I'm going to begin with a scary question: Are we headed toward a future without jobs? The remarkable progress that we're seeing in technologies like self-driving cars has led to an explosion of interest in this question, but because it's something that's been asked so many times in the past, maybe what we should really be asking is whether this time is really different. The fear that automation might displace workers and potentially lead to lots of unemployment goes back at a minimum 200 years to the Luddite revolts in England. And since then, this concern has come up again and again.
Tôi sẽ bắt đầu với một câu hỏi đáng sợ: Có phải ta đang hướng đến một tương lai không việc làm? Sự tiến bộ phi thường mà ta đang thấy trong công nghệ, như xe không người lái đã dẫn đến việc bùng nổ sự quan tâm cho câu hỏi này, nhưng vì nó là điều đã được hỏi nhiều lần trong quá khứ, có thể điều thật sự ta nên hỏi là liệu lần này có thật sự khác biệt hay không. Nỗi lo sợ sự tự động hóa có thể thay thế công nhân và khả năng dẫn tới nhiều người thất nghiệp như trở về cuộc nổi dậy Luddite ở Anh gần 200 năm trước. Và kể từ đó, nỗi lo ngại này trở lại hết lần này đền lần khác.
I'm going to guess that most of you have probably never heard of the Triple Revolution report, but this was a very prominent report. It was put together by a brilliant group of people -- it actually included two Nobel laureates -- and this report was presented to the President of the United States, and it argued that the US was on the brink of economic and social upheaval because industrial automation was going to put millions of people out of work. Now, that report was delivered to President Lyndon Johnson in March of 1964. So that's now over 50 years, and, of course, that hasn't really happened. And that's been the story again and again.
Tôi sẽ đoán hầu hết các bạn chưa bao giờ nghe đến báo cáo Cách mạng Công nghiệp III. nhưng nó là một báo cáo rất đáng chú ý. Nó được tập hợp bởi một nhóm các bộ óc thiên tài -- trong đó có hai người đoạt giải Nobel -- và bản báo cáo này được trình bày trước Tổng thống Mỹ, và nó tranh luận rằng nước Mỹ đang ở bờ vực biến động kinh tế và xã hội bởi công nghiệp tự động hoá đã đang đẩy hàng triệu người vào cảnh mất việc. Giờ thì, bản báo cáo này được gửi đến Tổng thống Lyndon Johnson vào tháng Ba năm 1964. Và giờ là 50 năm trôi qua, và dĩ nhiên, nó chưa thật sự xảy ra. Và nó đã là câu chuyện lặp lại nhiều lần.
This alarm has been raised repeatedly, but it's always been a false alarm. And because it's been a false alarm, it's led to a very conventional way of thinking about this. And that says essentially that yes, technology may devastate entire industries. It may wipe out whole occupations and types of work. But at the same time, of course, progress is going to lead to entirely new things. So there will be new industries that will arise in the future, and those industries, of course, will have to hire people. There'll be new kinds of work that will appear, and those might be things that today we can't really even imagine. And that has been the story so far, and it's been a positive story.
Sự báo động này đã được dấy lên nhiều lần, nhưng nó luôn là một báo động giả. Và bởi vì nó đã là một báo động giả, nó dẫn đến một lối nghĩ truyền thống về vấn đề này. Và nó cơ bản đồng ý với việc công nghệ có thể phá huỷ tất cả các ngành công nghiệp. Nó có thể phủi sạch tất cả các nghề nghiệp và loại hình công việc. Nhưng đồng thời, dĩ nhiên, sự tiến bộ sẽ dẫn đến những thứ hoàn toàn mới mẻ. Sẽ có những nền công nghiệp mới vươn lên trong tương lai, và chúng, tất nhiên sẽ phải tuyển dụng con người. Sẽ có nhiều loại hình công việc mới xuất hiện. và chúng có thể là thứ mà ngay lúc này ta chẳng thể tưởng tượng ra. Và nó là câu chuyện cho tới hiện tại, và đó là câu chuyện tích cực.
