When I was President of the American Psychological Association, they tried to media-train me. And an encounter I had with CNN summarizes what I'm going to be talking about today, which is the eleventh reason to be optimistic. The editor of Discover told us 10 of them; I'm going to give you the eleventh.
Khi tôi còn là chủ tịch Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ họ cố gắng đào tạo tôi để tiếp xúc với giới truyền thông, và một cuộc gặp với CNN tóm tắt những điều tôi định nói hôm nay đó là "Lý do thứ 11 để lạc quan". Biên tâp viên báo Discover đã đưa ra 10 lý do, tôi sẽ cho các bạn lý do thứ 11.
So they came to me, CNN, and they said, "Professor Seligman -- would you tell us about the state of psychology today? We'd like to interview you about that." And I said, "Great." And she said, "But this is CNN, so you only get a sound bite." I said, "Well, how many words do I get?" And she said, "Well, one."
Họ đến tìm tôi, CNN, và nói rằng "Giáo sư Seligman, ông có thể cho biết về tình hình bộ môn tâm lý học hiện nay? Chúng tôi muốn phỏng vấn ông về vấn đề đó." Và tôi nói, "Được thôi." Và cô ấy nói, "Nhưng đây là CNN, do vậy ông chỉ có một đoạn ngắn thôi." Tôi hỏi "Tôi được nói bao nhiêu từ?" thì cô ấy trả lời "Một."
(Laughter)
(Tiếng cười)
And the cameras rolled, and she said, "Professor Seligman, what is the state of psychology today?" "Good."
Và các camera vào vị trí, và cô ấy nói "Giáo sư Seligman, tình hình tâm lý học hiện nay ra sao?" 'Tốt."
(Laughter)
(Tiếng cười)
"Cut! Cut. That won't do. We'd really better give you a longer sound bite." "How many words do I get this time?" "Well, you get two."
"Cắt. Cắt. Thế không được. Chúng tôi nên cho ông nhiều thời lượng hơn." "Vậy giờ tôi được nói bao nhiêu từ?" "Tôi nghĩ là, chắc, là, hai.
(Laughter)
Tiến sĩ Seligman, tình hình tâm lý học hiện nay ra sao?"
"Doctor Seligman, what is the state of psychology today?" "Not good."
"Không tốt."
(Laughter)
(Tiếng cười)
"Look, Doctor Seligman, we can see you're really not comfortable in this medium. We'd better give you a real sound bite. This time you can have three words. Professor Seligman, what is the state of psychology today?" "Not good enough." That's what I'm going to be talking about.
"Tiến sĩ Seligman, chúng tôi thấy ông có vẻ không thât sự thoải mái với cách này. Chúng tôi nên cho ông một đoạn clip ngắn thực sự. Lần này ông có 3 từ. Giáo sư Seligman, tình hình tâm lý học hiện nay ra sao?" "Không đủ tốt." Và đó là điều tôi sẽ nói hôm nay. Tôi muốn nói tai sao tâm lý học đã khá tốt, tại sao không tốt,
I want to say why psychology was good, why it was not good, and how it may become, in the next 10 years, good enough. And by parallel summary, I want to say the same thing about technology, about entertainment and design, because I think the issues are very similar.
và như thế nào mà trong 10 năm tới, có thể đủ tốt. Và bằng cách đối chiếu song song, tôi muốn nói điều tương tự về công nghệ, về giải trí, và thiết kế, vì tôi nghĩ những vấn đề của chúng rất giống nhau.
So, why was psychology good? Well, for more than 60 years, psychology worked within the disease model. Ten years ago, when I was on an airplane and I introduced myself to my seatmate, and told them what I did, they'd move away from me, because, quite rightly, they were saying psychology is about finding what's wrong with you. Spot the loony. And now, when I tell people what I do, they move toward me.
Vậy thì tại sao tâm lý học lúc bấy giờ lại tốt? Hơn 60 năm, tâm lý học được áp dụng trong điều trị bệnh. 10 năm trước, khi tôi đi máy bay và giới thiệu bản thân với người ngồi bên cạnh, cho họ biết tôi làm nghề gì, họ liền tránh xa tôi ra. Và bởi vì, không sai, mọi người đều nói tâm lý học là tìm xem anh không bình thường ở đâu. "Đi tìm thằng điên." Và giờ khi tôi giới thiệu công việc của mình với mọi người, họ tiến lại gần tôi.
What was good about psychology -- about the $30 billion investment NIMH made, about working in the disease model, about what you mean by psychology -- is that, 60 years ago, none of the disorders were treatable; it was entirely smoke and mirrors. And now, 14 of the disorders are treatable, two of them actually curable.
Điều tốt đẹp về tâm lý học, về 30 tỉ đô được đầu tư bởi Viện Tâm thần Quốc gia, về nghiên cứu chữa trị bệnh tâm thần, về định nghĩa của tâm lý học, đó là 60 năm trước không chứng rối loạn nào có thể chữa trị được -- "chữa trị" là một từ bị dùng sai. Và giờ 14 chứng rối loạn đã có thể điều trị được, hai trong số đó thực sự có thể được chữa khỏi.
