Let's go back to 1957. Representatives from six European countries had come to Rome to sign the treaty that was to create the European Union. Europe was destroyed. A world war had emerged from Europe. The human suffering was unbelievable and unprecedented. Those men wanted to create a peaceful, democratic Europe, a Europe that works for its people.
Cùng trở lại năm 1957. Các đại biểu từ sáu nước Châu Âu đã đến Rome để kí hiệp ước thành lập Liên minh châu Âu. Châu Âu bấy giờ đã bị tàn phá. Một cuộc chiến toàn cầu đã nổi lên từ châu Âu. Nhân loại đã trải qua điều chưa từng có và không thể tin được. Những đại biểu đó muốn xây dựng một châu Âu hòa bình, dân chủ, Một châu Âu hoạt động vì người dân.
And one of the many building blocks in that peace project was a common European market. Already back then, they saw how markets, when left to themselves, can sort of slip into being just the private property of big businesses and cartels, meeting the needs of some businesses and not the needs of customers.
Và một trong những nền tảng trụ cột trong dự án hòa bình đó là một thị trường chung châu Âu . Trở lại về thời điểm đó, họ đã thấy cách mà thị trường, khi mà bị để mặc tự nhiên, thì có thể bị sắp đặt thành tài sản riêng của các doanh nghiệp lớn và các cuộc thỏa thuận, đáp ứng nhu cầu của một số doanh nghiệp chứ không phải nhu cầu của khách hàng.
So from our very first day, in 1957, the European Union had rules to defend fair competition. And that means competition on the merits, that you compete on the quality of your products, the prices you can offer, the services, the innovation that you produce. That's competition on the merits. You have a fair chance of making it on such a market. And it's my job, as Commissioner for Competition, to make sure that companies who do business in Europe live by those rules.
Vì vậy, ngay từ những ngày đầu tiên, vào năm 1957, Liên minh châu Âu đã ban hành một lệnh để bảo vệ cạnh tranh công bằng. Và điều đó có nghĩa rằng cạnh tranh bằng tài trí, là cách mà bạn cạnh tranh bằng chất lượng của sản phẩm, giá cả mà bạn có thể cung cấp, dịch vụ, cải tiến mà bạn có thể đem lại. Đó mới là cạnh tranh bằng tài trí. Bạn có một cơ hội như nhau để thực hiện điều đó trên thị trường. Và đó là công việc của tôi, với tư cách là một Ủy viên Cạnh tranh, là phải đảm bảo rằng các công ty kinh doanh ở châu Âu phải hoạt động theo các luật lệ.
But let's take a step back. Why do we need rules on competition at all? Why not just let businesses compete? Isn't that also the best for us if they compete freely, since more competition drives more quality, lower prices, more innovation? Well, mostly it is. But the problem is that sometimes, for businesses, competition can be inconvenient, because competition means that the race is never over, the game is never won. No matter how well you were doing in the past, there's always someone who are out there wanting to take your place. So the temptation to avoid competition is powerful. It's rooted in motives as old as Adam and Eve: in greed for yet more money, in fear of losing your position in the market and all the benefits it brings.
Nhưng hãy cùng nhìn lại. Tại sao chúng ta lại cần luật lệ trong cạnh tranh? Tại sao lại không để các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau? Đó không phải là điều tốt nhất cho chúng ta nếu họ cạnh tranh một cách tự do sao? Vì khi có nhiều cạnh tranh thì dẫn đến chất lượng tốt hơn, giả cả thấp hơn, nhiều cải tiến hơn? Vâng, hầu như là vậy. Nhưng vấn đề là thỉnh thoảng, đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh có thể bất tiện, bởi vì cạnh tranh nghĩa là cuộc đua sẽ không dứt, trò chơi không có người thắng. Cho dù trong quá khứ bạn đã làm tốt thế nào, sẽ luôn có ai đó đâu đó ngoài kia muốn chiếm chỗ bạn. Vì vậy nỗ lực để tránh sự cạnh tranh là rất quyền lực. Nó bắt nguồn từ mô típ quen thuộc như Adam và Eve: tham lam chỉ để có nhiều tiền hơn, sợ hãi vì mất vị trí trong thị trường và tất cả lợi nhuận mà nó mang lại.
