode music has been with us for a very long time. In 200 B.C., a man named Sekulos wrote this song for his departed wife and inscribed it on her gravestone in the notational system of the Greeks. (Music)
Và trong nhạc cổ điển chúng ta có thể dõi theo những sự thay đổi này một cách rất rất chính xác bởi gã cộng sự đầy quyền lực của âm nhạc chính là là sự tĩnh lặng, cái cách mà nó được tiếp tục: ký hiệu. Đến nay sự thôi thúc để ký hiệu hay một cách chính xác hơn mà tôi nên nói là mã hóa âm nhạc. đã ở cùng với chúng ta trong suốt một thời gian rất dài. 200 năm trước công nguyên, một người đàn ông có tên là Sekulos đã viết ca khúc này cho người vợ quá cố của mình và ghi nó trên bia mộ của cô bằng hệ thống ký hiệu của người Hy lạp (Nhạc)
And a thousand years later, this impulse to notate took an entirely different form. And you can see how this happened in these excerpts from the Christmas mass "Puer Natus est nobis," "For Us is Born." (Music) In the 10th century, little squiggles were used just to indicate the general shape of the tune. And in the 12th century, a line was drawn, like a musical horizon line, to better pinpoint the pitch's location.
Và một ngàn năm sau đó, sự thôi thúc để ký hiệu này mang đến một phiên bản hoàn toàn khác. Và bạn có thể thấy điều này đã xảy ra như thế nào trong đoạn trích từ thánh lễ Giáng sinh ""Puer Natus est nobis," "For Us is Born." (tạm dịch: để chúng ta được sinh ra) (Nhạc) Ở thế kỷ thứ 10, những nét hơi ngoằn nghèo được sử dụng để chỉ hình dạng chung chung của giai điệu. Và đến thế kỷ 12, một hàng được vẽ như là đường chân trời trong âm nhạc để xác định rõ hơn vị trí của độ cao thấp của âm thanh .
And then in the 13th century, more lines and new shapes of notes locked in the concept of the tune exactly, and that led to the kind of notation we have today. Well notation not only passed the music on, notating and encoding the music changed its priorities entirely, because it enabled the musicians to imagine music on a much vaster scale.
Và thế kỷ thứ 13, có nhiều hàng hơn và những hình dáng mới của nốt nhạc được khóa lại trong khái niệm của giai điệu một cách chính xác, và điều này dẫn đến việc hình thành nên những nốt nhạc mà chúng ta có ngày nay. Nhưng ký hiệu không chỉ là thứ duy nhất khiến âm nhạc được lan truyền, việc ký hiệu và mã hóa âm nhạc đã thay đổi hoàn toàn thứ tự ưu tiên của nó vì nó làm cho các nhạc sỹ có thể hình dung âm nhạc trên một quy mô rộng lớn hơn nhiều.
Now inspired moves of improvisation could be recorded, saved, considered, prioritized, made into intricate designs. And from this moment, classical music became what it most essentially is, a dialogue between the two powerful sides of our nature: instinct and intelligence.
Đến nay những chuyển động của sự ngẫu hứng có thể được ghi âm lại, lưu lại, xem xét và ưu tiên, tạo nên những thiết kế phức tạp. Và từ khoảnh khắc này, nhạc cổ điển trở thành một cách thực chất nhất: một đoạn hội thoại giữa hai thế lực mạnh mẽ trong bản chất của chúng ta: bản năng và trí tuệ.
And there began to be a real difference at this point between the art of improvisation and the art of composition. Now an improviser senses and plays the next cool move, but a composer is considering all possible moves, testing them out, prioritizing them out, until he sees how they can form a powerful and coherent design of ultimate and enduring coolness. Now some of the greatest composers, like Bach, were combinations of these two things. Bach was like a great improviser with a mind of a chess master. Mozart was the same way.
Và bắt đầu có một sự khác biệt thực sự ở điểm này giữa nghệ thuật của sự ngẫu hứng và nghệ thuật của sự kết hợp. Giờ đây, nhà ngẫu hứng cảm nhận và tạo ra sự di chuyển tuyệt vời tiếp theo nhưng nhà soạn nhạc đang xem xét tất cả những sự di chuyển có thể, thử chúng và ưu tiên chúng cho đến khi anh ta thấy chúng có thể hình thành nên một thiết kế mạnh mẽ và chặt chẽ của sự tuyệt vời nhất và vĩnh viễn. Một số nhà soạn nhạc vĩ đại như Bach, là những sự kết hợp của hai điều trên. Bach là một nhà ngẫu hứng tuyệt vời với một tâm hồn của bậc thầy chơi cờ. Mozart cũng tương tự như vậy.