And the other thing that happened is that a science developed, a science of mental illness. We found out we could take fuzzy concepts like depression, alcoholism, and measure them with rigor; that we could create a classification of the mental illnesses; that we could understand the causality of the mental illnesses. We could look across time at the same people -- people, for example, who were genetically vulnerable to schizophrenia -- and ask what the contribution of mothering, of genetics are, and we could isolate third variables by doing experiments on the mental illnesses.
Một việc nữa đó là một ngành khoa học đã được phát triển, khoa học về bệnh lý tâm thần. Chúng ta đã có thể đo lường những khái niệm mơ hồ như trầm cảm, nghiện rượu với sự chính xác cao độ. Chúng ta đã có thể phân loại các chứng bệnh. Chúng ta đã có thể hiểu nguyên nhân của các bệnh lý tâm thần. Chúng ta đã có thể biết được quá khứ của một người -- chẳng hạn, những người về mặt di truyền có nguy cơ mắc chứng ảo tưởng, chúng ta có thể biết được giai đoạn trong bụng mẹ hay yếu tố di truyền quyết định bao nhiêu phần trăm và chúng ta có thể cô lập được yếu tố quyết định thứ ba bằng những thí nghiệm về các bệnh lý tâm thần.
And best of all, we were able, in the last 50 years, to invent drug treatments and psychological treatments. And then we were able to test them rigorously, in random-assignment, placebo-controlled designs, throw out the things that didn't work, keep the things that actively did.
Và hơn hết, chúng ta đã có khả năng, trong 50 năm qua, cho ra đời những phương pháp chữa trị bằng tâm lý và bằng thuốc, và đã có khả năng thử nghiệm chúng môt cách nghiêm ngặt trong những bài thử ngẫu nhiên và có giả nghiệm đối chứng -- bỏ đi những thứ không phù hợp, giữ lại những thứ mang hiệu quả cao. Và kết luận việc này đó là tâm lý học và tâm thần học, trong 60 năm qua,
The conclusion of that is, psychology and psychiatry of the last 60 years can actually claim that we can make miserable people less miserable. And I think that's terrific. I'm proud of it. But what was not good, the consequences of that, were three things.
có thể thực sự nói rằng chúng tôi có khả năng khiến những người khốn khổ bớt khốn khổ hơn. Và tôi nghĩ thật tuyệt vời. Tôi tự hào về điều đó. Nhưng những điều không tốt, những hệ quả của điều đó, gồm 3 thứ.
The first was moral; that psychologists and psychiatrists became victimologists, pathologizers; that our view of human nature was that if you were in trouble, bricks fell on you. And we forgot that people made choices and decisions. We forgot responsibility. That was the first cost.
Đầu tiên là về mặt đạo đức -- những nhà tâm lý học và tâm thần học trở thành những người chuyên nghiên cứu nạn nhân và bệnh tật; quan niệm về con người của chúng tôi là nếu anh đang gặp khó khăn, có nghĩa là anh không may rồi. Và chúng tôi quên mất rằng họ cũng có lựa chọn và quyết định. Chúng tôi quên mất trách nhiệm. Đó là cái giá phải trả đầu tiên.
The second cost was that we forgot about you people. We forgot about improving normal lives. We forgot about a mission to make relatively untroubled people happier, more fulfilled, more productive. And "genius," "high-talent," became a dirty word. No one works on that.
Thứ hai đó là chúng tôi quên mất những người khác. Chúng tôi quên mất việc cải thiện đời sống của những người bình thường. Chúng tôi quên mất nhiệm vụ làm cho những người bình thường hạnh phúc hơn, mãn nguyện hơn, hiệu quả hơn, và "thiên tài", "xuất chúng" trở thành những từ rẻ rúng. Không ai nghiên cứu về điều đó. Vấn đề thứ ba về việc chỉ nghiên cứu bệnh tật đó là,
And the third problem about the disease model is, in our rush to do something about people in trouble, in our rush to do something about repairing damage, it never occurred to us to develop interventions to make people happier -- positive interventions.
khi hối hả đi điều trị cho những người mắc bệnh, khi hối hả điều trị cho những tổn thương, chúng tôi không bao giờ nghĩ đến những biện pháp làm cho mọi người hạnh phúc hơn, những biện pháp tích cực.
So that was not good. And so that's what led people like Nancy Etcoff, Dan Gilbert, Mike Csikszentmihalyi and myself to work in something I call, "positive psychology," which has three aims. The first is that psychology should be just as concerned with human strength as it is with weakness. It should be just as concerned with building strength as with repairing damage. It should be interested in the best things in life. And it should be just as concerned with making the lives of normal people fulfilling, and with genius, with nurturing high talent.
Vậy nên điều đó là không tốt. Đó là điều khiến những người như Nancy Etcoff, Dan Gilbert, Mike Csikszentimihalyi và bản thân tôi đi nghiên cứu một lĩnh vực mà tôi gọi là tâm lý học tích cực, với 3 mục đích. Thứ nhất đó là tâm lý học nên quan tâm đến sức mạnh của con người như nó đã quan tâm đến những điểm yếu. Nó nên đặt việc tạo ra sức mạnh ngang bằng với việc chữa trị tổn thương. Nó nên hướng đến những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống, và nó cũng nên quan tâm đến việc làm cho cuộc sống của những người bình thường thêm hạnh phúc và việc nuôi dưỡng những tài năng xuất chúng.