And when greed and fear are linked to power, you have a dangerous mix. We see that in political life. In part of the world, the mix of greed and fear means that those who get power become reluctant to give it back. One of the many things I like and admire in our democracies are the norms that make our leaders hand over power when voters tell them to. And competition rules can do a similar thing in the market, making sure that greed and fear doesn't overcome fairness. Because those rules mean that companies cannot misuse their power to undermine competition.
Và khi sự tham lam và nỗi sợ được kết nối với quyền lực, bạn có một sự kết hợp nguy hiểm. Ta có thể thấy điều đó ở chính trị. Trong một bộ phận của thế giới, sự kết hợp giữa lòng tham và nỗi sợ nghĩa rằng những người nắm quyền sẽ lưỡng lự khi trao quyền lại. Một trong những thứ mà tôi thích và ngưỡng mộ với nền dân chủ của chúng ta là những quy phạm khiến các nhà lãnh đạo phải trao lại quyền khi những cử tri yêu cầu. Và các bộ luật cạnh tranh có vai trò tương tự trên thị trường, đảm bảo rằng lòng tham và nỗi sợ không thể lấn ác sự công bằng. Vì những bộ luật này bắt buộc các công ty không được lạm quyền để phá hoại sự cạnh tranh.
Think for a moment about your car. It has thousands of parts, from the foam that makes the seats to the electrical wiring to the light bulbs. And for many of those parts, the world's carmakers, they are dependent on only a few suppliers. So it's hardly surprising that it is kind of tempting for those suppliers to come together and fix prices. But just imagine what that could do to the final price of your new car in the market. Except, it's not imaginary. The European Commission has dealt with already seven different car parts cartels, and we're still investigating some. Here, the Department of Justice are also looking into the market for car parts, and it has called it the biggest criminal investigation it has ever pursued. But without competition rules, there would be no investigation, and there would be nothing to stop this collusion from happening and the prices of your car to go up.
Hãy dành vài giây nghĩ tới chiếc xe của bạn. Nó có hàng nghìn bộ phận, từ miếng xốp để làm ghế ngồi cho đến hệ thống dây điện và bóng đèn. Đa số những bộ phận đó, các nhà sản xuất xe trên thế giới, chỉ lệ thuộc vào một số ít nhà cung cấp. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi thật hấp dẫn cho các nhà cung cấp để bàn bạc với nhau và thống nhất giá cả. Nhưng hãy tưởng tượng điều mà nó có thể gây ra với giá niêm yết của chiếc xe mới trên thị trường. Trừ khi điều này không phải là không tưởng. Ủy ban châu Âu đã phải giải quyết về các thỏa thuận đối với bảy bộ phận khác nhau của xe hơi, và chúng tôi vẫn đang xem xét thêm một số. Tại đây, Bộ Tư pháp cũng đang xem xét thị trường của các bộ phận xe hơi, và gọi nó là cuộc điều tra hình sự lớn nhất mà Bộ từng theo đuổi. Nhưng nếu không có các bộ luật cạnh tranh, thì sẽ không có cuộc điều tra nào cả, và cũng chẳng có gì để ngăn cản vụ thông đồng này xảy ra và giá xe cứ thế mà tăng lên.
Yet it's not only companies who can undermine fair competition. Governments can do it, too. And governments do that when they hand out subsidies to just the favorite few, the selected. They may do that when they hand out subsidies -- and, of course, all financed by taxpayers -- to companies. That may be in the form of special tax treatments, like the tax benefits that firms like Fiat, Starbucks and Apple got from some governments in Europe. Those subsidies stop companies from competing on equal terms. They can mean that the companies that succeed, well, they are the companies that got the most subsidy, the ones that are the best-connected, and not, as it should be, the companies that serve consumers the best. So there are times when we need to step in to make sure that competition works the way it should. By doing that, we help the market to work fairly, because competition gives consumers the power to demand a fair deal. It means that companies know that if they cannot offer good prices or the service that's expected, well, the customers will go somewhere else.