It turns out that the new jobs that have been created have generally been a lot better than the old ones. They have, for example, been more engaging. They've been in safer, more comfortable work environments, and, of course, they've paid more. So it has been a positive story. That's the way things have played out so far. But there is one particular class of worker for whom the story has been quite different. For these workers, technology has completely decimated their work, and it really hasn't created any new opportunities at all. And these workers, of course, are horses.
Hoá ra nhiều công việc mới đã đang được tạo ra đã thực sự tiến bộ hơn những cái cũ rất nhiều. Ví dụ, chúng có nhiều sự gắn kết hơn. Chúng tạo nhiều môi trường làm việc an toàn và thoải mái hơn, và dĩ nhiên, trả công cao hơn. Nó đã đang là câu chuyện tích cực. Đó là cách mà mọi thứ vận hành cho tới hiện tại. Nhưng có một nhóm tầng lớp lao động mà với họ câu chuyện này rất khác. Với những lao động này, công nghệ đã gây tổn hại hoàn toàn đến công việc của họ, và nó thật sự không tạo nên một cơ hội mới nào cả. Và dĩ nhiên, những người lao động này, là những con ngựa.
(Laughter)
(Cười)
So I can ask a very provocative question: Is it possible that at some point in the future, a significant fraction of the human workforce is going to be made redundant in the way that horses were? Now, you might have a very visceral, reflexive reaction to that. You might say, "That's absurd. How can you possibly compare human beings to horses?" Horses, of course, are very limited, and when cars and trucks and tractors came along, horses really had nowhere else to turn. People, on the other hand, are intelligent; we can learn, we can adapt. And in theory, that ought to mean that we can always find something new to do, and that we can always remain relevant to the future economy.
Tôi có thể hỏi một câu hỏi có tính cực kì khiêu khích: Liệu có khả năng nào ở tương lai, một phần nhỏ lực lượng người lao động nòng cốt dần trở nên dư thừa như loài ngựa đã từng hay không? Bạn có thể sẽ phản ứng lại điều đó theo một cách bản năng, theo phản xạ. Bạn có thể nói, “Nó thật vô lý. Sao anh có thể so sánh loài người với loài ngựa được?” Đương nhiên, ngựa rất hạn chế, và khi xe hơi và xe tải và máy kéo xuất hiện, ngựa thật sự không còn chỗ đứng. Mặt khác, loài người rất thông minh; ta có thể học, có thể thích nghi. Và theo lý thuyết, nó có nghĩa là ta luôn có thể khám phá được thứ mới để làm, và ta luôn có khả năng gắn bó với nền kinh tế tương lai.
But here's the really critical thing to understand. The machines that will threaten workers in the future are really nothing like those cars and trucks and tractors that displaced horses. The future is going to be full of thinking, learning, adapting machines. And what that really means is that technology is finally beginning to encroach on that fundamental human capability -- the thing that makes us so different from horses, and the very thing that, so far, has allowed us to stay ahead of the march of progress and remain relevant, and, in fact, indispensable to the economy. So what is it that is really so different about today's information technology relative to what we've seen in the past? I would point to three fundamental things.
Nhưng đây là vấn đề quan trọng cần được nắm rõ. Các máy móc sẽ đe doạ đến người lao động trong tương lai không giống như những chiếc xe hơi, xe tải, máy kéo đã thay thế loài ngựa. Tương lai sẽ đầy ắp việc với suy nghĩ, học hỏi và thích nghi với máy móc. Và nó có nghĩa là công nghệ cuối cùng cũng bắt đầu xâm lấn vào năng lực nền tảng của con người-- thứ tạo nên sự khác biệt giữa ta và loài ngựa, và chính xác, cho đến nay, đã cho phép chúng ta dẫn đầu trong chặng đường tiến bộ và vẫn còn liên quan, và thực tế là, không thể thiếu cho ngành kinh tế. Vậy điều thật sự khác biệt giữa công nghệ thông tin ngày nay với điều ta nhìn thấy ở quá khứ là gì? Tôi sẽ chỉ ra ba điểm nền tảng.