So in the last 10 years and the hope for the future, we've seen the beginnings of a science of positive psychology, a science of what makes life worth living. It turns out that we can measure different forms of happiness. And any of you, for free, can go to that website --
Vậy nên trong 10 năm vừa rồi chúng ta đã thấy những bước khởi đầu của ngành khoa học tâm lý hoc tích cực: một ngành khoa học hướng đến những điều làm cuộc đời đáng sống. Chúng ta mới phát hiện ra rằng ta có thể đo đạc những dạng thức khác nhau của sự hạnh phúc. Và bất kỳ ai trong số các bạn đều có thể lên trang web đó, miễn phí
[www.authentichappiness.org]
và thử hàng loạt bài kiểm tra hạnh phúc.
and take the entire panoply of tests of happiness. You can ask, how do you stack up for positive emotion, for meaning, for flow, against literally tens of thousands of other people? We created the opposite of the diagnostic manual of the insanities: a classification of the strengths and virtues that looks at the sex ratio, how they're defined, how to diagnose them, what builds them and what gets in their way. We found that we could discover the causation of the positive states, the relationship between left hemispheric activity and right hemispheric activity, as a cause of happiness.
Bạn có thể đặt câu hỏi, làm thế nào các anh so sánh được cảm xúc tích cực, ý nghĩa, sự tâp trung, của hàng chục nghìn người ? Chúng tôi tạo ra phiên bản ngược của hệ thống chẩn đoán bệnh tâm thần: sự phân loại về ưu điểm và các giá trị đạo đức trong đó có tính đến tỉ lệ giới tính, cách chúng được định nghĩa, làm thế nào để chẩn đoán được, điều gì tạo nên chúng và điều gì ngăn trở chúng. Chúng tôi phát hiện ra rằng mình có thể khám phá căn nguyên của những trạng thái tinh thần tích cực, quan hệ giữa hoạt động của bán cầu trái và hoạt động của bán cầu phải để đi đến yếu tố tạo nên sự hạnh phúc.
I've spent my life working on extremely miserable people, and I've asked the question: How do extremely miserable people differ from the rest of you? And starting about six years ago, we asked about extremely happy people. How do they differ from the rest of us? It turns out there's one way, very surprising -- they're not more religious, they're not in better shape, they don't have more money, they're not better looking, they don't have more good events and fewer bad events. The one way in which they differ: they're extremely social. They don't sit in seminars on Saturday morning.
Tôi đã dành cuộc đời mình nghiên cứu cho những người vô cùng khốn khổ, và tôi đã hỏi câu hỏi, những người vô cùng khốn khổ khác các bạn như thế nào? Và bắt đầu từ 6 năm trước, chúng tôi hỏi về những người vô cùng hạnh phúc, và cách họ khác biệt với chúng ta như thế nào? Và hóa ra là có một cách. Họ không tin vào tôn giáo nhiều hơn, họ không có cơ thể khỏe mạnh hơn, họ không có nhiều tiền hơn, họ không đẹp hơn, họ không có nhiều điềm lành và ít biến cố hơn chúng ta. Một điều mà họ khác biệt đó là họ vô cùng hoạt bát trong giao tiếp. Họ không ngồi nghe hội thảo vào sáng thứ bảy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
They don't spend time alone. Each of them is in a romantic relationship and each has a rich repertoire of friends.
Họ không đi về một mình. Mỗi người trong số họ đều có mối quan hệ lãng mạn và mỗi người có rất nhiều bạn bè.
But watch out here -- this is merely correlational data, not causal, and it's about happiness in the first, "Hollywood" sense, I'm going to talk about, happiness of ebullience and giggling and good cheer. And I'm going to suggest to you that's not nearly enough, in just a moment. We found we could begin to look at interventions over the centuries, from the Buddha to Tony Robbins. About 120 interventions have been proposed that allegedly make people happy. And we find that we've been able to manualize many of them, and we actually carry out random-assignment efficacy and effectiveness studies. That is, which ones actually make people lastingly happier? In a couple of minutes, I'll tell you about some of those results.
Nhưng hãy cẩn thận. Đây chỉ là dữ liệu liên quan đơn thuần, không phải nguyên nhân, và tôi sẽ nói về sự hạnh phúc theo đúng nghĩa Hollywood: sự hạnh phúc khi sống sôi nổi, cười khúc khích và reo hò thoải mái. Và tôi muốn nói rằng chỉ nhìn vào một khoảnh khắc là chưa đủ. Chúng tôi thấy rằng mình có thể bắt đầu xem lại những biện pháp từ các thế kỷ trước, từ Phật Tổ tới Tony Robbins. Khoảng 120 phương pháp được cho rằng có thể làm con người hạnh phúc đã được đưa ra. Chúng tôi nhận thấy mình có thể thực hiện phần lớn số đó, và thực tế đã tiến hành một số thử nghiệm ngẫu nhiên về hiệu quả thực tiễn và hiệu quả trong phòng thí nghiêm. Đó là, phương pháp nào thực sự làm con người hạnh phúc hơn về lâu dài? Trong một vài phút tôi sẽ cho các bạn thấy một số kết quả.