Tuy nhiên không chỉ các công ty có thể phá hoại cạnh tranh công bằng. Chính phủ cũng có thể. Và họ làm điều đó bằng cách đưa ra các trợ cấp chỉ để ưu ái những thứ hiếm, những thứ được chọn trước. Họ có thể làm vậy khi ban hành trợ cấp -- và dĩ nhiên, trợ cấp được bỏ tiền bởi những người đóng thuế -- cho các công ty. Nó có thể là dưới hình thức đãi ngộ thuế đặc biệt, như những lợi ích về thuế mà các hãng như Fiat, Starbucks và Apple có được là từ các chính phủ ở châu Âu. Những trợ cấp này giúp các công ty tránh cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng. Tức là, các công ty mà thành công, họ là các công ty được trợ cấp nhiều nhất, các công ty mà được kết nối nhiều nhất. nếu không thì là những công ty phục vụ khách hàng tốt nhất. Vì vậy có những lúc chúng ta cần can thiệp để đảm bảo rằng cạnh tranh hoạt động theo đúng cách. Bằng cách đó, chúng ta giúp thị trường trở nên công bằng hơn, bởi vì trạnh tranh giúp người tiêu dùng có quyền yêu cầu một thỏa thuận công bằng. Nghĩa là các công ty phải biết được nếu họ không cung cấp được giá tốt hoặc dịch vụ được như mong đợi, thì khách hàng sẽ đến nơi khác.
And that sort of fairness is more important than we may sometimes realize. Very few people think about politics all the time. Some even skip it at election time. But we are all in the market. Every day, we are in the market. And we don't want businesses to agree on prices in the back office. We don't want them to divide the market between them. We don't want one big company just to shut out competitors from ever showing us what they can do.
Và loại công bằng này thì quan trọng hơn những gì chúng ta thường nhận ra. Rất ít người lúc nào cũng nghĩ về chính trị. Một số thậm chí còn ngó lơ cả thời gian bầu cử. Nhưng tất cả chúng ta đều tham gia thị trường. Hằng ngày, chúng ta tham gia thị trường. Và chúng ta không hề muốn các doanh nghiệp thống nhất giá cả trong văn phòng. Chúng ta không muốn họ phân chia thị trường với nhau. Chúng ta không muốn một công ty lớn chỉ đánh sập các đối thủ bằng cách chứng minh cho ta thấy họ có thể làm gì.
If that happens, well, obviously, we feel that someone has cheated us, that we are being ignored or taken for granted by the market. And that may undermine not only our trust in the market but also our trust in the society. In a recent survey, more than two-thirds of Europeans said that they had felt the effects of lack of competition: that the price for electricity was too high, that the price for the medicines they needed was too high, that they had no real choice if they wanted to travel by bus or by plane, or they got poor service from their internet provider. In short, they found that the market didn't treat them fairly. And that might seem like very small things, but they can give you this sense that the world isn't really fair. And they see the market, which was supposed to serve everyone, become more like the private property of a few powerful companies.
Nếu điều đó xảy ra, thì hiểu nhiên, ta cảm thấy bị lừa đảo, rằng ta đã bị bỏ lơ hoặc bị coi thường bởi chính thị trường. Và nó không chỉ phá hoại sự tín nhiệm của ta đối với thị trường mà đồng thời đối với xã hội. Trong một cuộc khảo sát gần đây, hơn hai phần ba dân số châu Âu nói rằng họ đã cảm thấy hiệu ứng của sự thiếu cạnh tranh: rằng giá điện quá cao, rằng giá thuốc cho nhu cầu quá cao, rằng họ không có lựa chọn nếu họ muốn di chuyển bằng xe buýt hoặc máy bay, rằng họ trải nghiệm dịch vụ Internet rất tệ từ các nhà cung cấp. Nói ngắn gọn, họ thấy không được đối xử công bằng bởi thị trường. Những vấn đề đó có vẻ nhỏ, nhưng nó có thể cho bạn cảm giác là thế giới thật sự không công bằng. Và khi họ thấy thị trường đáng lẽ phải phục vụ cho mọi người, trở thành thứ tài sản cá nhân của một số công ty lớn.