But every musician strikes a different balance between faith and reason, instinct and intelligence. And every musical era had different priorities of these things, different things to pass on, different 'whats' and 'hows'. So in the first eight centuries or so of this tradition the big 'what' was to praise God. And by the 1400s, music was being written that tried to mirror God's mind as could be seen in the design of the night sky. The 'how' was a style called polyphony, music of many independently moving voices that suggested the way the planets seemed to move in Ptolemy's geocentric universe. This was truly the music of the spheres. (Music)
Nhưng mỗi nhạc sĩ đánh dấu một sự cân bằng khác nhau giữa niềm tin và lý trí, bản năng và trí tuệ. Và mỗi thời đại âm nhạc có sự ưu tiên khác nhau đối với những điều này, đi qua những điều khác nhau, "những điều gì" và "những như thế nào" khác nhau. Trong tám thế kỷ đầu hay trong truyền thống này "điều gì" lớn ở đây là ca ngợi Thiên Chúa. Và trong những năm 1400, âm nhạc được viết nên nhằm cố gắng phản ánh tâm trí của Chúa có thể thấy trong cách sắp xếp của bầu trời đêm. Yếu tố "như thế nào" là một phong cách được gọi là phức điệu, âm nhạc của nhiều những tiếng nói chuyển động một cách độc lập gợi ra cách mà các hành tinh di chuyển trong vũ trụ địa tâm của Ptolemy. Đây thực sự chính là âm nhạc của các thiên thể. (Nhạc)
This is the kind of music that Leonardo DaVinci would have known. And perhaps its tremendous intellectual perfection and serenity meant that something new had to happen -- a radical new move, which in 1600 is what did happen. (Music) Singer: Ah, bitter blow! Ah, wicked, cruel fate! Ah, baleful stars! Ah, avaricious heaven!
Đây chính là loại âm nhạc mà Leonardo DaVinci đã biết. Và có lẽ sự hoàn hảo về trí tuệ và sự tĩnh lặng của vũ trụ có nghĩa là một điều gì đó mới mẻ sẽ xảy ra -- một sự chuyển dịch mới hoàn toàn đã xảy ra trong năm 1600. (Nhạc) Ca sĩ: Ah, bitter blow! (nỗi thất vọng nặng nề) Ah, wicked, cruel fate! (định mệnh nghiệt ngã) Ah, baleful stars! (những ngôi sao báo điềm gở) Ah, avaricious heaven! (thiên đường tham lam)
MTT: This, of course, was the birth of opera, and its development put music on a radical new course. The what now was not to mirror the mind of God, but to follow the emotion turbulence of man. And the how was harmony, stacking up the pitches to form chords.
MTT: Đây tất nhiên là sự ra đời của nhạc opera, và sự phát triển của nó đưa âm nhạc đến một chương hoàn toàn cấp tiến. "Điều gì" không phải phản ánh tâm trí của Chúa nữa, mà theo dấu những cảm xúc bất an của con người. Và yếu tố "như thế nào" ở đây là sự hài hòa, xếp chồng lên độ cao thấp của âm nhạc để tạo thành hợp âm.
And the chords, it turned out, were capable of representing incredible varieties of emotions. And the basic chords were the ones we still have with us, the triads, either the major one, which we think is happy, or the minor one, which we perceive as sad. But what's the actual difference between these two chords? It's just these two notes in the middle. It's either E natural, and 659 vibrations per second, or E flat, at 622. So the big difference between human happiness and sadness? 37 freakin' vibrations.
Và các hợp âm, hóa ra có khả năng đại diện các loại cảm xúc một cách đáng kinh ngạc. Và những hợp âm cơ bản là những thứ vẫn theo suốt chúng ta, hợp âm ba, hoặc hợp âm trưởng, mà chúng ta nghĩ là vui sướng, hay âm thứ mà chúng ta nhận thấy như buồn rầu. Nhưng đâu là sự khác biệt thực sự giữa hai hợp âm này? Chỉ là hai nốt nhạc ở giữa. Hoặc là Mi thôi (E natural) và 659 âm rung một giây, hay Mi giáng (E flat) tại 622. Vậy đâu là sự khác biệt to lớn giữa hạnh phúc và nỗi buồn của con người? 37 âm rung đáng sợ.