But the upshot of this is that the mission I want psychology to have, in addition to its mission of curing the mentally ill, and in addition to its mission of making miserable people less miserable, is, can psychology actually make people happier? And to ask that question -- "happy" is not a word I use very much -- we've had to break it down into what I think is askable about "happy." And I believe there are three different -- I call them "different" because different interventions build them, it's possible to have one rather than the other -- three different happy lives. The first happy life is the pleasant life. This is a life in which you have as much positive emotion as you possibly can, and the skills to amplify it. The second is a life of engagement: a life in your work, your parenting, your love, your leisure; time stops for you. That's what Aristotle was talking about. And third, the meaningful life. I want to say a little bit about each of those lives and what we know about them.
Nhưng thành quả của việc này là sứ mệnh mà tôi muốn tâm lý học đi theo, ngoài nhiệm vụ chữa trị bệnh thần kinh, và ngoài nhiện vụ làm cho những người khốn khổ bớt khốn khổ hơn, đó là liệu tâm lý học có thể thực sự khiến con người hạnh phúc hơn? Và để hỏi câu hỏi đó -- hạnh phúc không phải là một từ tôi dùng thường xuyên -- chúng tôi phải chia nó ra thành những phần mà tôi nghĩ rằng có thể điều tra được về hạnh phúc. Và tôi tin rằng có 3 lối sống khác nhau -- tôi cho rằng chúng khác nhau bởi những phương pháp dẫn đến chúng là khác nhau, anh có thể có một kiểu mà không có kiểu khác -- ba lối sống hạnh phúc khác nhau. Lối sống hạnh phúc đầu tiên là lối sống lạc thú. Đây là lối sống mà bạn có tất cả những cảm xúc tích cực mà bạn có thể, và có những kỹ năng để tự tăng cường nó. Thứ hai là lối sống gắn bó: một cuộc sống gắn bó với công việc, cha mẹ, tình yêu, sở thích, như thời gian dừng lại cho bạn. Đó là điều mà Aristotle đã nói đến. Và thứ ba, lối sống có ý nghĩa. Tôi sẽ nói một chút về từng lối sống này và chúng ta đã biết những gì về chúng.
The first life is the pleasant life, and it's simply, as best we can find it, it's having as many of the pleasures as you can, as much positive emotion as you can, and learning the skills -- savoring, mindfulness -- that amplify them, that stretch them over time and space. But the pleasant life has three drawbacks, and it's why positive psychology is not happy-ology, and why it doesn't end here.
Lối sống đầu tiên là lối sống lạc thú và đó đơn giản là đi theo những thú vui một cách tối đa, bạn có thể, tạo ra những cảm xúc tích cực một cách tối đa và học lấy những kỹ năng, cách thưởng thức, cách chú tâm, để tăng cường chúng, để lưu giữ chúng qua thời gian và không gian. Nhưng lối sống lạc thú có 3 hạn chế, và đó là lý do tại sao tâm lý học không phải hạnh phúc học và tại sao nó không dừng lại ở đây.
The first drawback is, it turns out the pleasant life, your experience of positive emotion, is about 50 percent heritable, and, in fact, not very modifiable. So the different tricks that Matthieu and I and others know about increasing the amount of positive emotion in your life are 15 to 20 percent tricks, getting more of it. Second is that positive emotion habituates. It habituates rapidly, indeed. It's all like French vanilla ice cream: the first taste is 100 percent; by the time you're down to the sixth taste, it's gone. And, as I said, it's not particularly malleable.
Hạn chế thứ nhất đó là lối sống lạc thú, những trải nghiệm với cảm xúc tích cực, được di truyền, khoảng 50% do di truyền, và đó là một thực tế khó thay đổi. Những kỹ thuật mà Matthieu [Richard], tôi và một số người khác biết để tăng thêm lượng cảm xúc tích cực trong cuộc sống của bạn đóng góp từ 15 đến 20% và đang tăng dần lên. Thứ hai là cảm xúc tích cực sẽ trở nên nhàm chán, nó phai nhạt đi rất nhanh. Giống như kem Pháp vị vani, lần đầu ăn là 100%, đến que thứ 6, hương vị đó đã mất. Và, như tôi nói, nó không dễ bị tác động.
And this leads to the second life. I have to tell you about my friend Len, to talk about why positive psychology is more than positive emotion, more than building pleasure. In two of the three great arenas of life, by the time Len was 30, Len was enormously successful. The first arena was work. By the time he was 20, he was an options trader. By the time he was 25, he was a multimillionaire and the head of an options trading company. Second, in play, he's a national champion bridge player. But in the third great arena of life, love, Len is an abysmal failure. And the reason he was, was that Len is a cold fish.