The market is not the society. Our societies are, of course, much, much more than the market. But lack of trust in the market can rub off on society so we lose trust in our society as well. And it may be the most important thing we have, trust. We can trust each other if we are treated as equals. If we are all to have the same chances, well, we all have to follow the same fundamental rules. Of course, some people and some businesses are more successful than others, but we do not trust in a society if the prizes are handed out even before the contest begins.
Thị trường không phải là xã hội. Xã hội của chúng ta, tất nhiên là rộng lớn hơn thị trường. Nhưng thiếu niềm tin trong thị trường có thể trở thành một phần trong xã hội vì thế chúng ta cũng mất niềm tin trong xã hội. Và đó có thể là thứ quan trọng nhất mà chúng ta có, niềm tin. Chúng ta có thể tin tưởng lẫn nhau nếu chúng ta được đối xử công bằng. Nếu tất cả chúng ta có những cơ hội giống nhau, thì chúng ta đều phải theo những luật cơ bản giống nhau. Tất nhiên, một vài người và doanh nghiệp thành công hơn những người khác, nhưng chúng ta không tin vào xã hội nếu những giải thưởng thậm chí được đề ra trước cả khi cuộc thi bắt đầu.
And this is where competition rules come in, because when we make sure that markets work fairly, then businesses compete on the merits, and that helps to build the trust that we need as citizens to feel comfortable and in control, and the trust that allows our society to work. Because without trust, everything becomes harder. Just to live our daily lives, we need to trust in strangers, to trust the banks who keep our money, the builders who build our home, the electrician who comes to fix the wiring, the doctor who treats us when we're ill, not to mention the other drivers on the road, and everyone knows that they are crazy. And yet, we have to trust them to do the right thing. And the thing is that the more our societies grow, the more important trust becomes and the harder it is to build. And that is a paradox of modern societies. And this is especially true when technology changes the way that we interact. Of course, to some degree, technology can help us to build trust in one another with ratings systems and other systems that enable the sharing economy. But technology also creates completely new challenges when they ask us not to trust in other people but to trust in algorithms and computers.
Và đó là nơi những quy định của cuộc thi bắt đầu, bởi vì khi ta chắc chắn rằng thị trường hoạt động một cách công bằng, sau đó doanh nghiệp cạnh tranh về thành tích, và điều đó giúp xây dựng niềm tin mà chúng ta cần với tư cách công dân để cảm thấy thoải mái và được kiểm soát, và niềm tin cho phép xã hội hoạt động. Bởi nếu không có niềm tin, tất cả mọi thứ trở nên khó khăn hơn. Chỉ trong cuộc sống hàng ngày chúng ta cần phải tin người lạ, tin tưởng ngân hàng giữ tiền của chúng ta, tin tưởng những người xây nhà, người thợ điện đến sửa đường dây, bác sĩ chữa bệnh cho chúng ta khi ốm, chưa đề cập đến những người lái xe trên đường, và những người biết rằng mình điên rồ. Và bất ngờ là, chúng ta phải tin họ để làm điều đúng đắn. Điểm mấu chốt đó là, xã hội của chúng ta càng phát triển, lòng tin càng trở nên quan trọng và nó càng khó để xây dựng. Đó là nghịch lý của xã hội hiện đại. Và điều đó đặc biệt đúng khi công nghệ thay đổi cách mà chúng ta tương tác. Tất nhiên, ở mức độ nào đó, công nghệ giúp chúng ta xây dựng niềm tin ở một người khác bằng hệ thống đánh giá và những hệ thống cho phép chia sẻ kinh tế. Nhưng công nghệ cũng tạo ra những thử thách hoàn toàn mới khi chúng bắt chúng ta không tin vào người khác mà tin vào những thuật toán và máy tính.