The first thing is that we have seen this ongoing process of exponential acceleration. I know you all know about Moore's law, but in fact, it's more broad-based than that; it extends in many cases, for example, to software, it extends to communications, bandwidth and so forth. But the really key thing to understand is that this acceleration has now been going on for a really long time. In fact, it's been going on for decades. If you measure from the late 1950s, when the first integrated circuits were fabricated, we've seen something on the order of 30 doublings in computational power since then. That's just an extraordinary number of times to double any quantity, and what it really means is that we're now at a point where we're going to see just an extraordinary amount of absolute progress, and, of course, things are going to continue to also accelerate from this point. So as we look forward to the coming years and decades, I think that means that we're going to see things that we're really not prepared for. We're going to see things that astonish us.
Điều đầu tiên là chúng ta đã đang chứng kiến quá trình tăng trưởng theo cấp số nhân. Tôi biết các bạn biết về định luật Moore, nhưng trên thực tế, nó phủ sóng rộng hơn; nó mở rộng cho nhiều trường hợp, ví dụ, đối với phần mềm, nó mở rộng tới giao tiếp, băng thông và hơn thế. Nhưng điểm chính cần nắm rõ là sự tăng trưởng này đã diễn ra từ rất lâu về trước. Thực tế, nó đã diễn ra hàng thập kỷ. Nếu bạn tính toán từ cuối những năm 1950, khi mạch tích hợp đầu tiên được chế tạo, ta được chứng kiến thứ gì đó có sức mạnh tính toán gấp 30 lần kể từ đó. Đó là thời gian phi thường để nhân đôi bất kỳ số lượng nào, và nó thực sự nghĩa là ta đang ở thời điểm mà ta sẽ chứng kiến một lượng tiến bộ tuyệt đối phi thường, và, dĩ nhiên, mọi thứ sẽ tiếp tục tăng trưởng từ điểm xuất phát này. Vậy nên nếu ta hướng về những năm và thập kỷ tới, Tôi nghĩ rằng ta sẽ nhìn thấy những điều mà ta không sẵn sàng để thấy. Ta sẽ chứng kiến những thứ làm ta kinh ngạc.
The second key thing is that the machines are, in a limited sense, beginning to think. And by this, I don't mean human-level AI, or science fiction artificial intelligence; I simply mean that machines and algorithms are making decisions. They're solving problems, and most importantly, they're learning. In fact, if there's one technology that is truly central to this and has really become the driving force behind this, it's machine learning, which is just becoming this incredibly powerful, disruptive, scalable technology.
Điểm chính thứ hai là trong một giới hạn, máy móc đang bắt đầu biết suy nghĩ. Về điều này, tôi không nói đến cấp độ con người-AI, hay khoa học trí tuệ nhân tạo viễn tưởng; Ý của tôi đơn giản là máy móc và thuật toán đang tự ra quyết định. Chúng giải quyết vấn đề, và quan trọng hơn cả, chúng học hỏi. Trên thực tế, nếu có một công nghệ hoàn toàn tập trung vào điều này và thực sự là yếu tố cốt lõi đằng sau nó, đó chính là học máy, vừa trở thành thứ công nghệ đầy quyền năng, đột phá, đổi mới một cách phi thường.
One of the best examples I've seen of that recently was what Google's DeepMind division was able to do with its AlphaGo system. Now, this is the system that was able to beat the best player in the world at the ancient game of Go. Now, at least to me, there are two things that really stand out about the game of Go. One is that as you're playing the game, the number of configurations that the board can be in is essentially infinite. There are actually more possibilities than there are atoms in the universe. So what that means is, you're never going to be able to build a computer to win at the game of Go the way chess was approached, for example, which is basically to throw brute-force computational power at it. So clearly, a much more sophisticated, thinking-like approach is needed. The second thing that really stands out is that, if you talk to one of the championship Go players, this person cannot necessarily even really articulate what exactly it is they're thinking about as they play the game. It's often something that's very intuitive, it's almost just like a feeling about which move they should make.