So you can see in a system like this there was enormous subtle potential of representing human emotions. And in fact, as man began to understand more his complex and ambivalent nature, harmony grew more complex to reflect it. Turns out it was capable of expressing emotions beyond the ability of words.
Các bạn có thể thấy trong một hệ thống như thế này có tiềm năng tinh tế rất lớn đại diện cho những cảm xúc của con người. Và thực sự thì, khi con người bắt đầu hiểu hơn về bản chất phức tạp và mâu thuẫn tự nhiên của mình, sự hài hòa trở nên phức tạp hơn nhằm phản ánh nó. Hóa ra là nó có khả năng thể hiện những cảm xúc vượt qua khả năng của ngôn ngữ.
Now with all this possibility, classical music really took off. It's the time in which the big forms began to arise. And the effects of technology began to be felt also, because printing put music, the scores, the codebooks of music, into the hands of performers everywhere. And new and improved instruments made the age of the virtuoso possible. This is when those big forms arose -- the symphonies, the sonatas, the concertos.
Bây giờ với tất cả khả năng này, nhạc cổ điển thực sự cất cánh. Đó là lúc mà những hình thức lớn lao bắt đầu sinh ra. Và ảnh hưởng của công nghệ cũng bắt đầu được công nhận, công nghệ in ấn đặt âm nhạc, bản dàn bè nhạc, bảng mã của âm nhạc vào tay những nhà trình diễn ở khắp mọi nơi. Và những nhạc cụ cải tiến và mới mẻ làm nên thời đại của các nghệ sỹ bậc thầy. Đây là khi những dạng thức to lớn hình thành -- các bản nhạc giao hưởng, các bản sonate và nhạc không lời.
And in these big architectures of time, composers like Beethoven could share the insights of a lifetime. A piece like Beethoven's Fifth basically witnessing how it was possible for him to go from sorrow and anger, over the course of a half an hour, step by exacting step of his route, to the moment when he could make it across to joy. (Music)
Và trong những kiến trúc to lớn này của thời gian, các nhà soạn nhạc như Beethoven có thể chia sẻ sự thấu hiểu bên trong của một cuộc đời. Một bản nhạc như bản giao hưởng số 5 của Beethoven cơ bản chứng kiến làm thế nào mà ông có thể đi từ nỗi buồn và sự tức giận qua khoảng thời gian nửa tiếng, bước từng bước chính xác trong hành trình của ông, để đến với khoảnh khắc khi mà ông có thể vượt qua nó để đến với niềm vui. (Nhạc)
And it turned out the symphony could be used for more complex issues, like gripping ones of culture, such as nationalism or quest for freedom or the frontiers of sensuality. But whatever direction the music took, one thing until recently was always the same, and that was when the musicians stopped playing, the music stopped.
Vậy hóa ra là nhạc giao hưởng có thể được sử dụng trong những vấn đề phức tạp hơn, như những điểm hấp dẫn trong văn hóa, chẳng hạn như chủ nghĩa dân tộc hay sự tìm kiếm tự do hay biên giới của sự cảm tính. Nhưng dù cho âm nhạc dẫn đến bất cứ hướng nào một điều vẫn luôn không thay đổi cho đến gần đây, đó là khi các nhạc sỹ ngừng chơi, âm nhạc dừng lại.
Now this moment so fascinates me. I find it such a profound one. What happens when the music stops? Where does it go? What's left? What sticks with people in the audience at the end of a performance? Is it a melody or a rhythm or a mood or an attitude? And how might that change their lives?
Khoảnh khắc này rất mê hoặc đối với tôi. Tôi thấy nó là một khoảnh khắc rất sâu sắc. Điều gì xảy ra khi âm nhạc dừng lại? Nó đi đến đâu? Còn lại điều gì? Điều gì đọng lại trong khán giả khi buổi biểu diễn kết thúc? Có phải đó là một giai điệu hay một nhịp điệu hoặc là một tâm trạng hay một thái độ? Và làm thế nào mà điều đó có thể thay đổi cuộc sống của họ?
To me this is the intimate, personal side of music. It's the passing on part. It's the 'why' part of it. And to me that's the most essential of all. Mostly it's been a person-to-person thing, a teacher-student, performer-audience thing, and then around 1880 came this new technology that first mechanically then through analogs then digitally created a new and miraculous way of passing things on, albeit an impersonal one. People could now hear music all the time, even though it wasn't necessary for them to play an instrument, read music or even go to concerts.