Of course, we all see and share and appreciate all the good that new technology can do us. It's a lot of good. Autonomous cars can give people with disabilities new independence. It can save us all time, and it can make a much, much better use of resources. Algorithms that rely on crunching enormous amounts of data can enable our doctors to give us a much better treatment, and many other things. But no one is going to hand over their medical data or step into a car that's driven by an algorithm unless they trust the companies that they are dealing with. And that trust isn't always there. Today, for example, less than a quarter of Europeans trust online businesses to protect their personal information.
Tất nhiên, chúng ta đều thấy và chia sẻ và tôn trọng những điều tốt đẹp mà công nghệ mang lại. Nó có rất nhiều điểm tốt. Những ô tô tự động cho người tàn tật một sự độc lập mới. Nó có thể cứu ta mọi lúc và giúp ta tận dụng tài nguyên tốt hơn. Các thuật toán dựa vào lượng dữ liệu khủng lồ có thể cho phép bác sĩ đưa ra những cách trị liệu tốt hơn, và nhiều thứ khác. Nhưng không ai định đưa dữ liệu ý tế của họ hoặc bước lên chiếc xe chạy bằng thuật toán trừ khi họ tin những công ty mà họ đang giao thiệp. Và sự tin tưởng đó không phải lúc nào cũng ở đó. Ví dụ, ngày nay, không đến một phần tư người Châu Âu tin tưởng kinh doanh trên mạng bảo vệ thông tin cá nhân của họ.
But what if people knew that they could rely on technology companies to treat them fairly? What if they knew that those companies respond to competition by trying to do better, by trying to serve consumers better, not by using their power to shut out competitors, say, by pushing their services far, far down the list of search results and promoting themselves? What if they knew that compliance with the rules was built into the algorithms by design, that the algorithm had to go to competition rules school before they were ever allowed to work, that those algorithms were designed in a way that meant that they couldn't collude, that they couldn't form their own little cartel in the black box they're working in?
Nhưng sẽ ra sao nếu mọi người biết rằng họ có thể dựa vào những công ty công nghệ để giải quyết công bằng? Sẽ ra sao nếu họ có biết rằng những công ty đó hưởng ứng cạnh tranh bằng việc cố gắng làm tốt hơn, cố gắng phục vụ khách hàng tốt hơn, không phải bằng cách sử dụng quyền lực để ngăn chặn đối thủ, mà bằng cách đẩy dịch vụ của họ ra xa danh sách kết quả tìm kiếm và quảng bá họ? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ biết rằng sự tuân thủ các quy tắc được xây dựng trong các thuật toán bằng thiết kế, rằng thuật toán phải qua những quy tắc cạnh tranh trước khi chúng được cho phép làm việc, rằng những thuật toán được thiết kế theo một cách mà chúng không thể thông đồng, không thể hình thành những sự trao đổi nhỏ trong cái hộp đen mà chúng đang vận hành?
Together with regulation, competition rules can do that. They can help us to make sure that new technology treats people fairly and that everyone can compete on a level playing field. And that can help us build the trust that we need for real innovation to flourish and for societies to develop for citizens. Because trust cannot be imposed. It has to be earned.
Cùng với quy định, quy tắc cạnh tranh có thể làm điều đó. Họ có thể giúp chúng ta chắc chắn rằng công nghệ mới đối xử mọi người một cách công bằng và mọi người có thể cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng. Và điều đó giúp chúng ta xây dựng niềm tin mà chúng ta cần cho đổi mới thật sự để phát triển phồn vinh và cho xã hội để mở mang cho công dân. Bởi vì niềm tin không thể bị áp đặt. Nó phải được tìm kiếm.