Một trong những ví dụ hay nhất tôi thấy gần đây là việc bộ phận DeepMind của Google có thể tác động lên hệ thống AlphaGo của nó. Nó là hệ thống có thể đánh bại người chơi giỏi nhất Thế giới trong trò cờ vây cổ xưa. Giờ, it nhất với tôi, Có hai thứ thực sự nổi bật lên trong trò chơi cờ vây. Một là khi bạn tham gia trò chơi, số nước cờ có thể đi trên một bàn cờ gần như là vô tận. Số khả năng này còn nhiều hơn số nguyên tử vũ trụ. Nó có nghĩa là, bạn không thể tạo ra một máy tính có thể chiến thắng trò cờ vây, ví dụ, cách mà quân cờ được đi, về cơ bản là dùng khả năng máy tính để đi thử tất cả kiểu tấn công. Rõ ràng là ta cần cách tiếp cận tinh vi và có tư duy hơn. Điểm nổi bật thứ hai là, nếu bạn nói chuyện với một nhà vô địch cờ vây, người này không thể nói rõ hoặc chỉ ra chính xác thứ mà họ nghĩ đến khi họ đang chơi cờ. Mọi thứ có vẻ thiên về trực giác, nó gần như là cảm giác về nước đi mà họ cần thực hiện.
So given those two qualities, I would say that playing Go at a world champion level really ought to be something that's safe from automation, and the fact that it isn't should really raise a cautionary flag for us. And the reason is that we tend to draw a very distinct line, and on one side of that line are all the jobs and tasks that we perceive as being on some level fundamentally routine and repetitive and predictable. And we know that these jobs might be in different industries, they might be in different occupations and at different skill levels, but because they are innately predictable, we know they're probably at some point going to be susceptible to machine learning, and therefore, to automation. And make no mistake -- that's a lot of jobs. That's probably something on the order of roughly half the jobs in the economy.
Với hai tính chất trên, Tôi có thể nói, chơi cờ vây ở cấp vô địch thế giới gần như là thứ an toàn khỏi tự động hoá, và thực tế là nó không nên dấy lên mối lo ngại nào cho ta. Và lý do là bởi ta có ý định vẽ nên đường kẻ khác biệt, một bên nó là tất cả công việc và nhiệm vụ mà chúng ta cho rằng ở một mức độ nào đó về cơ bản là thường lệ và lặp đi lặp lại và có thể dự đoán. Và ta biết chúng thuộc các ngành công nghiệp khác nhau, khác về loại hình nghề nghiệp và khác về cấp độ kỹ năng, nhưng bởi chúng vốn đã dễ đoán, ta biết chúng có vài điểm dễ bị ảnh hưởng bởi học máy, và sau đó, tới tự động hoá. Không tạo ra lỗi -- đó là rất nhiều việc. Đó có lẽ là thứ chiếm khoảng một nửa số việc làm trong nền kinh tế.
But then on the other side of that line, we have all the jobs that require some capability that we perceive as being uniquely human, and these are the jobs that we think are safe. Now, based on what I know about the game of Go, I would've guessed that it really ought to be on the safe side of that line. But the fact that it isn't, and that Google solved this problem, suggests that that line is going to be very dynamic. It's going to shift, and it's going to shift in a way that consumes more and more jobs and tasks that we currently perceive as being safe from automation.
Nhưng ở mặt bên kia của đường kẻ, ta có tất cả các công việc yêu cầu về khả năng mà ta biết được chúng là độc nhất của loài người, và những công việc này ta cho là an toàn. Giờ thì, dựa vào những gì tôi biết về cờ vây, Tôi sẽ đoán rằng nó thật sự thuộc về phía an toàn của đường kẻ. Nhưng thực tế không phải vậy, và Google đã giải được vấn đề này, cho rằng đường kẻ này rất linh động. Nó sẽ chuyển dịch, và nó sẽ dịch chuyển theo hướng cắt bỏ nhiều hơn nữa công việc và nhiệm vụ mà ta đang nhận định là an toàn khỏi tự động hoá.
The other key thing to understand is that this is by no means just about low-wage jobs or blue-collar jobs, or jobs and tasks done by people that have relatively low levels of education. There's lots of evidence to show that these technologies are rapidly climbing the skills ladder. So we already see an impact on professional jobs -- tasks done by people like accountants, financial analysts, journalists, lawyers, radiologists and so forth. So a lot of the assumptions that we make about the kind of occupations and tasks and jobs that are going to be threatened by automation in the future are very likely to be challenged going forward.