Đối với tôi, điều này là mặt riêng tư mật thiết của âm nhạc. Nó đi qua một phần của phần "tại sao" trong nó. Và với tôi đó là điều quan trọng nhất trong tất cả. Phần lớn, nó là chuyện giữa người với người, giữa giáo viên và học sinh, người trình diễn và khán giả, và rồi khoảng năm 1880 công nghệ mới này đã đến đầu tiên là cơ hóa rồi qua vô tuyến rồi đến kỹ thuật số tạo ra một cách thức mới và kỳ diệu để tiếp tục những điều trên, dẫu cho điều này không của riêng ai. Người ta bây giờ có thể nghe âm nhạc mọi lúc, thậm chí họ không cần thiết phải biết chơi một nhạc cụ, đọc nốt nhạc hay thậm chi đến xem các buổi hòa nhạc.
And technology democratized music by making everything available. It spearheaded a cultural revolution in which artists like Caruso and Bessie Smith were on the same footing. And technology pushed composers to tremendous extremes, using computers and synthesizers to create works of intellectually impenetrable complexity beyond the means of performers and audiences.
Và công nghệ dân chủ hóa âm nhạc bằng cách làm cho tất cả mọi thứ có sẵn. Nó dẫn đầu một cuộc cách mạng văn hóa mà trong đó các nghệ sĩ như Caruso và Bessie Smith ở cùng một phía. Và công nghệ thúc đẩy các nhà soạn nhạc đến những điểm cực hạn, sử dụng máy tính và tổng hợp để tạo nên những sản phẩm của sự phức hợp không thể lĩnh hội được bằng trí tuệ. vượt trên các phương thức giữa các nhà trình diễn và khán giả.
At the same time technology, by taking over the role that notation had always played, shifted the balance within music between instinct and intelligence way over to the instinctive side. The culture in which we live now is awash with music of improvisation that's been sliced, diced, layered and, God knows, distributed and sold. What's the long-term effect of this on us or on music? Nobody knows.
Cùng lúc đó, công nghệ thông qua việc đảm nhiệm vai trò của các ký hiệu đã chuyển sự cân bằng trong âm nhạc giữa bản năng và trí tuệ vượt qua phần bản năng. Văn hóa mà chúng ta đang sống trong đó tràn ngập những âm nhạc của sự ngẫu hứng được cắt lát, chia nhỏ và phân lớp và, có Chúa mới biết, bị phân phát và bán đi. Hậu quả lâu dài của điều này đối với chúng ta hay đối với âm nhạc là gì? Chẳng có ai biết cả.
The question remains: What happens when the music stops? What sticks with people? Now that we have unlimited access to music, what does stick with us?
Câu hỏi vẫn còn đó: Điều gì xảy ra khi âm nhạc dừng lại? Điều gì còn lại với mọi người? Bây giờ chúng ta có thể đến với âm nhạc một cách không giới hạn, vậy điều gì gắn kết với chúng ta?
Well let me show you a story of what I mean by "really sticking with us." I was visiting a cousin of mine in an old age home, and I spied a very shaky old man making his way across the room on a walker. He came over to a piano that was there, and he balanced himself and began playing something like this. (Music)
Vâng hãy để tôi chỉ cho các bạn một câu chuyện về những gì tôi muốn bày tỏ khi tôi nói "thực sự gắn kết với chúng ta". Tôi đến thăm một người anh em họ ở một viện dưỡng lão, và tôi kín đáo quan sát một người đàn ông đang rất run rẩy từng bước băng qua căn phòng với khung tập đi. Ông đến một cây đàn dương cầm ở đó, cố giữ thăng bằng và ông bắt đầu chơi đoạn nhạc như thế này. (Nhạc)
And he said something like, "Me ... boy ... symphony ... Beethoven." And I suddenly got it, and I said, "Friend, by any chance are you trying to play this?" (Music) And he said, "Yes, yes. I was a little boy. The symphony: Isaac Stern, the concerto, I heard it." And I thought, my God, how much must this music mean to this man that he would get himself out of his bed, across the room to recover the memory of this music that, after everything else in his life is sloughing away, still means so much to him?