Since the very first days of the European Union, 60 years ago, our competition rules have helped to build that trust. A lot of things have changed. It's hard to say what those six representatives would have made of a smartphone. But in today's world, as well as in their world, competition makes the market work for everyone. And that is why I am convinced that real and fair competition has a vital role to play in building the trust we need to get the best of our societies, and that starts with enforcing our rules, actually just to make the market work for everyone.
Từ những ngày đầu tiên của Liên minh Châu Âu, 60 năm trước, những quy tắc cạnh tranh của chúng ta đã và đang giúp xây dựng niềm tin đó. Rất nhiều thứ đã thay đổi. Rất khó để nói về những gì sáu đại diện có thể làm với điện thoại thông minh. Nhưng trong thế giới hiện nay, cũng như trong thế giới của riêng họ, cạnh tranh thúc đẩy thị trường hoạt động cho mọi người. Và đó là tại sao tôi bị thuyết phục rằng cạnh tranh thật sự và công bằng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng niềm tin mà chúng ta cần để có một xã hội tốt nhất, và nó bắt đầu với việc tuân thủ những quy định, thật sự chỉ để làm thị trường hoạt động với tất cả mọi người.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Bruno Giussani: Thank you. Thank you, Commissioner.
Bruno Giussani: Cảm ơn. Cảm ơn, uỷ viên hội đồng.
Margrethe Vestager: It was a pleasure.
Margrethe Vestager: Thật vinh hạnh.
BG: I want to ask you two questions. The first one is about data, because I have the impression that technology and data are changing the way competition takes place and the way competition regulation is designed and enforced. Can you maybe comment on that?
BG: Tôi muốn hỏi bạn 2 câu hỏi. Câu đầu tiên về dữ liệu vì tôi có ấn tượng rằng công nghệ và dữ liệu đang thay đổi cách cạnh tranh xảy ra và quy tắc cạnh trạnh được thiết kế và tuân thủ. Bạn có thể bình luận gì về điều đó?
MV: Well, yes, it is definitely challenging us, because we both have to sharpen our tools but also to develop new tools. When we were going through the Google responses to our statement of objection, we were going through 5.2 terabytes of data. It's quite a lot. So we had to set up new systems. We had to figure out how to do this, because you cannot work the way you did just a few years ago. So we are definitely sharpening up our working methods. The other thing is that we try to distinguish between different kinds of data, because some data is extremely valuable and they will form, like, a barrier to entry in a market. Other things you can just -- it loses its value tomorrow. So we try to make sure that we never, ever underestimate the fact that data works as a currency in the market and as an asset that can be a real barrier for competition.
MV: Vâng, đúng vậy, nó thật sự đang thách thức chúng ta, vì chúng ta không chỉ đều phải mài công cụ mà còn phải phát triển những công cụ mới. Khi chúng ta trải qua những phản hổi của Google đối với tuyên bố phản đối của chúng tôi, chúng tôi đã trải qua 5.2 terabyte dữ liệu. Từng đó khá là nhiều. Vì vậy chúng tôi cần thành lập một hệ thống mới. Chúng tôi phải tìm ra cách để làm điều đó, bởi vì bạn không thể làm như cách mà bạn đã từng vài năm trước. Vì vậy chúng tôi tất nhiên đang đổi mới phương pháp làm việc. Điều khác là chúng tôi cố phân biệt giữa những loại dữ liệu khác nhau, bởi vì một vài dữ liệu vô cùng giá trị và chúng sẽ hình thành, như một rào cản để thâm nhập vào thị trường. Những thứ khác bạn chỉ có thể -- nó sẽ mất giá trị ngay ngày mai. Vì vậy chúng tôi cố đảm bảo rằng chúng ta không bao giờ đánh giá thấp sự thật rằng dữ liệu hoạt động như tiền tệ trong thị trường và tài sản có thể là rào cản thật sự cho cạnh tranh.
BG: Google. You fined them 2.8 billion euros a few months ago.
BG: Google. Bạn đã phạt họ 2,8 tỉ ơ-rô vài tháng trước.
MV: No, that was dollars. It's not so strong these days.