Vấn đề cốt lõi khác cần nắm rõ là điều này không chỉ xảy đến với công việc lương thấp hoặc công nhân, hoặc những việc thực hiện bởi con người mà chỉ đòi hỏi trình độ giáo dục thấp. Có rất nhiều bằng chứng chỉ ra những công nghệ này leo nấc thang kỹ năng với tốc độ chóng mặt. Và ta cũng đã thấy sự ảnh hưởng đến công việc chuyên môn -- do con người phụ trách như kế toán, phân tích tài chính, nhà báo, luật sư, bác sĩ X quang và hơn nữa. Có rất nhiều giả thuyết được tạo ra nói về loại nghề nghiệp và nhiệm vụ và công việc đang bị đe doạ bởi tự động hoá trong tương lai có vẻ sẽ gặp phải thử thách trước mắt.
So as we put these trends together, I think what it shows is that we could very well end up in a future with significant unemployment. Or at a minimum, we could face lots of underemployment or stagnant wages, maybe even declining wages. And, of course, soaring levels of inequality. All of that, of course, is going to put a terrific amount of stress on the fabric of society. But beyond that, there's also a fundamental economic problem, and that arises because jobs are currently the primary mechanism that distributes income, and therefore purchasing power, to all the consumers that buy the products and services we're producing.
Ta đặt các xu hướng này cạnh nhau, tôi nghĩ nó sẽ chỉ ra tình trạng thất nghiệp đáng chú ý trong tương lai. Hoặc ít nhất, ta có thể lâm vào cảnh thiếu việc làm hoặc chậm lương, hoặc có thể là giảm tiền công. Và dĩ nhiên, bất bình đẳng leo thang. Quan trọng hơn cả, là một áp lực khủng khiếp đặt lên giá trị đạo đức xã hội. Xa hơn nữa, tồn tại những vấn đề kinh tế bị phát sinh bởi việc làm hiện tại đang là cơ chế chính giúp tạo ra thu nhập, và tạo ra sức mua, từ tất cả người tiêu dùng mua sản phẩm và dịch vụ mà ta đang sản xuất.
In order to have a vibrant market economy, you've got to have lots and lots of consumers that are really capable of buying the products and services that are being produced. If you don't have that, then you run the risk of economic stagnation, or maybe even a declining economic spiral, as there simply aren't enough customers out there to buy the products and services being produced.
Để khuấy động thị trường kinh tế, bạn cần có rất rất nhiều người tiêu dùng có đủ khả năng chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ đang được tạo ra. Nếu bạn không có điều đó, bạn sẽ gặp rủi ro của sự đình trệ nền kinh tế, hoặc thậm chí có thể là một vòng xoáy kinh tế đang suy thoái, nếu như không có đủ khách hàng ngoài kia mua các sản phẩm và dịch vụ đang được tạo ra.
It's really important to realize that all of us as individuals rely on access to that market economy in order to be successful. You can visualize that by thinking in terms of one really exceptional person. Imagine for a moment you take, say, Steve Jobs, and you drop him on an island all by himself. On that island, he's going to be running around, gathering coconuts just like anyone else. He's really not going to be anything special, and the reason, of course, is that there is no market for him to scale his incredible talents across. So access to this market is really critical to us as individuals, and also to the entire system in terms of it being sustainable.
Điều thực sự quan trọng cần nhận ra là tất cả chúng ta là những cá nhân dựa vào sự kết nối với thị trường kinh tế để có cơ hội thành công. Để hình dung ra, bạn có thể nghĩ đến một trường hợp ngoại lệ. Tưởng tượng đến Steve Jobs, và bạn bỏ ông ấy lại một mình trên một hòn đảo. Trên hòn đảo đó, ông ấy sẽ đi loanh quanh, gom lượm trái dừa hệt như những người khác. Ông ấy sẽ chẳng làm gì đặc biệt, và dĩ nhiên lý do là bởi chẳng có thị trường nào để ông ấy phát huy tài năng phi thường của mình. Tiếp cận thị trường là yếu tố quan trọng của mỗi cá nhân, và cho cả hệ thống trong việc giữ nó bền vững.