Điều này dẫn tới lối sống thứ hai. Tôi phải kể với các bạn về ông bạn Len, để giải thích tại sao tâm lý học tích cực không chỉ là cảm xúc tích cực, không chỉ là theo đuổi lạc thú. Trong hai trên ba yếu tố quan trọng nhất của cuộc đời, tới tuổi 30, Len đã là một người vô cùng thành công. Yếu tố đầu tiên là công việc. Tới 20 tuổi ông ấy đã là một nhà môi giới chứng khoán. Tới tuổi 25, ông ấy là một đại triệu phú và lãnh đạo một công ty môi giới chứng khoán. Thứ hai là về chơi bời: ông ta là nhà vô địch quốc gia về trò bridge. Nhưng trong yếu tố thứ ba của cuộc sống, tình yêu, Len là một kẻ thất bại thảm thương. Nguyên nhân là, Len là người lãnh cảm.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Len is an introvert. American women said to Len, when he dated them, "You're no fun. You don't have positive emotion. Get lost." And Len was wealthy enough to be able to afford a Park Avenue psychoanalyst, who for five years tried to find the sexual trauma that had somehow locked positive emotion inside of him. But it turned out there wasn't any sexual trauma. It turned out that -- Len grew up in Long Island and he played football and watched football, and played bridge. Len is in the bottom five percent of what we call positive affectivities.
Ông ấy là một người hướng nội. Phụ nữ Mỹ nói với ông ta, khi họ hẹn hò, "Anh không có gì hay cả. Anh không có cảm xúc tích cực. Uổng công." Và Len đủ giàu có để tìm một nhà phân tích tâm lý tại Đại Lộ Park, người mà trong 5 năm cố gắng đi tìm cản trở về giới tính mà khóa chặt những cảm xúc tích cực trong lòng ông ta. Nhưng hóa ra không có cản trở nào cả. Hóa ra là...Len lớn lên tại Long Island ông ấy chơi bóng đá và xem bóng đá, và chơi bài bridge... Len thuộc về nhóm 5% mà chúng tôi gọi là nhóm khiếm khuyết cảm xúc tích cực. Câu hỏi là, tại sao Len không hạnh phúc? Và tôi muốn nói rằng không phải thế.
The question is: Is Len unhappy? And I want to say, not. Contrary to what psychology told us about the bottom 50 percent of the human race in positive affectivity, I think Len is one of the happiest people I know. He's not consigned to the hell of unhappiness, and that's because Len, like most of you, is enormously capable of flow. When he walks onto the floor of the American Exchange at 9:30 in the morning, time stops for him. And it stops till the closing bell. When the first card is played till 10 days later, when the tournament is over, time stops for Len.
Trái ngược với những gì tâm lý học cho ta biết về 5% dưới cùng của loài người mà thuộc nhóm khiếm khuyết sự tích cực, tôi cho rằng Len là một trong những người hạnh phúc nhất tôi biết. Ông ấy không bị bó buộc trong địa ngục đau khổ và đó là bởi vì Len, giống như hầu hết các bạn, có khả năng 'phiêu'. Khi ông ấy đi vào sàn giao dịch chứng khoán Mỹ lúc 9:30 sáng, thời gian dừng lại cho ông ta. Và nó dừng lại như thế đến khi chuông hết giờ reo. Khi lá bài đầu tiên được chia, cho đến khi kết thúc 10 ngày của giải đấu, thời gian dừng lại cho Len.
And this is indeed what Mike Csikszentmihalyi has been talking about, about flow. And it's distinct from pleasure in a very important way: pleasure has raw feel -- you know it's happening; it's thought and feeling. But what Mike told you yesterday -- during flow ... you can't feel anything. You're one with the music. Time stops. You have intense concentration. And this is indeed the characteristic of what we think of as the good life. And we think there's a recipe for it, and it's knowing what your highest strengths are -- again, there's a valid test of what your five highest strengths are -- and then re-crafting your life to use them as much as you possibly can. Re-crafting your work, your love, your play, your friendship, your parenting.
Và đây chính là điều mà Mike Csikszentmihalyi đã nói, về cảm giác phiêu, và nó khác với lạc thú ở điểm rất quan trọng. Thú vui cảm thấy rất rõ: bạn biết nó đang diễn ra. Nó là suy nghĩ và cảm xúc. Nhưng điều mà Mike đã nói cho các bạn hôm qua, trong khi phiêu, bạn không cảm thấy bất cứ điều gì. Bạn hòa vào âm nhạc. Thời gian dừng lại. Bạn tập trung cao độ. Và đây chính là đặc trưng của một cuộc sống tốt. Chúng tôi nghĩ rằng có một phương thức tạo ra nó, và đó là biết được thế mạnh lớn nhất của bạn là gì. Một lần nữa, có một bài kiểm tra xác thực về năm điểm mạnh nhất của bạn. Và khi đó hãy tổ chức lại cuộc sống của bạn để tận dụng chúng một cách tối đa. Tổ chức lại công việc, tình yêu, những thú vui, tình bạn, việc nuôi con.
Just one example. One person I worked with was a bagger at Genuardi's. Hated the job. She's working her way through college. Her highest strength was social intelligence. So she re-crafted bagging to make the encounter with her the social highlight of every customer's day. Now, obviously she failed. But what she did was to take her highest strengths, and re-craft work to use them as much as possible. What you get out of that is not smiley-ness. You don't look like Debbie Reynolds. You don't giggle a lot. What you get is more absorption.