MV: Không, đó là đô la. Ngày nay, nó không giá trị đến vậy.
BG: Ah, well, depends on the --
BG: À vâng, phụ thuộc vào --
(Laughter)
(Tiếng cười)
Google appealed the case. The case is going to court. It will last a while. Earlier, last year, you asked Apple to pay 13 billion in back taxes, and you have also investigated other companies, including European and Russian companies, not only American companies, by far. Yet the investigations against the American companies are the ones that have attracted the most attention and they have also attracted some accusations. You have been accused, essentially, of protectionism, of jealousy, or using legislation to hit back at American companies that have conquered European markets. "The Economist" just this week on the front page writes, "Vestager Versus The Valley." How do you react to that?
Google đã kháng án. Vụ án sẽ được đưa ra toà. Nó sẽ kéo dài. Sớm hơn, năm trước, bạn đã buộc Apple trả 13 tỷ cho thuế quá hạn, và bạn cũng đã điều tra các công ty khác, bao gồm công ty Châu Âu và Nga, không chỉ mỗi các công ty Mỹ trước đó. Ngạc nhiên là những cuộc điều tra chống lại các công ty Mỹ là những vụ thu hút nhiều sự chú ý nhất và họ cũng thu hút một vài cáo trạng. Bạn đã buộc tội, về cơ bản, của chủ nghĩa bảo hộ, của sự ghen tỵ, hoặc sử dụng pháp luật để tấn công sau lưng những công ty Mỹ mà đã thống trị thị trường Châu Âu. Trên trang nhất tuần này của báo "The Economist" viết, "Vestager đối đầu với The Valley" Bạn phản ứng như thế nào?
MV: Well, first of all, I take it very seriously, because bias has no room in law enforcement. We have to prove our cases with the evidence and the facts and the jurisprudence in order also to present it to the courts. The second thing is that Europe is open for business, but not for tax evasion.
MV: Chà, đầu tiên, tôi tiếp nhận nó một cách nghiêm túc, bởi vì thiên vị không có chỗ trong thi hành luật pháp. Chúng tôi phải chứng minh những trường hợp bằng chứng cứ và sự thật và pháp luật để trình bày nó lên trên toà. Điều thứ hai là Châu Âu mở cửa cho thương mại, không phải để trốn thuế.
(Applause)
(Vỗ tay)
The thing is that we are changing, and for instance, when I ask my daughters -- they use Google as well -- "Why do you do that?" They say, "Well, because it works. It's a very good product." They would never, ever, come up with the answer, "It's because it's a US product." It's just because it works. And that is of course how it should be. But just the same, it is important that someone is looking after to say, "Well, we congratulate you while you grow and grow and grow, but congratulation stops if we find that you're misusing your position to harm competitors so that they cannot serve consumers."
Vấn đề là chúng tôi đang thay đổi, ví dụ trong trường hợp, khi tôi hỏi mấy đứa con gái tôi chúng cũng sử dụng Google -- " Tại sao con làm vậy?" Chúng nói, "Vâng, vì nó hoạt động. Nó là một sản phẩm rất tốt." Chúng sẽ không bao giờ đưa ra câu trả lời rằng, "Đó là vì nó là sản phẩm của Mỹ." Chỉ là vì nó hoạt động. Và tất nhiên là nó nên như vậy. Nhưng cũng tương tự vậy, nó quan trọng rằng ai đó cẩn thận sau khi nói, "Well, chúng tôi chúc mừng bạn khi bạn lớn lên và lớn lên và lớn lên, nhưng lời chúc mừng sẽ không còn nữa nếu chúng tôi thấy bạn đang lạm dụng vị trí của mình để làm hại đối thủ, nên họ không thể phục vụ khách hàng,"
BG: It will be a fascinating case to follow. Thank you for coming to TED.
BG: Thật là một trường hợp hấp dẫn để theo dõi. Cảm ơn bạn đã đến với TED.
MV: It was a pleasure. Thanks a lot.
MV: Đó là hân hạnh của tôi. Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)