Và ông nói điều gì đó như là "Tôi...anh chàng...nhạc giao hưởng...Beethoven." Và tôi đột nhiên hiểu ra, và nói "Này anh bạn, anh đang chơi đoạn nhạc này phải không?" (Nhạc) Và ông nói "Đúng, đúng rồi. Lúc tôi còn là một cậu bé. Nhạc giao hưởng: Issac Stern, nhạc không lời, tôi đã từng nghe." Và tôi nghĩ, lạy Chúa, bản nhạc này phải có ý nghĩa nhiều như thế nào đối với người đàn ông này đến nỗi ông đưa mình ra khỏi giường, băng qua phòng để khôi phục ký ức về bản nhạc này sau khi tất cả những thứ khác trong đời ông bị phai mờ đi, nó vẫn còn có ý nghĩa nhiều với ông như vậy?
Well, that's why I take every performance so seriously, why it matters to me so much. I never know who might be there, who might be absorbing it and what will happen to it in their life.
Vâng, đó là lý do vì sao tôi luôn trình diễn một cách rất nghiêm túc vì sao nó lại có ý nghĩa đối với tôi nhiều như vậy. Tôi không bao giờ biết ai có thể ở đó, ai có thể cảm nhận nó và điều gì sẽ xảy đến với nó trong cuộc đời họ.
But now I'm excited that there's more chance than ever before possible of sharing this music. That's what drives my interest in projects like the TV series "Keeping Score" with the San Francisco Symphony that looks at the backstories of music, and working with the young musicians at the New World Symphony on projects that explore the potential of the new performing arts centers for both entertainment and education.
Nhưng giờ đây tôi rất phấn khởi vì có nhiều cơ hội hơn bao giờ hết để có thể chia sẻ thứ âm nhạc này. Đó là những gì chi phối sự quan tâm của tôi với những dự án như là serie truyền hình "Keeping Score" với Dàn nhạc giao hưởng San Francisco để nhìn lại những câu chuyện trước đây về âm nhạc, và làm việc với những nhạc sỹ trẻ tại Dàn nhạc Giao hưởng Thế Giới Mới về những dự án giúp khám phá tiềm năng của những trung tâm nghệ thuật biểu diễn mới cho cả mục đích giải trí và giáo dục.
And of course, the New World Symphony led to the YouTube Symphony and projects on the internet that reach out to musicians and audiences all over the world. And the exciting thing is all this is just a prototype. There's just a role here for so many people -- teachers, parents, performers -- to be explorers together. Sure, the big events attract a lot of attention, but what really matters is what goes on every single day. We need your perspectives, your curiosity, your voices.
Và tất nhiên, Dàn nhạc Giao hưởng Thế Giới Mới đã dẫn đến Dàn nhạc giao hưởng YouTube và những dự án trên internet để vươn tới những nhạc sỹ và những khán giả trên khắp thế giới. Và điều thích thú là tất cả điều này chỉ là bản mẫu đầu tiên. Chỉ có một vai trò duy nhất ở đây cho rất nhiều người -- các giáo viên, các bậc cha mẹ, những người biểu diễn -- là cùng nhau khám phá. Chắc chắn, những sự kiện lớn thu hút nhiều sự chú ý, nhưng điều thực sự quan trọng chính là những gì đang diễn ra từng ngày. Chúng tôi cần quan điểm của các bạn, sự tò mò của các bạn, giọng nói của các bạn.
And it excites me now to meet people who are hikers, chefs, code writers, taxi drivers, people I never would have guessed who loved the music and who are passing it on. You don't need to worry about knowing anything. If you're curious, if you have a capacity for wonder, if you're alive, you know all that you need to know. You can start anywhere. Ramble a bit. Follow traces. Get lost. Be surprised, amused inspired. All that 'what', all that 'how' is out there waiting for you to discover its 'why', to dive in and pass it on.
Và điều làm tôi thích thú khi gặp gỡ những người là người đi bộ đường dài, đầu bếp, người viết mã, tài xế taxi những người mà tôi không nghĩ rằng họ yêu âm nhạc chính là những người đang tiếp tục nó. Các bạn không cần phải lo lắng về việc biết điều gì. Nếu các bạn tò mò, nếu các bạn có khả năng tự hỏi, nếu các bạn còn sống, các bạn biết tất cả những gì các bạn cần phải biết. Các bạn có thể bắt đầu ở bất cứ đâu. Ngao du một chút. Theo dấu. Lạc lối. Ngạc nhiên và tạo cảm hứng thích thú. Tất cả về "điều gì", tất cả về "như thế nào" đều ở ngoài kia đợi các bạn khám phá điều "tại sao" của nó, để đắm chìm vào nó và tiếp tục theo nó.
Thank you.
Cám ơn các bạn.
(Applause)
(Vỗ tay)