Ví dụ: một người tôi đã làm việc cùng làm nghề đóng gói hàng hóa ở Genuardi. Ghét công việc đó. Cô ấy đang làm việc để học nốt đại học. Thế mạnh của cô ấy là trí thông minh xã hội, thế nên cô ấy thay đổi việc đóng hàng để khiến việc gặp gỡ cô trở thành điểm sáng cho một ngày của mỗi khách hàng. Dĩ nhiên là cô ta đã không thành công trước đó. Nhưng cô ấy đã sử dụng thế mạnh của bản thân, thay đổi công việc để tận dụng chúng một cách tối đa. Thứ mà bạn có được không phải là một khuôn mặt hớn hở. Bạn không trông như Debbie Reynolds. Bạn không cười đùa nhiều. Thứ bạn đạt được là sự miệt mài với công việc.
So, that's the second path. The first path, positive emotion; the second path is eudaemonian flow; and the third path is meaning. This is the most venerable of the happinesses, traditionally. And meaning, in this view, consists of -- very parallel to eudaemonia -- it consists of knowing what your highest strengths are, and using them to belong to and in the service of something larger than you are.
Đó là cách thứ hai. Cách thứ nhất là cảm xúc tích cực. Cách thứ hai là cảm giác hạnh phúc tuôn trào. Và thứ ba là ý nghĩa. Đây là niềm hạnh phúc được tôn trọng nhất từ xưa đến nay. Ý nghĩa ở khái niệm này bao gồm -- rất giống như dòng cảm xúc tuôn trào, bao gồm việc ý thức rõ những thế mạnh của bản thân và sử dụng chúng để đi theo cũng như phục vụ một điều gì đó lớn lao hơn bản thân.
I mentioned that for all three kinds of lives -- the pleasant life, the good life, the meaningful life -- people are now hard at work on the question: Are there things that lastingly change those lives? And the answer seems to be yes. And I'll just give you some samples of it. It's being done in a rigorous manner. It's being done in the same way that we test drugs to see what really works. So we do random-assignment, placebo-controlled, long-term studies of different interventions. Just to sample the kind of interventions that we find have an effect: when we teach people about the pleasant life, how to have more pleasure in your life, one of your assignments is to take the mindfulness skills, the savoring skills, and you're assigned to design a beautiful day. Next Saturday, set a day aside, design yourself a beautiful day, and use savoring and mindfulness to enhance those pleasures. And we can show in that way that the pleasant life is enhanced.
Tôi đã đề cập rằng với cả ba loại cuộc sống, cuộc sống lạc thú, cuộc sống tốt, và cuộc sống ý nghĩa, mọi người tự hỏi, liệu những điều đó có thay đổi cuộc sống của chúng ta một cách lâu dài không? Và câu trả lời dường như là có. Tôi sẽ cho các bạn xem một số nghiên cứu ví dụ. Chúng được thực hiện rất nghiêm ngặt. Chúng được thực hiện giống như cách mà chúng ta thử nghiệm thuốc xem loại nào thực sự hiệu quả. Vậy là chúng tôi thực hành các bài tập ngẫu nhiên, có sử dụng giả nghiệm đối chứng, những nghiên cứu dài hạn về các phương pháp khác nhau. Và để thử nghiệm những phương pháp mà chúng tôi thấy có hiệu quả, chúng tôi dạy cho mọi người về cuộc sống lạc thú, làm thế nào để có nhiều thú vui hơn trong cuộc sống, một trong những bài tập của bạn là sử dụng kỹ năng tập trung, kỹ năng thưởng thức, và sắp xếp một ngày tuyệt vời cho mình. Thứ Bảy tới hãy dành cả ngày để lên kế hoạch cho một ngày tuyệt vời, sử dụng kỹ năng thưởng thức và tập trung để tăng cường các lạc thú đó. Và chúng tôi có thể chứng minh rằng cách đó thực sự khiến cuộc sống thêm hạnh phúc.
Gratitude visit. I want you all to do this with me now, if you would. Close your eyes. I'd like you to remember someone who did something enormously important that changed your life in a good direction, and who you never properly thanked. The person has to be alive. Now, OK, you can open your eyes. I hope all of you have such a person. Your assignment, when you're learning the gratitude visit, is to write a 300-word testimonial to that person, call them on the phone in Phoenix, ask if you can visit, don't tell them why. Show up at their door, you read the testimonial -- everyone weeps when this happens. And what happens is, when we test people one week later, a month later, three months later, they're both happier and less depressed.
Chuyến thăm của lòng biết ơn. Tôi muốn tất cả các bạn cùng làm với tôi ngay bây giờ, nếu các bạn muốn. Hãy nhắm mắt lại. Tôi muốn bạn nhớ đến một người, người đó đã làm một việc vô cùng quan trọng mà thay đổi cuộc sống của bạn theo hướng tốt đẹp hơn, và người đó bạn chưa bao giờ cảm ơn đúng cách. Người đó phải còn sống. OK. Giờ thì, được rồi, các bạn có thể mở mắt. Hi vọng ai cũng có một người như thế. Bài tập của bạn khi đang học về chuyến thăm của lòng biết ơn đó là viết một đoạn văn 300 từ cho người đó, gọi điện thoại cho họ ở Phoenix, hỏi xem bạn có đến thăm được không, đừng nói tại sao, đến trước cửa nhà họ, đọc đoạn văn đó -- bất cứ ai cũng sẽ khóc khi điều này diễn ra -- và khi chúng tôi kiểm tra lại những người đó sau một tuần, một tháng, ba tháng, họ đều hạnh phúc hơn và bớt chán nản.