So the question then becomes: What exactly could we do about this? And I think you can view this through a very utopian framework. You can imagine a future where we all have to work less, we have more time for leisure, more time to spend with our families, more time to do things that we find genuinely rewarding and so forth. And I think that's a terrific vision. That's something that we should absolutely strive to move toward. But at the same time, I think we have to be realistic, and we have to realize that we're very likely to face a significant income distribution problem. A lot of people are likely to be left behind. And I think that in order to solve that problem, we're ultimately going to have to find a way to decouple incomes from traditional work. And the best, more straightforward way I know to do that is some kind of a guaranteed income or universal basic income.
Vậy nên câu hỏi sẽ trở thành: Điều chính xác ta có thể làm là gì? Và tôi nghĩ bạn có thể xem nó dưới góc nhìn duy tâm. Bạn có thể hình dung một tương lai ta làm ít việc hơn, ta có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn, có nhiều thời gian cho gia đình, nhiều thời gian cho thứ mà ta thật sự trân trọng và nhiều hơn thế. Và tôi nghĩ đó là viễn cảnh kinh hoàng. Đó là thứ ta nên phấn đấu để vượt qua nó. Nhưng đồng thời, tôi nghĩ chúng ta cần thực tế, và ta cần nhận ra rằng ta đang đối mặt với vấn đề phân bổ thu nhập đáng chú ý. Rất nhiều người có vẻ đang bị bỏ lại phía sau. Và tôi nghĩ, để giải quyết vấn đề này, ta sẽ phải tìm cách tách rời thu nhập khỏi việc làm truyền thống. Và cách tốt nhất, rạch ròi hơn mà tôi biết là một loại thu nhập được đảm bảo hoặc thu nhập cơ bản phổ quát.
Now, basic income is becoming a very important idea. It's getting a lot of traction and attention, there are a lot of important pilot projects and experiments going on throughout the world. My own view is that a basic income is not a panacea; it's not necessarily a plug-and-play solution, but rather, it's a place to start. It's an idea that we can build on and refine. For example, one thing that I have written quite a lot about is the possibility of incorporating explicit incentives into a basic income. To illustrate that, imagine that you are a struggling high school student. Imagine that you are at risk of dropping out of school. And yet, suppose you know that at some point in the future, no matter what, you're going to get the same basic income as everyone else. Now, to my mind, that creates a very perverse incentive for you to simply give up and drop out of school.
Giờ, thu nhập cơ bản trở thành ý tưởng quan trọng. Nó đang nhận nhiều thành tựu và sự chú ý, có rất nhiều dự án thí điểm quan trọng và thử nghiệm trên khắp thế giới. Đối với tôi thì thu nhập cơ bản không phải thuốc chữa bách bệnh; nó không cần thiết là giải pháp sử dụng hệ thống cắm-và-chạy, đúng hơn, nó là nơi để bắt đầu. Nó là ý tưởng để ta xây dựng và chắt lọc. Ví dụ, một điều mà tôi viết nhiều về nó là khả năng của kết hợp các ưu đãi rõ ràng vào thu nhập cơ bản. Để minh hoạ nó, Nghĩ thử bạn là học sinh trung học đang gặp khó khăn. Tưởng tượng bạn đang có nguy cơ bị đuổi khỏi trường. Nhưng, bạn biết rằng đâu đó ở tương lai, bất kể chuyện gì, bạn sẽ nhận được cùng mức thu nhập cơ bản với tất cả mọi người. Trong tâm trí tôi, nó tạo ra sự khuyến khích hết sức sai lầm để bạn có thể dễ dàng từ bỏ và nghỉ học.
So I would say, let's not structure things that way. Instead, let's pay people who graduate from high school somewhat more than those who simply drop out. And we can take that idea of building incentives into a basic income, and maybe extend it to other areas. For example, we might create an incentive to work in the community to help others, or perhaps to do positive things for the environment, and so forth. So by incorporating incentives into a basic income, we might actually improve it, and also, perhaps, take at least a couple of steps towards solving another problem that I think we're quite possibly going to face in the future, and that is, how do we all find meaning and fulfillment, and how do we occupy our time in a world where perhaps there's less demand for traditional work?