Another example is a strengths date, in which we get couples to identify their highest strengths on the strengths test, and then to design an evening in which they both use their strengths. We find this is a strengthener of relationships. And fun versus philanthropy. It's so heartening to be in a group like this, in which so many of you have turned your lives to philanthropy. Well, my undergraduates and the people I work with haven't discovered this, so we actually have people do something altruistic and do something fun, and contrast it. And what you find is when you do something fun, it has a square wave walk set. When you do something philanthropic to help another person, it lasts and it lasts. So those are examples of positive interventions.
Một ví dụ khác là 'cuộc hẹn hò ưu điểm', trong đó chúng tôi để các cặp đôi tìm ra điểm mạnh nhất của mình dựa trên bài kiểm tra ưu điểm, và sau đó lên kế hoạch cho một buổi tối mà cả hai đều có thể tận dụng ưu điểm của mình, và chúng tôi nhận thấy đây là một cách củng cố quan hệ. Và 'vui đùa' hay 'hoạt động từ thiện'. Tôi rất phấn khởi khi được ở trong một nhóm như thế này, với rất nhiều trong số các bạn đã cống hiến cuộc đời cho việc từ thiện. Những sinh viên và đồng nghiệp của tôi vẫn chưa phát hiện ra điều đó, nên chúng tôi yêu cầu người khác làm một số việc từ thiện và một số trò vui đùa, để đối chiếu chúng với nhau. Các bạn sẽ thấy là khi mình chơi đùa, niềm vui chỉ là tức thời mà thôi. Khi bạn làm việc thiện để giúp đỡ người khác, nó sẽ kéo dài và tồn tại mãi. Đó là những ví dụ về các biện pháp tích cực.
So the next to last thing I want to say is: we're interested in how much life satisfaction people have. This is really what you're about. And that's our target variable. And we ask the question as a function of the three different lives, how much life satisfaction do you get? So we ask -- and we've done this in 15 replications, involving thousands of people: To what extent does the pursuit of pleasure, the pursuit of positive emotion, the pleasant life, the pursuit of engagement, time stopping for you, and the pursuit of meaning contribute to life satisfaction?
Trước khi đi đến kết thúc tôi muốn nói rằng chúng tôi quan tâm đến mức độ thỏa mãn với cuộc sống của mọi người, và đó chính là điều các bạn hướng tới. Và đó chính là số liệu đích của chúng tôi. Chúng tôi hỏi câu hỏi này giống như biểu thức chung cho cả ba lối sống, bạn thỏa mãn với cuộc sống của mình đến đâu? Chúng tôi hỏi rằng -- và chúng tôi đã làm việc này trong 15 lần điều tra phản hồi trên hàng nghìn người -- rằng việc đi tìm những thú vui, tìm kiếm những cảm xúc tích cực, một cuộc sống đầy lạc thú, tìm kiếm sự gắn bó, và tìm kiếm ý nghĩa, chúng đóng góp cho sự thỏa mãn với cuộc sống như thế nào? Và kết quả đã khiến chúng tôi sửng sốt, trái ngược với những gì chúng tôi đã nghĩ.
And our results surprised us; they were backward of what we thought. It turns out the pursuit of pleasure has almost no contribution to life satisfaction. The pursuit of meaning is the strongest. The pursuit of engagement is also very strong. Where pleasure matters is if you have both engagement and you have meaning, then pleasure's the whipped cream and the cherry. Which is to say, the full life -- the sum is greater than the parts, if you've got all three. Conversely, if you have none of the three, the empty life, the sum is less than the parts.
Hóa ra những lạc thú gần như không đóng góp cho sự thỏa mãn với cuộc sống. Sự tìm kiếm ý nghĩa ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Sự tìm kiếm gắn bó cũng rất mạnh. Những lạc thú chỉ thêm vào khi bạn đã có cả sự gắn bó và ý nghĩa, khi đó chúng giống như kem phủ và trái sơ-ri. Điều đó nói lên trong cuộc sống đầy đủ, tổng sẽ lớn hơn những phần riêng biệt khi bạn có cả ba. Ngược lại, nếu bạn không có gì, một cuộc sống vô vị, tổng sẽ nhỏ hơn các phần cộng lại. Và điều chúng tôi đang muốn hỏi đó là
And what we're asking now is: Does the very same relationship -- physical health, morbidity, how long you live and productivity -- follow the same relationship? That is, in a corporation, is productivity a function of positive emotion, engagement and meaning? Is health a function of positive engagement, of pleasure, and of meaning in life? And there is reason to think the answer to both of those may well be yes.
liệu rằng sức khỏe, bệnh tật tuổi thọ và hiệu quả lao động có quan hệ với nhau một cách tương tự hay không? Nói cách khác, trong một thể thống nhất, liệu hiệu quả lao động có là một hàm số của cảm xúc tích cực, sự gắn bó và ý nghĩa? Liệu sức khỏe có phụ thuộc vào sự gắn bó tích cực, vào những lạc thú, và ý nghĩa trong cuộc sống? Và có lý do để cho rằng câu trả lời cho cả hai câu hỏi là có.