Vậy tôi sẽ nói, đừng xây dựng mọi thứ theo cách đó. Thay vào đó, hãy trả cho những ai tốt nghiệp trung học mức cao hơn những người bỏ học. Và ta có thể dùng ý tưởng xây dựng sự thúc đẩy vào thu nhập cơ bản, và có thể mở rộng ở lĩnh vực khác, Ví dụ, ta có thể tạo ra sự thúc đẩy làm việc trong cộng đồng để giúp đỡ người khác, nhằm mục đích mang lại điều tích cực cho môi trường, và nhiều hơn thế. Bằng kết hợp kết hợp các ưu đãi vào thu nhập cơ bản, ta có thể thật sự cải thiện nó, và đồng thời, bước thêm vài bước đến việc giải quyết được những vấn đề khác mà tôi nghĩ có khả năng ta sẽ phải đối mặt trong tương lai, và nó là, làm thế nào để ta nhận thấy ý nghĩa và sự đủ đầy, và làm thế nào ta làm chủ được thời gian của mình khi có ít nhu cầu cho công việc truyền thống trên thế giới?
So by extending and refining a basic income, I think we can make it look better, and we can also, perhaps, make it more politically and socially acceptable and feasible -- and, of course, by doing that, we increase the odds that it will actually come to be.
Bằng cách mở rộng và tái thiết thu nhập cơ bản, tôi nghĩ ta có thể làm cho nó tốt hơn, và đồng thời, giúp nó được chấp nhận và khả thi hơn về mặt chính trị và xã hội -- và dĩ nhiên, khi làm vậy, ta làm tăng tỷ lệ cho các cơ hội có thể xảy ra.
I think one of the most fundamental, almost instinctive objections that many of us have to the idea of a basic income, or really to any significant expansion of the safety net, is this fear that we're going to end up with too many people riding in the economic cart, and not enough people pulling that cart. And yet, really, the whole point I'm making here, of course, is that in the future, machines are increasingly going to be capable of pulling that cart for us. That should give us more options for the way we structure our society and our economy, And I think eventually, it's going to go beyond simply being an option, and it's going to become an imperative. The reason, of course, is that all of this is going to put such a degree of stress on our society, and also because jobs are that mechanism that gets purchasing power to consumers so they can then drive the economy. If, in fact, that mechanism begins to erode in the future, then we're going to need to replace it with something else or we're going to face the risk that our whole system simply may not be sustainable.
Tôi nghĩ một trong những yếu tố nền tảng, gần như bản năng mà nhiều người trong chúng ta hiểu về thu nhập cơ bản, hoặc về bất kỳ việc mở rộng vùng an toàn đáng chú ý nào, là nỗi sợ sẽ có quá nhiều người lái chiếc xe đẩy kinh tế, và không có đủ người để kéo chiếc xe này. Nhưng, tổng quan ý tôi nói đến ở đây đương nhiên là trong tương lai, máy móc phát triển sẽ đủ khả năng kéo chiếc xe đó cho chúng ta. Cho chúng ta nhiều cơ hội hơn trong việc cấu trúc xã hội và nền kinh tế, Và tôi nghĩ cuối cùng, nó sẽ hơn cả một sự lựa chọn, nó sẽ trở thành lẽ dĩ nhiên. Đương nhiên, lý do là vì tất cả những điều này sẽ đặt một áp lực lên lên xã hội chúng ta, và cũng bởi vì việc làm là cơ chế mang đến sức mua cho người tiêu dùng để họ có thể dẫn dắt ngành kinh tế. Trên thực tế, nếu cơ chế đó bị xói mòn ở tương lai, thì ta sẽ cần thay thế nó với một thứ khác hoặc ta phải đối mặt với nguy cơ cả hệ thống cả ta sẽ không thể bền vững.
But the bottom line here is that I really think that solving these problems, and especially finding a way to build a future economy that works for everyone, at every level of our society, is going to be one of the most important challenges that we all face in the coming years and decades.
Nhưng đúc kết ở đây là tôi thật sự nghĩ việc giải quyết những vấn đề này, và đặc biệt là tìm cách để xây dựng nền kinh tế tương lai hiệu quả cho tất cả mọi người, với mọi tầng lớp trong xã hội, sẽ trở thành một trong những thử thách quan trọng nhất mà ta phải đối mặt trong những năm và thập kỷ sắp tới.
Thank you very much.
Cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)