So, Chris said that the last speaker had a chance to try to integrate what he heard, and so this was amazing for me. I've never been in a gathering like this. I've never seen speakers stretch beyond themselves so much, which was one of the remarkable things. But I found that the problems of psychology seemed to be parallel to the problems of technology, entertainment and design in the following way: we all know that technology, entertainment and design have been and can be used for destructive purposes. We also know that technology, entertainment and design can be used to relieve misery. And by the way, the distinction between relieving misery and building happiness is extremely important. I thought, when I first became a therapist 30 years ago, that if I was good enough to make someone not depressed, not anxious, not angry, that I'd make them happy. And I never found that; I found the best you could ever do was to get to zero; that they were empty.
Chris có nói rằng diễn giả trước có cơ hội để đưa những điều anh đã được nghe vào bài nói, và sự kiện này thật sự rất tuyệt vời đối với tôi. Tôi chưa bao giờ được tham dự một hội thảo như thế này. Tôi chưa bao giờ thấy những diễn giả vượt qua giới hạn bản thân đến thế, và đó là một trong những điều đáng ghi nhận. Nhưng tôi cho rằng những vấn đề của tâm lý học dường như cũng song song với những vấn đề của công nghệ, giải trí và thiết kết như sau. Chúng ta đều biết rằng công nghệ, giải trí và thiết kế đã và có thể bị lạm dụng cho những mục đích phá hoại. Chúng ta đều biết rằng công nghệ, giải trí và thiết kế có thể được sử dụng để giảm nhẹ khó khăn. Và tiện đây, sự khác nhau giữa giảm nhẹ đau khổ và tạo ra hạnh phúc là vô cùng quan trọng. Tôi đã từng nghĩ, khi tôi mới làm điều trị viên 30 năm trước, rằng nếu tôi làm đủ tốt để khiến ai đó không còn trầm cảm, không còn lo âu, không còn giận dữ, tôi sẽ có thể khiến họ hạnh phúc. Và tôi chưa bao giờ làm được như vậy. Tôi nghiệm ra điều tốt nhất anh có thể làm là đưa về số 0. Nhưng thế là trống rỗng.
And it turns out the skills of happiness, the skills of the pleasant life, the skills of engagement, the skills of meaning, are different from the skills of relieving misery. And so, the parallel thing holds with technology, entertainment and design, I believe. That is, it is possible for these three drivers of our world to increase happiness, to increase positive emotion. And that's typically how they've been used. But once you fractionate happiness the way I do -- not just positive emotion, that's not nearly enough -- there's flow in life, and there's meaning in life. As Laura Lee told us, design and, I believe, entertainment and technology, can be used to increase meaning engagement in life as well.
Và hóa ra những kỹ năng để đạt được hạnh phúc, những kỹ năng để đạt được một cuộc sống tốt đẹp, những kỹ năng để đạt được sự gắn bó, ý nghĩa cuộc sống, chúng không giống những kỹ năng để giảm bớt đau khổ. Và điều tương tự tôi tin rằng cũng đúng với công nghệ, giải trí và thiết kế. Đó là, ba nhân tố chi phối thế giới này có khả năng đem lại thêm hạnh phúc, thêm cảm xúc tích cực, và đó vẫn là mục đích chính của chúng trước nay. Nhưng một khi các bạn nghĩ về những yếu tố tạo nên hạnh phúc như tôi làm, không chỉ có cảm xúc tích cực -- thế vẫn chưa đủ -- còn có sự gắn bó, còn có ý nghĩa trong cuộc sống. Như Lauralee đã nói với chúng ta, thiết kế, và tôi tin rằng cả giải trí và công nghệ nữa, có thể tăng thêm sự gắn bó ý nghĩa trong cuộc sống.
So in conclusion, the eleventh reason for optimism, in addition to the space elevator, is that I think with technology, entertainment and design, we can actually increase the amount of tonnage of human happiness on the planet. And if technology can, in the next decade or two, increase the pleasant life, the good life and the meaningful life, it will be good enough. If entertainment can be diverted to also increase positive emotion, meaning eudaemonia, it will be good enough. And if design can increase positive emotion, eudaemonia, and flow and meaning, what we're all doing together will become good enough.
Vậy kết luận lại, lý do thứ 11 để lạc quan, bên cạnh để chờ thang máy lên vũ trụ, đó là tôi cho rằng với công nghệ, giải trí và thiết kế, chúng ta có thể thực sự tăng thêm hạnh phúc cho nhân loại trên hành tinh này. Và nếu công nghệ, trong một hai thập niên nữa, có thể tăng thêm cuộc sống vui vẻ, cuộc sống tốt và cuộc sống ý nghĩa, mọi việc sẽ tốt đẹp đủ cho chúng ta. Nếu giải trí có thể đi theo hướng tăng thêm cảm xúc tích cực, ý nghĩa, niềm hân hoan, mọi việc sẽ tốt đẹp đủ cho chúng ta. Và nếu thiết kết có thể đem lại thêm cảm xúc tích cực, sự hân hoan, cảm giác phiêu diêu và ý nghĩa trong cuộc sống, mọi việc chúng ta đang cùng làm bây giờ sẽ trở nên tốt đẹp. Cảm ơn các bạn.
Thank you.
(Vỗ tay)
(Applause)